Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đề tài yếu tố thúc đẩy đầu tư trực tiếp ra ngoài của nước đi đầu tư...

Tài liệu đề tài yếu tố thúc đẩy đầu tư trực tiếp ra ngoài của nước đi đầu tư

.PDF
54
41
69

Mô tả:

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để nền kinh tế của một nước phát triển thì vốn đầu tư là một yếu tố không thể thiếu. Bên cạnh nguồn vốn từ trong nước thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một nguồn vốn vô cùng quan trọng. yếu tố này không những quan trọng đối với các nước đang phát triển mà còn ngay cả các nước phát triển trên thế giới cũng rất quan tâm đến vẫn đề thu hút nguồn vốn này. Đặc biệt khi hiện tại Việt Nam đã trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO thì việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài FDI là hết sức cần thiết. Tuy nhiên có rất nhiều yếu tố tác động cũng như các nhân tố thúc đẩy quyết định đầu tư trực tiếp nước ngoài, gồm cả những yếu tố của môi trường đầu tư quốc tế, của nước đi đầu tư và cả nước nhận đầu tư… 1. 1. Một số khái niệm - Đầu tư là việc sử dụng một lượng tài sản nhất định như vốn, công nghệ, đất đai,…vào một hoạt động kinh tế cụ thể nhằm tạo ra một hoặc nhiều sản phẩm cho xã hội để thu lợi nhuận. - Đầu tư nước ngoài là sự di chuyển tài sản như vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý,…từ nước này sang nước khác để kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận cáo trên phạm vi toàn cầu. - Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment, viết tắt là FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư hay nước sở tại) có được một tài sản ở một nước khác (nước nhận đầu tư hay nước chủ nhà) cùng với quyền quản lý tài sản đó. 1 1.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những đặc điểm chủ yếu sau: Thứ nhất, FDI gắn liền với việc di chuyển vốn đầu tư, tức là tiền và các loại tài sản khác giữa các quốc gia, hệ quả là làm tăng lượng tiền và tài sản của nền kinh tế nước tiếp nhận đầu tư và làm giảm lượng tiền và tài sản nước đi đầu tư. Thứ hai là đầu tư trực tiếp nước ngoài được tiến hành thông qua việc bỏ vốn thành lập các doanh nghiệp mới (liên doanh hoặc sở hữu 100% vốn), hợp đồng hợp tác kinh doanh, mua lại các chi nhánh hoặc doanh nghiệp hiện có, mua cổ phiếu ở mức khống chế hoặc tiến hành các hoạt động hợp nhất và chuyển nhượng doanh nghiệp. Thứ ba,nhà đầu tư nước ngoài là chủ sở hữu hoàn toàn vốn đầu tư hoặc cùng sở hữu vốn đầu tư với một tỷ lệ nhất định đủ mức tham gia quản lý trực tiếp hoạt động của doanh nghiệp. Thứ tư là hoạt động đầu tư của tư nhân, chịu sự điều tiết của các quan hệ thị trường trên quy mô toàn cầu, ít bị ảnh hưởng của các mối quan hệ chính trị giữa các nước, các chính phủ và mục tiêu cơ bản luôn là đạt lợi nhuận cao. Thứ năm,nhà đầu tư trực tiếp kiểm soát và điều hành quá trình vận động của dòng vốn đầu tư. Thứ sáu,FDI bao gồm hoạt động đầu tư từ nước ngoài vào trong nước và đầu tư từ trong nước ra nước ngoài, do vậy bao gồm cả vốn di chuyển vào một nước và dòng vốn di chuyển ra khỏi nền kinh tế của nước đó. Thứ bảy, FDI chủ yếu là do các công ty xuyên quốc gia thực hiện. Các đặc điểm nêu trên mang tính chất chung cho tất cả các hoạt động FDI trên toàn thế giới. Đối với Việt Nam, quá trình tiếp nhận FDI diễn ra đã được 20 năm và những đặc điểm nêu trên cũng đã thể hiện rõ nét. Chính những đặc điểm này đòi hỏi thể chế pháp lý, môi trường và chính sách thu hút FDI phải chú ý để 2 vừa thực hiện mục tiêu thu hút đầu tư, vừa bảo đảm mối quan hệ cân đối giữa kênh đầu tư FDI với các kênh đầu tư khác của nền kinh tế. 1.3. Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.3.1. Phân theo hình thức nắm vốn chủ sở hữu 1.3.1.1. Phân theo mục đích đầu tư Nếu xét theo mục đích đầu tư, FDI được phân thành 2 loại chính: Đầu tư theo chiều ngang (Horizontal Integration-HI) và Đầu tư theo chiều dọc (Vertical Integration - VI). Hình thức HI phù hợp với các chủ đầu tư có lợi thế cạnh tranh, ví dụ về công nghệ, kỹ năng quản lý,…trong sản xuất một loại sản phẩm nào đó. Với lợi thế này, họ có thể kiếm lợi nhuận cao khi chuyển sản xuất sản phẩm ra nước ngoài. Mục đích của hình thức này là mở rộng và thôn tính thị trường ở nước ngoài đối với cùng loại sản phẩm có lợi thế cạnh tranh ở nước ngoài, do đó thường dẫn đến cạnh tranh độc quyền. Đây là hình thức đầu tư ra nước ngoài điển hình của Mỹ và được thực hiện chủ yếu giữa các nước phát triển. Khác với hình thức HI, hình thức VI là đầu tư ra nước ngoài với mục đích là khai thác nguồn nguyên liệu tự nhiên và các yếu tố sản xuất đầu vào rẻ như lao động, đất đai,…Khi đầu tư ra nước ngoài, các chủ đầu tư thường chú ý đến khai thác các lợi thế cạnh tranh của các yếu tố đầu vào giữa các khâu sản xuất ra một loại sản phẩm trong phân công lao động quốc tế. Do đó, các sản phẩm thường được hoàn thiện qua các khâu lắp ráp ở các nước nhận đầu tư. Sau đó các sản phẩm này có thể lại được khẩu về nước đầu tư hoặc xuất khẩu sang nước khác. Đây là hình thức đầu tư ra nước ngoài điển hình của Nhật Bản, theo kiểu mô hình đàn nhạn bay, và được thực hiện khá phổ biến ở các nước đang phát triển. Ví dụ: Grand-place Việt Nam (GPV) – một ví dụ về đầu tư theo chiều dọc 3 Grand-place Việt Nam là một công ty được thành lập bởi BIO (Belgian Investment Company For Developing Countries) chuyên về socola được sản xuất tại Việt Nam, từ khâu trồng ca cao cho đến khi sản phẩm cuối cùng được hình thành. Bắt đầu hoạt động tại Việt nam năm 1994, GPV là nhà sản xuất socola Bỉ. Đến năm 2009, công ty đã sản xuất và cung cấp cho các khách sạn, nhà hàngbánh kẹo, tiệm kem,…trong nước hơn 3000 tấn mỗi năm. Thêm vào đó, GPV còn có sản phẩm xuất khẩu sang nhiều nước ở Bắc Mỹ và Châu Á. Nhận thấy điều kiện cũng như tiềm năng trồng ca cao ở Việt Nam, BIO đã hỗ trợ, hướng dẫn người đân địa phương về kĩ thuật trồng và chế biến ca cao; sau đó đề xuất chiến lược sản xuất socola ngay tại khu vực ca cap được trồng. Bằng việc cho ra đời loại ca cao “made in Vietnam”, GPV đã tạo được giá trị gia tăng cao thông qua việc tận dụng nguồn nguyên liệu địa phương cùng những kiến thức và công nghệ BIO đã chuyển giao trong quá trình sản xuất. Với chiến lược kinh doanh như vậy, GPV đa giảm thiểu được chi phí nhập khẩu nguyên liệu đầu vào, gia tăng hiệu quả sản xuất cũng như giá trị xuất khẩu của socola. (Nguồn: website chính thức của BIO www.bio-invest.be) 1.3.1.2. Phân theo chiến lược đầu tư Xét theo chiến lược đầu tư, đầu tư được thực hiện qua 2 kênh chủ yếu là Đầu tư mới (Greenfield Investment – GI) và Mua lại & sáp nhập (Mergers and Acquisitions – M&A). Đầu tư mới là việc các chủ đầu tư thực hiện đầu tư mới ở nước ngoài thông qua việc xây dựng các doanh nghiệp mới. Đây là kênh đầu tư truyền thống của FDI và cũng là kênh chủ yếu để các nhà đầu tư các nước phát triển đầu tư vào nước đang phát triển. Ngược lại, kênh M&A là các chủ đầu tư tiến hành đầu tư thông qua việc mua lại và sáp nhập các doanh nghiệp hiện có ở nước ngoài. Kênh đầu tư này chủ yếu 4 được thực hiện ở các nước phát triển, các nước mới công nghiệp hóa và rất phổ biến trong những năm gần đây. Ta có thể so sánh một chút về 2 hình thức trên, cả về ưu và nhược điểm. Về vấn đề bổ sung vốn đầu tư, trong khi hình thức GI bổ sung ngay một lượng vốn đầu tư nhất định cho nước nhận đầu tư thì hình thức M&A lại chủ yếu là chuyển sở hữu từ các doanh nghiệp đang tồn tại ở nước chủ nhà cho các công ty nước ngoài. Tuy nhiên về dài hạn, hình thức M&A này cũng sẽ thu hút mạnh được nguồn vốn từ bên ngoài cho nước chủ nhà nhờ mở rộng quy mô hoạt động của họ. Thứ hai, về vấn đề tạo việc làm, hình thức GI tạo ngay được việc làm cho nước chủ nhà, trong khi hình thức M&A không những không tạo được việc làm ngay mà còn có thể tăng thêm tình trạng căng thẳng về việc làm cũng như vấn đề thất nghiệp. Vấn đề thứ ba là chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. GI tác động trực tiếp đến thay đổi cơ cấu ngành kinh tế thông qua việc xây dựng các doanh nghiệp mới, trong khi đó M&A lại không tác động đến trong ngắn hạn. Cuối cùng là vấn đề về cạnh tranh và an ninh quốc gia. Trong khi GI thúc đẩy cạnh tranh thì M&A lại không tác động đáng kể đến tình trạng cạnh tranh về mặt ngắn hạn, nhưng về dài hạn lại có thể làm tăng khả năng cạnh tranh độc quyền. Mặt khác, M&A có thể ảnh hưởng đến an ninh của nước chủ nhà nhiều hơn hình thức GI bởi vì tài sản của nước chủ nhà rơi vào tay của người nước ngoài. 1.3.1.3. Phân theo tính chất sở hữu Trong luật đầu tư của các nước chủ nhà có quy định tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài tùy theo lĩnh vực đầu tư. Xét theo mức độ nắm giữ cổ phần và mức độ tham gia vào hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài, FDI có thể được thực hiện dưới hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp 5 liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp đồng xây dựng – khai thác – chuyển giao (BOT), công ty cổ phần có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, mua lại và sáp nhập, công ty mẹ - con, chi nhánh công ty nước ngoài,… - Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài Là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Về mặt pháp lý, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc cổ phần, có tư cách pháp nhân theo pháp luật tại nước chủ nhà, chịu sự kiểm soát của pháp luật nước sở tại. Về mặt kinh doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động theo sự điều hành, quản lý của chủ đầu tư nước ngoài nhưng vẫn phải tùy thuộc vào điều kiện môi trường kinh doanh tại nước sở tại như điều kiện về chính trị, kinh tế, luật pháp, văn hóa, mức độ cạnh tranh,… Với hình thức kinh doanh như thế này, nước chủ nhà có thê giải quyết được công ăn việc làm mà không cần bỏ đầu tư vốn cũng như có thể tập trung thu hút vốn, công nghệ nước ngoài vào những lĩnh vực khuyến khích xuất khẩu. Tuy nhiên nước chủ nhà khó có thể tiếp thu kinh nghiệm quản lý và công nghệ nước ngoài để nâng cao trình độ quản lý, cán bộ kỹ thuật ở các doanh nghiệp trong nước như so với hình thức liên doanh. Đồi với nhà đầu tư nước ngoài, hình thức đầu tư 100% giúp họ chủ động trong quản lý điều hành doanh nghiệp, chủ động tuyển chọn và đào tạo nguồn nhân lực, triển khai nhanh dự án đầu tư để thực hiện chiến lược toàn cầu của tập đoàn. Nhưng đồng thời, chủ đầu tư cũng phải gánh chịu toàn bộ rủi ro và chi phí nhiều hơn cho nghiên cứu tiếp cận một thị trường mới. - Doanh nghiệp liên doanh 6 Là doanh nghiệp được thành lập tại nước chủ nhà trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký kết giữa bên hoặc các bên với nước chủ nhà với bên hoặc các bên ngoài đầu tư, kinh doanh tại nước chủ nhà. Về mặt pháp lý, doanh nghiệp liên doanh là một loại công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước chủ nhà; mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi vốn góp của mình vào vốn pháp định của công ty liên doanh. Về phương diện kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh do các bên tham gia góp vốn, cùng quản lý, cùng phân phối lợi nhuận và cũng cùng chia sẻ rủi rophát sinh. Lợi nhuận thu được và rủi ro gánh chịu được phân chia theo tỷ lệ góp vốn. Thông qua hình thức liên doanh, nước chủ nhà sẽ kiểm soát và học được kinh nghiệm trực tiếp quản lý tiên tiến của nhà đầu tư nước ngoài, đông thời được chia sẻ lợi nhuận với các nhà chủ đầu tư nước ngoài. Còn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, đầu tư dưới dạng doanh nghiệp liên doanh giúp họ tận dụng được hệ thống phân phối có sẵn của các đối tác nước chủ nhà, được đầu tư vào những lĩnh vực kinh doanh dễ thu lời, lĩnh vực bị cấm hoặc hạn chế đối với hình thức khác. Họ cũng không mất thời gian và chi phí trong việc nghiên cứu thị trường mới và xây dựng các mối quan hệ đồng thời chia sẻ được chi phí và rủi ro đầu tư với đối tác nước chủ nhà. - Hợp đồng hợp tác kinh doanh (hợp doanh) Là văn bản được kí kết giữa hai bên hoặc nhiều bên (gọi là các bên hợp doanh) quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên (nước ngoài và sở tại) để tiến hành đầu tư kinh doanh ở nước chủ nhà mà không thành lập pháp nhân mới. Về mặt pháp lý, hợp doanh là một thực thể kinh doanh hoạt động theo pháp luật của nước sở tại, chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước sở tại. Về mặt kinh 7 doanh, các bên thực hiện các hoạt động kinh doanh trên cơ sở kí kết một hợp đồng hợp tác mà không hình thành một pháp nhân mới. Với kết quả kinh doanh thu được, hình thức hợp doanh phân chia theo tỉ lệ góp vốn hoặc do thỏa thuận giữa các bên. Nghĩa vụ tài chính đối với nước sở tại được các bên hợp doanh thực hiện một các riêng rẽ. Hình thức này có ưu điểm giúp nước nhận đầu tư giải quyết tình trạng thiếu vốn, thiếu công nghệ, tạo ra thị trường mới nhưng vẫn đảm bảo được an ninh quốc gia và nắm được quyền điều hành dự án. Tuy nhiên rất khó thu hút được đầu tư dưới hình thức này và chỉ thực hiện được với một số lĩnh vực dễ sinh lời. Đối với bên ngoài, hình thức hợp doanh giúp tận dụng sẵn hệ thống phân phối có sẵn của đối phương nước sở tại, giúp dễ thâm nhập hơn vào những lĩnh vực hạn chế đầu tư và thâm nhập thị trường truyền thống của nước chủ nhà. Nhà đầu tư cũng không mất thời gian và chi phí cho việc nghiên cứu thị trường mới, xấy dựng các mối quan hệ, không bị tác động lớn do khác biệt về mặt văn hóa, chia sẻ được phí rủi ro và đầu tư. Tuy nhiên, nhược điểm chính của hình thức này là nhà đầu tư nước ngoài không được trực tiếp quản lý điều hành dự án và mối quan hệ hợp tác với đối tác nước sở tại thiếu tính chắc chắn. Chính điều này đã làm họ trở nên e dè hơn khi đầu tư theo hình thức này. Ví dụ: Hợp đồng hợp tác kinh doanh của Tổng công ty Xây lắp Dầu khí Nghệ An. Hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa Tổng công ty Xây lắp Dầu khí Nghệ An (PVNC), thành viên của Tổng công ty Xây lắp Dầu khí Việt Nam và Công ty CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN Turbo – one Hàn Quốc được kí kết vào ngày 28/06/2012. Theo nội dung hợp đồng, hai bên thống nhất đầu tư nâng cấp trang thiết bị tại nhà mày đóng tàu Nghệ An với tổng mức đầu tưu giai đoạn I dự kiến là 4 triệu USD. Phía Turbo – one sẽ trả chi phí cho PVNC 15% tổng giá trị đầu tư nâng cấp nhà máy đóng tàu, tương đương 600.000 USD, từ tháng 7/2012 8 đến tháng 12/2012. Hai bên dự kiến đi vào chính thức sản xuất, thực hiện đơn hàng đầu tiên vào tháng 8/2012. Phía PVNC có trách nhiệm quản lý, vận hành nhà máy, trực tiếp thực hiện các công việc tại nhà máy như lắp ráp, kiểm tra, xuất xưởng; chịu trách nhiệm đầu tư, nâng cấp trang thiết bị tại nhà máy đảm bảo các điều kiện kỹ thuật để thực hiện các đơn hàng, đồng thời cung cấp cán bộ, công nhân đủ số lượng, chất lượng để thực hiện dự án. Phía Turbo – one sẽ chịu trách nhiệm tìm kiếm đơn đặt hàng đảm bảo kế hoạch mục tiêu mà các bên đã thống nhất; phụ trách thiết kế, hỗ trợ kỹ thuật và cung cấp các thiết bị chính của tàu và hỗ trợ đào tạo nhân công (Nguồn: website của Tổng công ty Xây lắp Dầu khí Nghệ An http://www.pvnc.com.vn). - Hợp đồng BOT (Xây dựng – Khai thác – Chuyển giao) Là văn bản kí kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài với các cơ quan có thẩm quyền của nước chủ nhà để đầu tư xây dựng, mở rộng nâng cấp, khai thác công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định (thu hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý), sau đó chuyển giao không bồi hoàn toàn bộ công trình cho nước chủ nhà. Đặc trưng quan trọng của hình thức này là: cơ sở pháp lý là hợp đồng, vốn đầu tư của nước ngoài, hoạt động dưới các hình thức doanh nghiệp liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài, chuyển giao không bồi hoàn cho nước chủ nhà, đối tượng là các công trình cơ sở hạ tầng. Ngoài ra, BOT còn có một số dạng khác như BOT (xây dựng – chuyển giao - khai thác) được hình thành cũng như tương tự BOT, nhưng sau khi xây dựng xong công trình, nhà đầu tư nước ngoài giao lại cho nước chủ nhà, chính phủ đầu tư nước chủ nhà dành cho nhà đầu tư nước ngoài quyền khai thác công trình đó trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý; BT (xây dựng – chuyển giao) được hình thành cũng giống như BOT và BTO 9 nhưng sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư bàn gaio lại công trình cho nước chủ nhà, chính phủ nước chủ nhà trả cho nhà đầu tư nước ngoài chi phí liên quan tới công trình và một tỷ lệ lãi hợp lý. Qua hình thức đầu tư nói trên, nhiều quốc gia nhận đầu tư có thể thu hút được vốn đầu tư vào những cơ sở hạ tầng đòi hỏi có vốn lớn, do đó giảm được nguy cơ sức ép cho ngân sách nhà nước, đồng thời nhanh chóng có được công trình kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh, giúp khai thác nguồn lực trong nước và thu hút thêm FDI để phát triển kinh tế. Nhược điểm của hình thức trên là khó tiếp nhận kinh nghiệm quản lý và khó kiểm soát được công trình. Nhà nước cũng phải chịu mọi rủi ro ngoài khả năng kiểm soát của nhà đầu tư. Đối với nhà đầu tư nước ngoài, do được chủ động trong việc quản lý điều hành và tự chủ kinh doanh, hiệu quả của vốn đầu tư của họ được đảm bảo và lợi nhuận không bị chia sẻ. Ngoài ra các dự án đầu tư ở nước sở tại đảm bảo và tránh được rủi ro bất thường ngoài khả năng kiểm soát. - Công ty cổ phần có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần khác nhau được gọi là cổ phần, các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn góp. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân có số lượng tối đa không hạn chế, từ 3 trở lên. Công ty có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng và các cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác. Công ty cổ phần có đại hội cổ đông, hội đồng quản trị và giám đốc. Đại hội cổ đông bao gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết định cao nhất. Ở một số quốc gia công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo cách: thành lập mới, cổ phần hóa doanh nghiệp FDI (doanh nghiệp liên doanh 10 và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) đang hoạt động, mua lại cổ phần của doanh nghiệp trong nước cổ phần hóa. - Mua lại và Sáp nhập (M&A) Đây là hình thức đầu tư mà các nhà đầu tư chủ yếu tiến hành đầu tư thông qua việc mua lại và sáp nhập các doanh nghiệp hiện có ở nước ngoài. Đầu tư theo hình thức M&A là xu hướng phổ biến hiện nay và hình thức này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng FDI trên thế giới. Phần lớn các vụ M&A được thực hiện giữa TNCs lớn và tập trung vào các lĩnh vực như công nghiệp ô tô, dược phẩm, viễn thông và tài chính ở các nước phát triển. - Công ty mẹ - con (Holding company) Đây là một tổ chức các công ty gồm “công ty mẹ” và các “công ty con, cháu”. Mối liên kết giữa công ty mẹ và công ty con, cháu là mối liên kết về vốn. công ty mẹ sở hữu vốn cổ phần trong các công ty con, cháu. Nó chi phối các công ty con, cháu về mặt tài chính và chiến lược phát triển. Do vậy, lượng sở hữu vốn của các của các công ty con, cháu là sở hữu hỗn hợp (nhiều chủ) nhưng có một chủ (công ty mẹ) đóng vai trò khống chế và chi phối tài chính. Dạng phổ biến của công ty mẹ - con là công ty cổ phần và các công ty con, cháu vẫn có tư cách pháp nhân độc lập. - Chi nhánh công ty nước ngoài Khác với công ty con 100% vốn nước ngoài, hình thức chi nhánh không phải là một pháp nhân độc lập và nếu như trách nhiệm của công ty con chỉ giới hạn trong phạm vi tài sản của nước sở tại thì trách nhiệm của chi nhánh, theo quy định của một số nước, không giới hạn trong phạm vi tài sản của một chi nhánh, mà còn được mở rộng đến cả phần tài sản của công ty mẹ ở nước ngoài. 11 1.3.2. Phân theo hình thức không nắm vốn chủ sở hữu Ngoài các hình thức đầu tư trực tiếp nói trên, nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể tham gia các hình thức như nhượng quyền thương mại (Franchising), cấp phép ( Licensing) , thuê ngoài (Outsourcing),… Đây là các hình thức mà thông qua đó các công ty đa quốc gia điều phối các hoạt động trong chuỗi giá trị toàn cầu của họ và ảnh hưởng đến việc quản lý công ty của nước chủ nhà mà không cần sở hữu cổ phần trong các công ty này. Các hoạt động đầu tư không nắm vốn chủ sở hữu xuyên biên giới diễn ra trên toàn thế giới và đặc biệt quan trọng ở các nước đang phát triển. Các hoạt động này tạo ra được hơn 2000 tỷ USD trong năm 2009, trong đó hợp đồng sản xuất và dịch vụ thuê ngoài chiếm khoảng 1100 – 1300 tỷ USD, nhượng quyền thương mại chiếm khoảng 330 – 350 tỷ USD và hoạt động cấp phép chiếm khoảng 340 – 360 tỷ USD. - Nhượng quyền thương mại (Franchising) Hình thức này là quan hệ hợp đồng trong đó một công ty quốc tế (bên nhượng quyền) cho phép công ty nước chủ nhà ( bên nhận quyền) vận hành một doanh nghiệp theo hệ thống mô hình được phát triển bởi bên nhượng quyền bằng cách trả một khoản chi phí hoặc đánh dấu lên các hàng hóa, dịch vụ được cung cấp bởi bên nhượng quyền. Nói cách khác , bên nhượng quyền (franchisor) sẽ chuyển mô hình kinh doanh, nhãn hiệu hàng háo, dịch vụ, bí quyết kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo cho bên nhận quyền (franchisee). Bên nhận quyền sau khi kí hợp đồng nhượng quyền được phép khai thác kinh doanh trên một không gian địa lý nhất định và phải trả một khoản phí nhượng quyền và tỷ lệ phần trăm doanh thu định ký cho bên nhượng quyền trong một khoảng thời gian nhất định. Bên cạnh việc tiến hành hoạt động kinh doanh độc lập, nhiều cá nahan và doanh nghiệp lựa chọn con đường đơn giản hơn để khởi đầu kinh doanh, đó là gia nhập hệ thống nhượng quyền thương mại (franchising netwwork). Ví dụ tiêu biểu của hình thức 12 này có thể kể đến hệ thống tiệm đồ ăn nhanh McDonald, KFC,… hoặc hệ thống các tiệm cà phê Trung Nguyên, Starbuck hoặc hệ thống các siêu thị bán lẻ,… - Cấp phép (Licensing) Là hợp đồng chuyển giao một số quyền tài sản nào đó giữa hai hoặc nhiều bên theo những điều kiện nhất định về việc phân chia quyền và nghĩa vụ cụ thể giữa những bên đó. Theo hợp đồng này, một công ty quốc tế sẽ cấp phép cho một công ty nước chủ nhà quyền sở hữu trí tuệ, ví dụ như bản quyền, bí mật thương mại,…trên cơ sở nước chủ nhà phải thanh toán phí sử dụng. Giấy cấp phép có thể có nhiều hình thức khác nhau, bao gồm giấy cấp phép thương hiệu, cấp giấy phép sản phẩm và cấp giấy phép quy trình. - Thuê ngoài (Outsourcing) Là việc một thể nhân hay pháp nhân chuyển giao việc thực hiện toàn bộ một chức năng sản xuất – kinh doanh nào đó, bao gồm cả tài sản vật chất và nhân lực cho nhà cung cấp dịch vụ bên ngoài chuyên môn hóa trong lĩnh vực đó. Các nước đang phát triển ở Châu Á là địa điểm hàng đầu làm dịch vụ gia công cho các tạp đoàn ở các nước lớn phát triển. Riêng 3 quốc gia như Ấn Độ, Phi-lip-pin và Trung Quốc đã chiếm 65% doanh thu xuất khẩu toàn cầu trong năm 2009, nhờ đáng kể vào xuất khẩu hàng gia công. Có thể kể đến một số trung tâm nhận thuê người lớn trên thế giới là Bangalore, Mumbai, New Delhi, Chennai, Pune của Ấn Độ; Manila, Cebu của Phi-líp-pin; Dublin của Irelan; Thượng Hải của Trung Quốc,… 1.4. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài Mặc dù FDI vẫn chịu chi phối của Chính Phủ nhưng FDI ít lệ thuộc vào mối quan hệ chính trị giữa hai bên. Mặt khác bên nước ngoài trực tiếp tham gia quản lý sản xuất , kinhh doanh nên mức độ khả thi của dự án khá cao, đặc biệt là trong việc tiếp cận thị trường quốc tế để mở rộng xuất khẩu.Do quyền lợi 13 gắn chặt với dự án , họ quan tâm tới hiệu quả kinh doạnh nên có thể lựa chọn công nghệ thích hợp , nâng cao trình độ quản lý và tay nghề của công nhân . Vì vậy , FDI ngày càng có vai trò to lớn đối với việc thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế ở các nước đầu tư và các nước nhận đầu tư . - Đối với nước đầu tư Đầu tư ra nước ngoài giúp nâng cao hiệu quả sử dụng những lợi thế sản xuất ở các nước tiếp nhận đầu tư, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao tỷ suất lợi nhuận của vốn đầu tư và xây dựng được thị trường cung cấp nguyên liệu ổn định với giá phải chăng. Mặt khác đầu tư ra nước ngoài giúp bành trướng sức mạnh kinh tế và nâng cao uy tín chính trị. Thông qua việc xây dựng nhà máy sản xuất và thị trường tiêu thụ ở nước ngoài mà các nước đầu tư mở rộng được thị trường tiêu thụ, tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước. - Đối với nước nhận đầu tư Đối với các nước kinh tế phát triển, FDI có tác dụng lớn trong việc giải quyết những khó khăn về kinh tế, xã hội như thất nghiệp và lạm phát…Qua FDI các tổ chức kinh tế nước ngoài mua lại những công ty doanh nghiệp có nguy cơ phá sản, giúp cải thiện tình hình thanh toán và tạo công ăn việc làm cho người lao động. FDI còn tạo điều kiện tăng thu ngân sách dưới hình thức các loại thuế để cải thiện tình hình bội chi ngân sách, tạo ra môi trường cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển kinh tế và thương mại, giúp người lao động và cán bộ quản lý học hỏi kinh nghiệm quản lý của các nước khác. Đối với các nước đang phát triển: FDI giúp đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế thông qua việc tao ra những doanh nghiệp mới, thu hút thêm lao động, giải quyết một phần nạn thất nghiệp ở những nước này. FDI giúp các nước đang phát triển khắc phục được tình trạng thiếu vốn kéo dài. Nhờ vậy mà mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển to lớn với nguồn tài chính khan 14 hiếm được giải quyết, đặc biệt là trong thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Theo sau FDI là máy móc thiết bị và công nghệ mới giúp các nước đang phát triển tiếp cận với khoa học-kỹ thuật mới. Quá trình đưa công nghệ vào sản xuất giúp tiết kiệm được chi phí và nâng cao khả năng cạnh tranh của các nước đang phát triển trên thị trường quốc tế. Cùng với FDI, những kiến thức quản lý kinh tế, xã hội hiện đại được du nhập vào các nước đang phát triển, các tổ chức sản xuất trong nứơc bắt kịp phương thức quản lý công nghiệp hiện đại, lực lượng lao động quen dần với phong cách làm việc công nghiệp cũng như hình thành dần đội ngũ những nhà doanh nghiệp giỏi. FDI giúp các nước đang phát triển mở cửa thị trường hàng hoá nước ngoài và đi kèm với nó là những hoạt động Marketing được mở rộng không ngừng. Ngoài ra, FDI còn giúp tăng thu cho ngân sách nhà nước thông qua việc đánh thuế các công ty nước ngoài. Từ đó các nước đang phát triển có nhiều khả năng hơn trong việc huy động nguồn tài chính cho các dự án phát triển. 15 CHƯƠNG 2: CÁC NHÂN TỐ THÚC ĐẨY QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA NƯỚC ĐI ĐẦU TƯ 2.1. Lợi thế của quốc gia 2.1.1. Tiềm lực kinh tế Một quốc gia sẽ chưa thể hoạch định đầu tư ra nước ngoài khi khả năng tích lũy nội địa còn quá thấp. Điều này có nghĩa là việc nhu cầu vốn đầu tư của nền kinh tế còn rất cao. Trái lại, khi nền tế có khả năng tích lũy cao, mức độ sự trữ ngoại tệ lớn thì lúc đó sẽ có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài để khai thác hiệu quả của nguồn vốn dư thừa này. Bởi vậy, mức độ tích lũy của nền kinh tế có vai trò như tăng hoặc giảm áp lực thúc đẩy dòng vốn đầu tư nước ngoài. Thực tế cho thấy, những nước có đầu tư ra nước ngoài lớn thường là những nước có mức tích lũy cao. Ví dụ: Đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản. Hiện nay Nhật Bản đã tự do hóa hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Tuy nhiên nước này thực hiện chính sách mở cửa đầu tư đầu tư ra nước ngoài theo một lộ trình chắc chắn và có tính toán. Việc tự do hóa đầu tư ra nước ngoài chỉ thực hiện 16 khi nền kinh tế và các doanh nghiệp Nhật Bản có tiềm lực tài chính mạnh, quy mô sản xuất tốt và cần mở rộng phạm vi ảnh hưởng ra bên ngoài để tăng năng lực sản xuất cho nền kinh tế trong nước. Thực tế cho thấy đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản tăng tỷ lệ thuận so với tỉ lệ sự trữ ngoại tệ của nước này. Năm 2008 đầu tư ra nước ngoài của Nhật bản vượt qua con số 130 tỷ đô la , ở thời điểm đó, dự trữ ngoại tệ của Nhật Bản cũng vượt ngưỡng 1000 tỷ đô la. 2.1.2. Tiềm lực khoa học và công nghệ Vì đầu tư nước ngoài luôn gắn liền với chuyển giao công nghệ nên nước đầu tư có tiềm năng công nghệ lớn sẽ khuyến khích các công ty của họ đầu tư ra nước ngoài để tiêu thụ nguồn công nghệ này. Thực tế cho thấy những nước đầu tư ra nước ngoài lớn thường là những nước chiếm tỷ trọng cung cấp công nghệ cao trên thị trường công nghệ thế giới. FDI không chỉ đi theo hướng từ nước phát triển hơn sang nước kém phát triển hơn mà thậm chí chiều ngược lại còn mạnh mẽ hơn nữa: Nhật Bản là nước tích cực đầu tư trực tiếp vào Mỹ để khai thác đội ngũ chuyên gia ở Mỹ. Ví dụ, các công ty ô tô của Nhật Bản đã mở các bộ phận thiết kế xe ở Mỹ để sử dụng các chuyên gia người Mỹ. Các công ty máy tính của Nhật Bản cũng vậy. Không chỉ Nhật Bản đầu tư vào Mỹ, các nước công nghiệp phát triển khác cũng có chính sách tương tự. Trung Quốc gần đây đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, trong đó có đầu tư vào Mỹ. Việc công ty đa quốc gia quốc tịch Trung Quốc là Lenovo mua bộ phận sản xuất máy tính xách tay của công ty đa quốc gia mang quốc tịch Mỹ là IBM được xem là một chiến lược để Lenovo tiếp cận công nghệ sản xuất máy tính ưu việt của IBM. Hay việc TCL (Trung Quốc) trong sáp nhập với Thompson (Pháp) thành TCL-Thompson Electronics, việc National Offshore Oil Corporation 17 (Trung Quốc) trong ngành khai thác dầu lửa mua lại Unocal (Mỹ) cũng với chiến lược như vậy. 2.1.3. Các chính sách xã hội Thông thường, đầu tư ra nước ngoài và tạo việc làm trong nước có mối quan hệ ngược chiều nhau. Việc chuyển vốn ra nước ngoài dẫn tới giảm đầu tư nội địa, do đó làm giảm cơ hội việc làm trong nước. vì thế có khả năng gia tăng tình trạng thất nghiệp và các vẫn đề xã hội khác. Bởi vậy, nếu nước đi đầu tư có mức trợ cấp phúc lợi xã hội cao, chủ yếu là trợ cấp thất nghiệp thì sẽ giảm được làm sóng phản đối chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài. 2.1.4. Khả năng tiếp cận và khai thác nguồn lực - Về tìm kiếm nguồn lực: Mục đích của đầu tư là để có được nguồn lực chất lượng cao với chi phí thấp hơn so với nước sở tại, lao động phổ thông, trung bình hoặc đội ngũ có tay nghề cao, chuyên môn hóa và có tác phong lao động kỉ luật.Nhờ vậy, nhà đầu tư có thể tiết kiệm được chi phí đào tạo nhân lực và có khả năng sự thích ứng với công việc mới của người lao động sẽ cao hơn. - Tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên Để có nguồn nguyên liệu thô, nhiều công ty đa quốc gia tìm cách đầu tư vào những nước có nguồn tài nguyên phong phú. Các nhà đầu tư sẽ chú ý hơn nếu nước nhận đầu tư có các điều kiện như nguồn khoáng sản dồi dào với trữ lượng lớn. Tất cả những điều trên có nghĩa là việc vận dụng các tài sản riêng của doanh nghiệp ở nước ngoài thông qua FDI sẽ có lợi hơn các cách sử dụng khác. Để có mặt trên một thị trường, các chủ đầu tư có nhiều hình thức thâm nhập khác nhau (xuất khẩu, cấp giấy phép, nhượng quyền, liên doanh góp vốn với chủ đầu tư nước 18 sở tại, lập chi nhánh,…). Doanh nghiệp có thể thâm nhập thị trường nước ngoài bằng cách đơn giản là xuất khẩu sản phẩm của mình. Ví dụ: Tập đoàn Samsung là một tập đoàn đa quốc gia của Hàn Quốc có tổng hành dinh đặt tại Samsung Town, Seoul. Tập đoàn có nhiều công ty con, hầu hết hoạt động dưới thương hiệu Samsung, là tập đoàn thương mại lớn nhất Hàn Quốc. Tính đến đầu 2014, Samsung có mặt ở tổng cộng 90 quốc gia với 673 văn phòng trên toàn cầu với tổng cộng 425 nghìn nhân viên. Khởi đầu, Samsung chỉ là một công ty buôn bán nhỏ. Thế nhưng chỉ 3 thập kỉ sau, tập đoàn Samsung đã đa dạng hóa các ngành nghề bao gồm chế biến thực phẩm, dệt may, bảo hiểm, chứng khoán và bán lẻ. Từ những năm 90, Samsung mở rộng hoạt động trên quy mô toàn cầu, tập trung vào lĩnh vực điện tử, điện thoại di động và chất bán dẫn, đóng góp chủ yếu vào doanh thu của tập đoàn. Các sản phẩm điện tử của tập đoàn thường là hàng hóa độc quyền, cùng với dây chuyền sản xuất hay các phát minh công nghệ cao, đây là một ưu thế lớn trong việc tiếp cận thị trường, đa dạng hóa sản phẩm. Việt Nam là một nước có dân số đông, thị trường tiêu thụ lớn, cộng với điều kiện sản xuất thuận lợi như giá nhân công rẻ, nhiều khu công nghiệp lớn nhỏ trên phạm vi cả nước…nên đã tạo ra một sự thu hút đầu tư tương đối lớn. Có mặt tại Việt Nam gần 20 năm kể từ năm 1996, tính đến cuối 2014, Samsung đã đầu tư vào Việt Nam với tổng số tiền là 12,6 tỷ USD. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch & Đầu tư, tổng số vốn đầu tư vào các lĩnh vực trên tại Việt Nam của Samsung đến năm 2017 có thể tăng lên 20 tỷ USD. 2.1.5. Các chính sách kinh tế vĩ mô Những chính sách kinh tế vĩ mô có tác động mạnh đến thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài là các chính sách về tài chính – tiền tệ, xuất nhập khẩu và quản lý ngoại hối. Các chính sách này có liên quan đến các mặt: hiệu quả sư dụng vốn của các nhà đầu tư (hiệu quả trong nước càng cao thì họ càng hít đầu tư ra 19 nước ngoài), khả năng xuất khẩu (trong nước càng khó xuất khẩu thì các nhà đầu tư đều muốn đầu tư ra ngoài) và khả năng nhập khẩu (càng dễ nhập khẩu các sản phẩm nước ngoài thì các nhà đầu tư càng muốn chuyển sản xuất ra nước ngoài sau đó nhập sản phẩm đó về nước). - Chính sách tài chính – tiền tệ Sự thay đổi các chính sách tài chính – tiền tệ từ thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ sang nới lỏng hay ngược lại hoặc hỗn hợp sẽ tác động mạnh đến lãi suất thực tế, qua đó làm tăng hoặc giảm khả năng của các nhà đầu tư. Thay đổi chính sách tài chính – tiền tệ còn ảnh hưởng trực tiếp đến lạm phát, qua đó tác động gián tiếp làm giảm đầu tư ra nước ngoài. Khi lạm phát cao sẽ làm cho đồng nội địa bị mất giá và khi đó cùng một đơn vị tiền tệ của bản địa sẽ mua được ít các dịch vụ hơn ở nước ngoài. Tình hình ngược lại khi đồng tiền của nước đầu tư lên giá so với các ngoại tệ khác. Các chính sách xuất nhập khẩu có ảnh hưởng đến đầu tư ra nước ngoài ở chỗ: các ưu đãi khuyến khích xuất khẩu trong các hiệp định thương mại song phương và đa phương của nước đi đầu tư sẽ tạo cơ hội cho hàng hóa của công ty nước này thâm nhập vào thị trường nước ngoài dễ dàng. Vì thế động lực đầu tư ra nước ngoài để vượt qua các rào cản thương mại bị giảm xuống. Đối với nhập khẩu cũng vậy, nếu như nước đầu tư giảm các rào cản nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài, nhất là từ các nước đang phát triển thì sẽ thúc đẩy các công ty của họ đầu tư ra nước ngoài để khai thác lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế, tìm kiếm các nguồn nguyên liệu tự nhiên và thị trường tiêu thụ, sau đó nhập khẩu thành phẩm về nước. - Chính sách quản lý ngoại hối Về tỷ giá hối đoái, tỷ giá hối đoái cao hay tỷ giá hối đoái thấp đều có ảnh hưởng lớn đến phương hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đứng trên góc độ của 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng