Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ De tai tieu luan triet hocsu tuong dong va khac biet giua triet hoc duy vat chat...

Tài liệu De tai tieu luan triet hocsu tuong dong va khac biet giua triet hoc duy vat chat phac va triet hoc duy tam o hy lap thoi co dai

.DOC
18
287
149

Mô tả:

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Bô ô Giáo dục và Đào tạo Viện Đại Học Mở Hà Nội ------ Đề tài tiểu luận Triết học: SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC DUY VẬT CHẤT PHÁC VÀ TRIẾT HỌC DUY TÂM Ở HY LẠP THỜI CỔ ĐẠI Giảng viên phụ trách: Học viên thực hiên: ê Phạm Quang Hưng Tp.HCM, ngày 15 tháng 03 năm 2017 -0- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa LỜI MỞ ĐẦU Triết học được xem như là khoa học của mọi khoa học do đó triết học có vai trò quan trọng trong việc định hướng sự phát triển của xã hội loài người. Ở bất kì một thời đại nào, dưới bất kì một chế độ xã hội nào thì tư tưởng triết học luôn luôn chi phối mạnh mẽ đời sống kinh tế - xã hội của xã hội đó. Chính vì vậy việc nghiên cứu lịch sử triết học hay nói đúng hơn là lịch sử tư tưởng loài người có ý nghĩa rất quan trọng vì một mặt nó giúp ta hiểu được quá trình phát triển của xã hội loài người mặt khác nó giúp ta tiếp thu những tinh hoa, giá trị tư tưởng của thế hệ trước và khắc phục những thiếu sót, hạn chế. Chúng ta không thể sống mà không có quá khứ. Như ta đã biết, Hy Lạp là một trong những chiếc nôi của nền văn minh nhân loại. Ở đó xuất hiện rất sớm và đạt được những thành tựu rực rỡ mà ảnh hưởng của nó còn in đậm đối với sự phát triển của tư tưởng triết học sau này. Quá trình phát sinh và phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại gắn liền với quá trình đấu tranh giữa tri thuức khoa học và tín ngưỡng, giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm tôn giáo. Đó là cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực tinh thần, tư tưởng trong xã hội chiếm hữu nô lệ của Hy Lạp. Cuộc đấu tranh gay gắt nhất trong lĩnh vực này là cuộc đấu tranh trường kì giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Hai chủ nghĩa này có những đặc điểm riêng khác biệt và bên cạnh đó là những đặc điểm chung có thể bổ sung cho nhau chứ không hoàn toàn đối lập. Chính vì lý do đó, em đã thực hiện đề tài “Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học duy vật chất phác và triết học duy tâm ở Hy Lạp thời cổ đại”. Trong phần nội dung của mình, tài liệu được em sử dụng chủ yếu là cuốn giáo trình triết học - Phần 1: Đại cương về lịch sử triết học. -1- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa CHƯƠNG 1: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI 1.1 Vài nét về điều kiện lịch sử ra đời, sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu dài và sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch sử - chế độ chiếm hữu nô lệ. Hy Lạp cổ đại trước đây là một vùng lãnh thổ rộng lớn bao gồm phần đất liền và vô số hòn đảo lớn nhỏ trên biển Egie, vùng duyên hải Ban căng và Tiểu Á. Nhờ có sự thuận lợi về thiên nhiên, địa lý đã tạo điều kiện cho Hy Lạp nhanh chóng phát triển tất cả các lĩnh vực, mở rộng bang giao, tiếp nhận nhiều giá trị văn hoá, Hy Lạp sớm trở thành quốc gia chiến hữu nô lệ có một nền công – thương nghiệp phát triển, một nền văn hóa tinh thần phong phú, đa dạng. Vì vậy, nơi đây đã hội tụ đầy đủ những điều kiện để tư duy con người có dịp bay bổng, để thoả sức sáng tạo ra những giá trị triết học có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Xứng đáng là chiếc nôi của nền văn minh Châu Âu và của cả nhân loại. Đúng như Ph.Ăngghen nhận xét: “Không có cơ sở văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì cũng không có châu Âu hiện đại được”. Sự hình thành triết học Hy Lạp không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết quả tất yếu của việc kế thừa những di sản tinh tuý của truyền thống trong sáng tác dân gian, trong thần thoại, trong các mầm mống của tri thức khoa học (khoa học tự nhiên). Hy Lạp cổ đại là đất nước của thi ca, thần thoại. Thần thoại là nơi để con người tưởng tượng, diễn giải về các hiện tượng thiên nhiên kỳ bí mà còn là nơi thể hiện đời sống tâm linh, sự hình thành số phận cũng như muôn mặt của đời sống thường ngày. Thần thoại là nơi đầu tiên để tư duy triết học ra đời và từng bước triết học tách khỏi -2- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa thần thoại, tự mình tư duy về tự nhiên, đạo đức, về xã hội, về lẽ sống, về chân lý, về con người… Những tinh hoa về toán học, thiên văn học, địa lý, hệ thống đo lường, lịch pháp …đã xuất hiện do nhu cầu buôn bán, vượt biển đến các nước phương Đông. Vì vậy, các nhà triết học đầu tiên của Hy Lạp cũng là những người đã nhiều lần đến phương Đông và nhiều vùng đất khác. Các thành tựu đều được các nhà khoa học tên tuổi sớm phát hiện ra như Talét, Pytago, Ácsimét, Ớclít… Như vậy, có thể thấy rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một tất yếu-đó là kết quả nội sinh của cả một dân tộc, một thời đại. C.Mác viết: “Các nhà triết học không phải những cây nấm mọc trên đất. Họ là sản phẩm của thời đại mình, dân tộc mình mà những tinh lực tinh tế nhất, quý giá nhất và khó nhìn thấy nhất đã được suy tư trong các khái niệm triết học”. Triết học cổ đại rất đa dạng; song nhìn chung, chúng thể hiện rõ khuynh hướng nhất nguyên hay khuynh hướng nhị nguyên một cách rõ ràng và khá nhất quán. Triết học Hy Lạp gắn liền với lịch sử ra đời của nền chính trị Hy Lạp cổ đại mà đỉnh cao của nó là nền dân chủ Aten và phản ánh lịch sử của đất nước này. Do vậy, nó trải qua 3 giai đoạn: Hình thành, cực thịnh và suy tàn. Trong đó, cuộc đầu tranh giữa hai khuynh hướng nhất nguyên vật chất và duy tâm để để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại. Chủ nghĩa duy vật được hình thành từ trường phái Milê, Hêraclít, trường phái đa nguyên và đỉnh cao là trường phái nguyên tử luận. Chủ nghĩa duy tâm được hình thành từ trường phái Pytago, duy lý Êle, phái Ngụy Biện và đỉnh cao là trường phái duy tâm khách quan Platông. Còn Arixtốt đã cố gắng khắc phục sử đối lập giữa hai khuynh hướng nhất nguyên duy vật và nhất nguyên duy tâm, tiến hành phê phán và tổng kết triết học và khoa học thời này, do vậy ông đã đưa triết học Hy Lạp lên đỉnh cao cực thịnh. Sau Arixtốt, triết học Hy Lạp cổ đại rơi vào suy tàn. Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ sau: -3- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa  Triết học thời kỳ tiền Xôcrat (thời kỳ sơ khai)  Triết học thời kỳ Xôcrat (thời kỳ cực thịnh)  Triết học thời kỳ Hy Lạp hoá 2.2 Những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại Đặc điểm thứ nhất, triết học Hy Lạp cổ địa thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp chủ nô thống trị. Nó là công cụ lý luận để giai cấp này duy trì trật tự xã hội, cũng cố vai trò thống trị của mình. Đặc điểm thứ hai, trong nền triết học Hy Lạp cổ đại có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái duy vật – duy tâm, vô thần – hữu thần và gắn liền với cuộc đầu tranh chính trị - tư tưởng; trong đó điển hình là cuộc đấu tranh giữa trào lưu duy vật của Đêmôcrít và trào lưu duy tâm của Platông…. Đặc điểm thứ ba, trong nền triết học Hy Lạp cổ đại đã xuất hiện phép biện chứng chất phác. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại là “những nhà biện chứng bẩm sinh”. Họ nghiên cứu và sử dụng phép biện chứng để nâng cao nghệ thuật hùng biện, để bảo vệ quan điểm triết học của mình. Đặc điểm thứ tư, triết học Hy Lạp cổ địa gắn bó mật thiết với khoa học tư nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau nhằm xây dựng bức tranh về thế giới như một hình ảnh chính thể thông nhất mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong nó. Do trình độ duy lý luận còn thấp, nên khoa học tự nhiên chưa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích tự nhiên để đi sâu vào bản chất sự vật, mà nó mới nghiên cứu tự nhiên trong tự nhiên, họ quan sát trực tiếp các hiện tượng tự nhiên để rút ra những kết luận triết học. Đặc điểm thứ năm, triết học Hy Lạp coi trọng vấn đề con người. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về con người, cố lý giải vấn đề quan hệ giữa linh hồn và thể xác, về đời sống đạo đức – chính trị - xã hội của họ. Dù còn nhiều bất đồng, song nhìn chung, các triết gia đều khẳng định con người là tinh hoa cao quý nhất của tạo hóa. -4- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC DUY VẬT CHẤT PHÁC VÀ TRIẾT HỌC DUY TÂM 2.1 Chủ nghĩa duy vật Là một trào lưu triết học chủ đạo của Hi lạp cổ đại, chủ nghĩa duy vật được hình thành từ trường phái Milê - Hêraclít, trải qua trường phái đa nguyên và đạt được đỉnh cao trong trường phái nguyên tử luận. 2.1.1. Trường phái Milê Trường phái triết học Milê do 3 nhà triết học duy vật là Talét, Anaximăngđrơ, Anaximen (Thalès, Anaximandre, Anaximène) xây dựng, nhằm làm sáng rõ bản nguyên vật chất của thế giới. Nếu bản nguyên vật chất của thế giới được Talét cho là nước, thì Anaximăngđrơ cho là apeiron, còn Anaximen cho là không khí. Những quan niệm triết học duy vật của trường phái Milê tuy còn mộc mạc, thô sơ nhưng có ý nghĩa vô thần chống lại thế giới quan thần thoại đương thời và đã chứa đựng những yếu tố biện chứng chất phác. 2.1.2. Trường phái Hêraclít Hêraclít là một nhà triết học duy vật thể hiện rõ các tư tưởng biện chứng chất phác thời cổ Hi Lạp. + Khi coi bản nguyên của thế giới là lửa, Hêraclít cho rằng, vạn vật đều từ lửa mà ra, rồi sau đó sẽ mất đi để quay về với lửa, nhưng tuỳ theo độ của lửa mà vạn vật có thể chuyển hóa – thay đổi trạng thái. + Hêraclít cho rằng, nhận thức thế giới là phát hiện ra cái lôgốt, tức cái quy luật, trật tự của vũ trụ, phát hiện ra tính hài hòa và xung đột của những mặt đối lập tồn tại trong các sự vật, hiện tượng đa dạng trong thế giới. 2.1.3 Trường phái đa nguyên Để lý giải tính đa dạng của vạn vật trong thế giới theo tinh thần duy vật, Empêđốc (Empédocle, ~490-430) và Anaxago (Anaxagore, ~500-428) cố vượt qua quan niệm -5- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa đơn nguyên sơ khai của các trường phái Milê - Hêraclít, xây dựng quan niệm đa nguyên về bản chất của thế giới vật chất đa dạng.  Empêđốc thừa nhận sự tồn tại của 4 khởi nguyên độc lập, bất biến là: đất, nước, không khí, lửa; chúng chịu sự tác động của 2 loại lực là: tình yêu và hận thù.  Tiếp nối quan điểm đa nguyên của Empêđốc, nhưng Anaxago - nhà triết học đầu tiên ở Aten cho rằng, vạn vật phải được sinh ra từ những cái tương tự như chúng, và ông gọi cái đó là các hạt giống – cái bảo tồn và phát triển tính chất của sự vật cùng loại. 2.1.4 Trường phái nguyên tử luận Đỉnh cao của triết học duy vật Hi Lạp cổ đại được thể hiện trong trường phái nguyên tử luận (thế kỷ thứ V-III TCN) với các đại biểu Lơxíp, Đêmôcrít và Êpicua (Leucippe, Démocrite và Epicure).  Lơxíp (~500-440 TCN) cho rằng cái tồn tại (nguyên tử) tồn tại, nhưng khác với Pácmêníc, ông cho rằng cái không tồn tại (chân không) cũng tồn tại. Nguyên tử và chân không cùng là khởi nguyên của thế giới.  Đêmôcrít (460-370 TCN) Là đại biểu kiệt xuất nhất của chủ nghĩa duy vật và tầng lớp chủ nô dân chủ thời cổ Hi Lạp, Đêmôcrít đã xây dựng trường phái nguyên tử luận mà nội dung lý luận bao gồm các bộ phận sau: + Thuyết nguyên tử Theo ông, vũ trụ được cấu thành bởi hai thực thể đầu tiên là nguyên tử và chân không. + Quan niệm về nhận thức Đêmôcrít cho rằng, mọi nhận thức của con người đều có nội dung chân thực, nhưng mức độ rõ ràng, đầy đủ của chúng khác nhau. Ông chia nhận thức chân thực của con người ra làm hai dạng có liên hệ mật thiết với nhau là nhận thức mờ tối do giác quan, tức nhận thức cảm tính, và nhận thức sáng suốt, tức nhận thức lý tính. -6- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa + Quan niệm về đạo đức - xã hội Đêmôcrít cho rằng, đạo đức học giúp làm rõ số phận, cuộc sống và hướng dẫn hành vi, thái độ của từng con người. Sự hiểu biết là cơ sở của hành vi đạo đức. Sống đúng mực, ôn hòa, không gây hại cho mình và cho người là sống có đạo đức. Mặc dù vẫn còn nhiều hạn chế nhưng với những thành tựu đạt được, Đêmôcrít đã nâng chủ nghĩa duy vật Hi Lạp lên đỉnh cao, làm cho nó đủ sức đương đầu chống lại các trào lưu duy tâm đang thịnh hành bấy giờ.  Khác với quan điểm của Đêmôcrít, Êpicua (341-270 TCN) cho rằng, nguyên tử có trọng lượng, và do có trọng lượng mà nguyên tử tự vận động không chỉ theo chiều thẳng đứng mà còn theo chiều xiên. 2.2. Chủ nghĩa duy tâm Là một trào lưu triết học chủ đạo của Hi lạp cổ đại, chủ nghĩa duy tâm được hình thành trong trường phái triết học Pytago, trải qua trường phái duy lý Êlê và đạt được đỉnh cao trong trường phái duy tâm khách quan của Platông. 2.2.1. Trường phái Pytago Pytago (Pythagore, 571-497 TCN) là nhà triết học, toán học uyên bác. Do chịu ảnh hưởng bởi quan điểm duy tâm – tôn giáo của triết học Phương Đông mà Pytago coi linh hồn bất tử tồn tại độc lập với thể xác và chịu sự chi phối bởi luật luân hồi. Giải thoát linh hồn ra khỏi sự ràng buộc của thể xác là mục đích của cuộc sống. Nhận thức là chức năng của linh hồn. 2.2.2. Trường phái Êlê Trường phái Êlê (thế kỉ V-IV TCN) do Xênôphan (Xénophane) thành lập theo tinh thần duy vật, nhưng sau đó nó được Pácmêníc (Parmenide) phát triển theo tinh thần duy lý ngã về khuynh hướng duy tâm, và được Dênông (Zénon) nhiệt thành bảo vệ. -7- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa  Xênôphan (570-478 TCN) là bạn của Talét, nên chịu ảnh hưởng bởi quan điểm của nhà triết học này, vì vậy ông cho rằng, mọi cái đều từ đất mà ra, và cuối cùng rồi cũng trở về với đất. Đất là cơ sở của vạn vật.  Pácmênít (500-449 TCN) viết tác phẩm Bàn về tự nhiên với “tồn tại” là khái niệm trung tâm – một khái niệm hết sức trừu tượng, mà theo Hêghen, là điểm xuất phát thực sự của triết học. Với tác phẩm này, ông trở thành “linh hồn” của trường phái Êle.  Dênông (490-430 TCN) là một nhà hùng biện, biết đưa ra những apôri để đào sâu tư duy lý luận. Theo Arítxtôt, Dênông đã từng đưa ra 40 apôri; một vài apôri còn truyền lại đến ngày nay như các apôri về tính bất động của thế giới. 2.2.3. Trường phái duy tâm khách quan Trường phái duy duy tâm khách quan được Xôcrát (Socrate) đặt nền móng và học trò Platông (Platon) hoàn thiện. Nó thể hiện lập trường chính trị của tầng lớp chủ nô bảo thủ chống lại nền dân chủ Aten và hệ thống triết học duy vật của trường phái nguyên tử luận.  Xôcrát (469-399 TCN) Xôcrát không chủ trương nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên, vì chúng đã được thần thánh an bài, con người không có khả năng khám phá được sự sáng tạo ra giới tự nhiên của thần thánh và cũng không thể cải đổi được giới tự nhiên theo ý mình.  Platông (427-347 TCN) là nhà triết học duy tâm khách quan kiệt xuất nhất thời cổ Hi Lạp và cũng là đại biểu trung thành của tầng lớp chủ nô quý tộc. Platông chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng của Pácmênít, Pytago, đặc biệt là của Xôcrát. Platông đã xây dựng chủ nghĩa duy tâm khách quan với nội dung chính là thuyết ý niệm với giá trị bên trong là phép biện chứng của khái niệm, và nhiều tư tưởng sâu sắc khác về đạo đức - chính trị - xã hội. -8- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa CHƯƠNG 3: SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC DUY VẬT CHẤT PHÁC VÀ TRIẾT HỌC DUY TÂM Ở HY LẠP THỜI CỔ ĐẠI 3.1 Sự tương đồng Các hệ thống triết học Hy Lạp cổ đại cả duy vật lẫn duy tâm đều tập trung giải quyết những vấn đề cơ bản về bản thể luận và nhận thức luận đặc biệt là vấn đề về bản nguyên thế giới. Các học thuyết triết học đều cố gắng đưa ra một giải thích về nguồn gốc của thế giới khách quan. Ví dụ như với Talét bản nguyên thế giới là nước, Anaximăngđrơ là apeiron, Anaximen là không khí… đối với các nhà triết học duy tâm thì đối với các nhà triết học duy tâm, Xênôphan cho đất là cơ sở vạn vật, với Platông thì đó là sự gắn liền của 4 yếu tố cơ bản là tồn tại, không tồn tại, con số, sự vật cảm tính… Triết học duy vật chất phác và triết học duy tâm đều gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau nhằm xây dựng bức tranh về thế giới như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong nó. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đồng thời là những nhà khoa học tự nhiên. Bên cạnh những tri thức khoa học sơ khai triết học Hy Lạp cổ đại cũng đã đề cập đến những vấn đề của thế giới quan theo nghĩa hiện đại tuy còn ở trạng thái mầm mống. Như vậy triết học Hy Lạp cổ đại ngay từ khi ra đời đã gắn liền với khoa học. Nhìn chung triết học Hy Lạp cổ đại đều đề cao vai trò của con người và khẳng định con người là tinh hoa cao quí nhất của nhân loại. Thông qua một loạt các quan niệm về đạo đức, chính trị - xã hội, nhận thức, tất cả đều xoay quanh một nhân vật trung tâm là con người liên quan tới nhận thức, hành vi của con người tác động đến thế giới. -9- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Tính giai cấp sâu sắc, nó đã thể hiện nó là thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp chủ nô thống trị trong xã hội bấy giờ. Vì thế dễ hiểu tại sao phần lớn các nhà triết học thời kì này đều coi nô lệ không phải là con người mà chỉ là công cụ biết nói. Các tư tưởng duy vật, duy tâm; các quan điểm biện chứng và siêu hình tồn tại đan xen với nhau. Đây là nét nổi bật của triết học Hy Lạp, nguyên nhân chủ yếu là do khoa học tự nhiên chưa phát triển nên hạn chế tầm nhìn của các nhà triết học và các quan điểm học duy vật và biện chứng đều rơi vào tình trạng bế tắc khi chứng minh các luận điểm của mình. Tư tưởng triết học Hy Lạp cổ đại đều dừng lại ở trình độ trực quan chất phác đặc biệt là tư tưởng triết học biện chứng và duy vật. Do đó khi giải quyết vấn đề cơ sở đầu tiên của thế giới thì các nhà triết học duy vật đều đưa về một dạng vật chất cụ thể như: đất, nước, lửa, không khí,…Sau này ở mức độ trừu tượng, khái quát hơn thì cho rằng đó là nguyên tử song vẫn không giải quyết triệt để được. 3.2 Sự khác nhau Đầu tiên, vấn đề về bản nguyên thế giới hay còn gọi là nguồn gốc vật chất của thế giới. Các học thuyết triết học đều cố gắng đưa ra một giải thích về nguồn gốc của thế giới khách quan, vấn đề ở chỗ nó khác nhau theo 2 chủ nghĩa duy vật và duy tâm. Triết học duy vật chất phác dựa vào những sự vật vật chất để giải thích thế giới quan. Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và quyết định ý thức. Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người. Khi nói đến nguồn gốc hình thành nên vạn vật, Talét cho đó là nước, thì Anaximăngđrơ cho là apeiron, còn Anaximen cho là không khí, Hêraclít cho là lửa. Empêđốc thừa nhận sự tồn tại của 4 khởi nguyên độc lập, bất biến là: đất, nước, không khí, lửa; chúng chịu sự tác động của 2 loại lực là: tình yêu và hận thù. Anaxago không cho rằng vạn vật là sự kết hợp của 4 yếu tố trên mà ông lại -10- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa cho rằng đó là hạt giống – cái bảo tồn và phát triển tính chất của sự vật cùng loại. Lơxíp cho rằng là nguyên tử và chân không. Và đỉnh cao là Đêmôcrít với thuyết nguyên tử luận cho rằng vũ trụ cấu thành từ nguyên tử và chân không. Dù còn nhiều hạn chế nhưng Đêmôcrit đã nâng chủ nghĩa duy vật Hy Lạp lên đỉnh cao, làm cho nó đủ sức chống lại các trào lưu duy tâm thời bấy giờ mà tiêu biểu là trào lưu duy tâm nổi tiếng của Platông. Bên cạnh đó, trong triết học duy tâm, các nhà triết học lại có những luận điểm khác biệt. Pytago cho rằng con số là bản nguyên của thế giới, ngoài ra ông còn đề cập đến những linh hồn bất tử độc lập với thể xác và chịu sự chi phối của luật luân hồi. Xênôphan chịu ảnh hưởng của duy vật Talét nên coi đất là bản nguyên. Còn đối với Pácmênít lại cho rằng tồn tại là bản chất chung thể hiện tính thống nhất của vạn vật trong thế giới. Không có gì trên thế giới được sinhr a từ hư vô hay không tồn tại. Còn Xôcrát lại quá thần hóa, ông cho rằng các hiện tượng tư nhiên đều đạ được thần thánh an bài, và con người không thể phát hiện ra được. Nổi bật nhất trong chủ nghĩa triết học duy tâm là Platông, Platông chia thế giới ra thành thế giới ý niệm và thế giới sự vật. Ý niệm là cái sản sinh, có trước, là nguyên nhân, là bản chất, là khuôn mẫu của sự vật. Còn sự vật là cái được sản sinh, có sau, là cái bóng được mô phỏng, sao chép lại từ ý niệm. Bất cứ sự vật nào cũng xuất hiện từ ý niệm và có quan hệ ràng buộc với ý niệm… Ông cũng nhắc đến linh hồn con người với ba bộ phận: cảm giác, ý chí và lý trí. Thứ hai, quan niệm về nhận thức: Trường phái Milê chưa nhắc đến nhận thức con người thì đến trướng phái Hêraclít, Hêraclít coi nhận thức thế giới là phát hiện ra các lôgốt – quy luật, trật tự vũ trụ. Ông cho rằng quá trình nhận thức phải bắt đầu từ cảm tính, nhưng cảm tính không đủ sức để khám phá bí ẩn của tự nhiên. Đến khi học thuyết nguyên tử của Đêmôcrít ra đời, nhận thức được nâng lên một tầm cao mới. Mọi nhận thức của con người đều có nội dung chân thực, nhưng mức độ rõ ràng, đầy đủ của chúng khác nhau. Ông chia nhận -11- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa thức chân thực của con người ra làm hai dạng có liên hệ mật thiết với nhau là nhận thức mờ tối do giác quan mang lại, tức nhận thức cảm tính, và nhận thức sáng suốt do suy đoán đem đến, tức nhận thức lý tính. Theo Đêmôcrít, nhận thức cảm tính là tiền đề của nhận thức lý tính; muốn nắm bắt bản chất thế giới không thể không sử dụng nhận thức lý tính. Còn đối với chủ nghĩa duy tâm, nhận thức con người phát triển hơn so với chủ nghĩa duy vật ngay từ lúc đầu. Xênôphan cho rằng con người không thể nhận thức được bản chất sự vật chỉ bằng cảm tính. Muốn nhận thức được bản chất của sự vật phải dựa vào tư duy, lý tính. Quan điểm duy lý này đã được Pácnêmít phát triển thành chủ nghĩa duy lý. Nhận thức duy lý tính đòi hỏi phải thông qua hoạt động của trí óc để khám phá ra bản chất đích thực của thế giới – cái tồn tại. Dênông cũng bác bỏ chủ nghĩa duy tâm khi cho rằng vấn đề nhận thức sự vật, không thể dùng trực quan cảm tính mà phải dùng tư duy trừu tượng. Theo Platông nhận thức thực chất là khám phá ra ý niệm tồn tại sẵn trong linh hồn con người. Đó là nhiệm vụ dành riêng cho tư duy lý luận thuần túy. Thứ ba, quan niệm về đạo đức: Trong cả hai chủ nghĩa thì có 2 người điển hình nhắc về vấn đề này đó là Đêmôcrít và Platông. Đêmôcrít cho rằng, đạo đức học giúp làm rõ số phận, cuộc sống và hướng dẫn hành vi, thái độ của từng con người. Sự hiểu biết là cơ sở của hành vi đạo đức. Sống đúng mực, ôn hòa, không gây hại cho mình và cho người là sống có đạo đức. Hạnh phúc của con người là trạng thái mà trong đó con người sống trong sự hưởng lạc vừa phải trong sự thanh thản của tâm hồn tự do. Mặc dù Đêmôcrít coi hạnh phúc hay bất hạnh, tốt hay xấu… đều phải dựa trên nghề nghiệp, nhưng ông luôn phản đối sự giàu có quá đáng, phản đối sự trục lợi bất lương, bởi vì chúng là cội nguồn dẫn tới sự bất hạnh cho con người. Ông luôn đề cao những hành động vị nghĩa cao thượng của con người. Đối với Platông trong chủ nghĩa duy tâm, ông xuất phát từ đạo đức học duy lý, Platông cho rằng, con người muốn sống hạnh phúc phải dùng lý trí để chiêm nghiệm -12- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa những ý tưởng và khắc phục những dục vọng vật chất thấp hèn, giúp linh hồn thoát khỏi gông cùm của nhà tù thể xác. Như vậy, theo Platông, con người không thể tìm thấy hạnh phúc cho riêng mình ở xung quanh mình, Hạnh phúc của con người nằm trong thế giới ý niệm ở trên trời. Con người chỉ nhận thức được những ý tưởng này bằng lý trí. Quan niệm đạo đức đầy tính duy tâm thần bí của Platông là cơ sở cho nền đạo đức Thiên chúa giáo sau này. Thứ tư, quan niệm về chính trị - xã hội: Trong cả hai chủ nghĩa thì có 2 người điển hình nhắc về vấn đề này lại tiếp tụclà Đêmôcrít và Platông. Là đại biểu của tầng lớp chủ nô dân chủ, Đêmôcrít luôn xuất phát từ quan niệm duy vật để bảo vệ quyền lợi của tầng lớp mình, bảo vệ chế độ dân chủ chủ nô. Theo ông, chế độ dân chủ chủ nô phải gắn liền với nền thương mại và sản xuất thủ công, nhưng nó cũng phải gắn liền với tình thân ái, với tính ôn hòa và lợi ích chung của công dân tự do, chứ không phải của nô lệ. Nô lệ cần phải tuân theo mệnh lệnh của ông chủ. Nhà nước cộng hòa dân cử là nền tảng của chế độ dân chủ chủ nô phải biết tự điều hành hoạt động của mình theo các chuẩn mực đạo đức và pháp lý. Còn đối với Platông, có 3 bộ phận cấu thành linh hồn trong mỗi con người cụ thể là không giống nhau nên trong xã hội có 3 loại người. Loại thứ nhất bao gồm các triết gia, thượng đế sinh ra họ để họ lãnh đạo xã hội. Loại thứ hai bao gồm các chiến binh, thượng đế sinh ra họ để họ bảo vệ xã hội. Loại thứ ba bao gồm nông dân, thợ thủ công, thương gia... thượng đế sinh ra họ để họ bảo đảm đời sống vật chất cho xã hội. Platông coi nô lệ không là con người mà là động vật biết nói, do không có lý trí nên nô lệ không biết nhận thức, do không nhận thức nên không có đời sống đạo đức, do không có đời sống đạo đức nên nằm ngoài vòng chính trị. Nhà nước được hình thành nhằm đảm bảo cho sự phân công trên được thực hiện. Tuy nhiên, chế độ sở hữu tư nhân không chỉ làm cho nhà nước không thực hiện được sứ mệnh cao cả của mình, mà hơn thế nữa, nó làm cho nhà nước tha hóa, gây ra sự băng hoại đời sống đạo đức. Vì vậy, cần phải xóa bỏ sở hữu tư nhân; phải xây dựng -13- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa chế độ sở hữu công xã với tài sản chung, cha mẹ con cái chung. Theo Platông, chế độ xã hội tốt nhất phải là chế độ cộng hòa quý tộc do một vị vua là triết gia tài ba nhất lãnh đạo. Như vậy, quan niệm về chính trị - xã hội của Platông cũng bám đầy tính bảo thủ và mâu thuẫn. Bởi vì, Platông vừa đòi hỏi phải xóa bỏ tư hữu, lại vừa đòi hỏi phải bảo vệ cho bằng được chế độ đẳng cấp và sự bất bình đẳng trong xã hội. Một mặt, Platông kêu gọi phải xây dựng cho bằng được nhà nước cộng hòa lý tưởng; nhưng mặt khác, ông ra sức bảo vệ cho bằng được lợi ích và địa vị của tầng lớp chủ nô quý tộc chống lại nhà nước dân chủ Aten. Thứ năm, quan niệm về con người: Theo Đêmôcrít, sự sống phát sinh từ những vật thể ẩm ướt, dưới tác dụng của nhiệt độ. Sinh vật sống đầu tiên được hình thành từ nước bùn, chúng sống dưới nước, sau đó lên sống trên cạn và tiến hóa dần dần đưa đến sự xuất hiện con người. Chỉ có sinh vật mới có linh hồn. Linh hồn cũng được tạo thành từ các nguyên tử, nhưng đó là các nguyên tử hình cầu, nhẹ, nóng và chuyển động nhanh. Linh hồn khả tử, nó sẽ rời thể xác và tan rã ra thành các nguyên tử dạng lửa khi sinh vật chết. Nói chung, vạn vật trong thế giới, dù là vô sinh hay hữu sinh, đều xuất hiện và mất đi một cách tự nhiên và không liên quan tới thần linh. Ngược lại hoàn toàn, đối với Platông, thần linh là thước đo của vạn vật. Platông cho rằng con người là sự kết hợp của thể xác khả tử với linh hồn bất tử. Thể xác được cấu thành từ đất, nước, lửa, không khí nên nó chỉ tồn tại thoáng qua và là nơi trú ngụ tạm thời của linh hồn. Linh hồn của con người , theo Platông, là sản phẩm của linh hồn vũ trụ được Thượng đế tạo ra từ lâu; chúng ngự trị trên các vì sao trời, sau đó, dùng cánh bay xuống nhập vào thể xác của con người; khi nhập vào thể xác, nó quên hết quá khứ. Linh hồn của con người bao gồm 3 bộ phận: cảm giác, ý chí và lý trí; trú ngụ tạm thời ở 3 chỗ trong cơ thể: từ rốn trở xuống, trong lòng ngực, trong đầu óc; hoạt động theo 3 khía cạnh: dục vọng, tình cảm, nhận thức; thể hiện 3 phẩm hạnh: điều độ, can đảm, khôn ngoan. -14- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa KẾT LUẬN Triết học Hy Lạp cổ đại cũng giống như triết học cổ đại của các nước phương Đông, đã ra đời trong chế độ chiếm hữu nô lệ, khi xuất hiện sự phân công lao động mới giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Với hệ thống triết học đa dạng, với các nhà triết học đã đạt tới đỉnh cao trí tuệ của loài người thời cổ đại, Hy Lạp đã trở thành cái nôi của triết học châu Âu. Khi chúng ta nghiên cứu lịch sử triết học nói chung thì vấn đề cơ bản nhất của lịch sử triết học đó là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Vấn đề này được coi là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử triết học. Cuộc đấu tranh này cũng chính là sự phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội đã phân chia thành các giai cấp đối kháng. Nền văn hoá Hy Lạp cổ đại nói chung cũng như triết học Hy Lạp cổ đại nói riêng đã được lịch sử tư tưởng loài người coi là đỉnh cao rực rỡ của nền văn minh thế giới cổ đại. Những thành tựu nói trên của triết học Hy Lạp cỏ đại đã được ghi vào lịch sử tư tưởng của loài người với những dòng vàng chói lọi. Nền văn minh hiện đại Châu Âu bắt nguồn từ nền văn minh Hy Lạp và chúng ta đã không thể hiểu đầy đủ văn hóa Châu Âu ngày nay nếu không đi ngược thời gian để tìm hiểu những thành tựu huy hoàng của văn hóa Hy Lạp cổ đại, Ăngghen viết : “chúng ta luôn luôn phải quay về với những thành tựu trong triết học cũng như trong mọi lĩnh vực khác của dân tộc nhỏ bé này, một dân tộc mà tài năng và hoạt động có tính chất toàn diện của nó đã đảm bảo cho nó có một địa vị mà không có một dân tộc nào khác có tham vọng đạt tới trong lịch sử tiến hóa của nhân loại”. -15- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình triết học, phần I – Đại cương về lịch sử triết học, Lưu hành nội bộ 2011, TS. Bùi Văn Mưa chủ biên 2. Giáo trình triết học Mác – Lênin, nxb Chính trị quốc gia, 2007, GS. Nguyễn Duy Quý chủ biên 3. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, nxb Chính trị quốc gia, 2010, PGS.TS Nguyễn Viết Thông chủ biên 4. Lịch Sử Triết Học Phương Tây, nxb. Tổng hợp TP.HCM, 2006, Nguyễn Tiến Dũng chủ biên 5. Danh mục website:  http://vi.wikipedia.org/wiki/Tri%E1%BA%BFt_h%E1%BB %8Dc_Hy_L%E1%BA%A1p_c%E1%BB%95_%C4%91%E1%BA %A1i  http://www.hanhchinh.com.vn/forum/showthread.php?t=44894&page=1  http://khotailieu.com/tai-lieu/khoa-hoc-xa-hoi/triet-hoc/cuoc-dau-tranhgiua-chu-nghia-duy-vat-va-chu-nghia-duy-tam-trong-triet-hoc-co-dienduc-va-su-ra-doi-cua-chu-nghia-mac-le-nin.html  http://bookluanvan.vn/f79/phan-tich-nhung-thanh-tuu-va-han-che-cuaphep-bien-chung-va-chu-nghia-duy-vat-truoc-mac-33115/  http://tailieu.vn/xem-tai-lieu/triet-hoc-co-dai-hy-lap-la-ma-tac-pham-delai-cua-heraclite.725579.html Mục lục LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................................................1 CHƯƠNG 1: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI.................................................................................................2 1.1 Vài nét về điều kiện lịch sử ra đời, sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại................................2 -16- GVHD: TS. Bùi Văn Mưa 2.2 Những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại...................................................................4 CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC DUY VẬT CHẤT PHÁC VÀ TRIẾT HỌC DUY TÂM..................................................................................................................................................5 2.1 Chủ nghĩa duy vật.....................................................................................................................5 2.2. Chủ nghĩa duy tâm...................................................................................................................7 CHƯƠNG 3: SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC DUY VẬT CHẤT PHÁC VÀ TRIẾT HỌC DUY TÂM Ở HY LẠP THỜI CỔ ĐẠI..................................................................9 3.1 Sự tương đồng..........................................................................................................................9 3.2 Sự khác nhau..........................................................................................................................10 KẾT LUẬN......................................................................................................................................15 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................16 -17-
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan