Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đề tài thực trạng nguyên nhân giải pháp của hiện tượng ly hôn trong các gia đình...

Tài liệu đề tài thực trạng nguyên nhân giải pháp của hiện tượng ly hôn trong các gia đình việt nam hiện nay

.DOC
40
992
103

Mô tả:

THỰC TRẠNG NGUYÊN NHÂN GIẢI PHÁP CỦA HIỆN TƯỢNG LY HÔN TRONG CÁC GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY CHƯƠNG 1: 1. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ: Các cụ xưa đã nói “Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn”. Từ ý nghĩa của câu nói đó mà nhiều gia đình, đặc biệt những cặp gia đình trẻ, họ thường xuyên vun đắp hạnh phúc. Chồng bảo vợ nghe, vợ nói chồng đồng tình. Đôi bên tôn trọng và nhường nhịn lẫn nhau trong từng lời ăn tiếng nói, cung cách ứng xử hàng ngày và cả công việc hệ trọng của gia đình đều được mang ra để vợ chồng bàn bạc, thảo luận và quyết định. Những mái ấm như vậy được mọi người khen ngợi, xã hội biểu dương! Bên cạnh những gia đình trong ấm ngoài êm thì đó đây vẫn còn xảy ra những cặp vợ chồng với “cơm không lành, canh không ngọt”, hạnh phục gia đình rạn nứt, gây hậu quả lâu dài cho gia đình và dòng tộc, đặc biệt là những mái đầu xanh vô tội lạc lỏng bơ vơ. Theo Toà án nhân huyện Điện Bàn, năm 2010, Toà đã thụ lý và giải quyết 211 vụ án ly hôn, so với cùng kỳ năm 2009 tăng 27 vụ, trong đó đình chỉ 40 vụ, do nguyên đơn xin rút đơn, hoà giải đoàn tụ 35 vụ, đôi bên thuận tình ly hôn 106 vụ. Toà xử 29 vụ. Chuyển hồ sơ lên cấp trên 1 vụ. Vậy nguyên nhân nào xảy ra hạnh phúc gia đình rạn nứt, đỗ vỡ, chủ yếu phần lớn là do mâu thuẩn gia đình, kinh tế khó khăn, ngoại tình, bạo hành đánh đập vợ con và các loại tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè, nghiện ngập… Để minh chúng cho vấn đề này, nếu ai đó có chút quan tâm về chuyện ly hôn, phát xuất từ canh bạc, men bia, men rượu xin dành thời gian thử dạo một vòng từ phố thị đến các vùng nông thôn hẻo lánh, ghé mắt vào mấy quan rượu bia thì sẽ rõ. Từ 16 giờ chiều đến 20 giờ đêm, các dịch vụ ăn uống đón tiếp thực khách là nam giới bàn nối bàn, chén nọ cụng ly kia. Thử liệu trong số đó được bao nhiêu người khi mình vui vẻ và bao lời chúc tụng ngọt ngào với bạn bè mà nghĩ đến hình ảnh vợ con, thân cò phải gánh vác bao nỗi nhọc nhằn lo toan cho mái ấm gia đình? Lại có trường hợp nợ máu đỏ đen tiền bạc dốc túi thả vào những canh bạc thâu đêm suốt sáng. Về nhà còn thượng cẳng chân, hạ cẳng tay bạo hành, vũ phu đối với vợ con. Mặc tiếng gào thét kêu cứu của con trẻ, gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự trong khu dân cư, thôn xóm. Chưa hết, còn có người tư tưởng mang nặng thói trăng hoa, mê muội dẫn đến quên đi bổn phận và trách nhiệm đối với gia đình. Lại có người nảy ra ý nghĩ rồ dại đem lòng so đo nhan sắc của vợ mình với người phụ nữ khác, rồi dựng chuyện vu khống nào là người đàn bà hư hỏng, nào là ngoại tình gây tổn hại tinh thần đối với người bạn đời đầu ấp tay gối. Có trường hợp đã 3, 4 mặt con đã bước qua tuổi ngũ tuần mà đầu óc luôn quay về thời quá vãn để tìm lại hình bóng người xưa, đang tâm quên đi người bạn đời thủy chung son sắc. Chị em phụ nữ bị ngược đãi không dừng ở đó, mặc dù hiện nay thời đại con người đã nghĩ đến chinh phục sao hoả, sao kim mà vẫn còn rơi rớt mấy đức ông chồng mang nặng tư tưởng lạc hậu, ấu trĩ trọng nam khinh nữ. Gặp con một bề là oán trách bạn đời không có khả năng sinh con trai để nối dõi tông đường. Từ đó nảy sinh mâu thuẩn, xung đột làm rạn nứt tổ ấm. Dù có nguyên nhân nào đi nữa, thì người gánh chịu hậu quả thua thiệt vẫn là chị em phụ nữ. Hơn nữa sức chịu đựng con người có hạn, do đó chuyện ly hôn thì khó lòng tránh khỏi với những trường hợp nêu trên. Trong khi đó, Đảng và Nhà nước ta đều dành mọi ưu ái đến chị em phụ nữ, như Luật Hôn nhân gia đình, Luật Bình đẳng giới. Nam nữ đều đối xử công bằng trong gia đình và trong xã hội. Đó là chưa nói đến, ở các thôn xã nhiều loại hình câu lạc bộ nhằm góp phần đem lại hạnh phúc cho mỗi cặp vợ chồng, như Câu lạc bộ Gia đình hạnh phúc, Câu lạc bộ Không sinh con 3 v.v. Hơn nữa, chuyện vợ chồng là chuyện trăm năm được xây dựng trên cơ sở tự nguyện, tự giác của đôi bên, cho nên có sướng giàu thì cùng chung hưởng, không may khổ cực vất vả thì cùng xẻ chia. Tất cả vì hạnh phúc gia đình một cách bền vững. Nhân đây cũng cần nhắn nhủ đối với những ai còn nặng máu trăng hoa, ong bướm thì cần đoạn tuyệt ngay bây giờ mà quay về với tổ ấm. Bởi trong lời đường mật của những kẻ buôn son, bán phấn, hoặc là người khác giới nào khác lời nói của họ khó mà tin là sự thật. Mỗi nụ cười, mỗi câu thề non hẹn biển của họ là những lưỡi dao sắc bén để đục khoắc hầu bao của mấy gã si tình, rồ dại. Tình yêu đối với Nàng là hết tiền thì tình cũng đi luôn. Trong khi đó, người bạn đời thì tháng ngày giàu công vun đắp tổ ấm gia đình chăm lo chồng con lẽ nào mấy đấng phu quân lại đang tâm hờ hững. Mặt khác, người đời thường nói “Trai mà chi, gái mà chi con nào nghĩa có nghì là hơn” rõ ràng, vai trò trai hay gái trong thời đại ngày nay không như ngày xưa, trai gái đều như nhau và có trách nhiệm lo lắng cha mẹ, lo lắng cho dòng tộc và xã hội. Nói tóm lại, gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình yên ấm thì xã hội mới yên vui. Mặt khác, đạo làm người thì cần phải biết đúng sai, biết đâu là đạo lý nghĩa vợ chồng. Do đó, mỗi chúng ta khi đã có gia đình thì phải biết vun đắp tổ ấm xây dựng gia đình hạnh phúc một cách bền vững, lâu dài. Ngày nay với xu thế toàn cầu thì xã hội ngày càng phát triển và các mối quan hệ trong xã hội luôn vận động và biến đổi không ngừng. Để có một xã hội luôn tươi đẹp và phồn thịnh thì xã hội ấy phải phát triển theo định hướng của pháp luật. Như chúng ta cũng đã biết để có một xã hội tốt thì pháp luật cần phải hoàn chỉnh và phù hợp để toàn xã hội hướng tới. Mà ngành Luật Hôn nhân và gia đình là một ngành luật gắn liền với quyền nhân thân của mỗi công dân, điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình - một nhóm quan hệ phổ biến, kèm theo đó là nhiều vấn đề phức tạp như: Tài sản chung vợ chồng, quyền thừa kế, nghĩa vụ đối với con cái, ... Với tính chất thiết thực và phức tạp của quan hệ hôn nhân và gia đình thì Luật Hôn nhân và gia đình ra đời và luôn được nhà nước quan tâm và sửa đổi, hoàn thiện sao cho ngày một tiến bộ và phù hợp hơn với thời đại. Năm 1959, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành Luật Hôn nhân và gia đình với những quy định dựa trên nguyên tắc tiến bộ, tự do, bình đẳng, một vợ một chồng. Đây là một mốc son lịch sử, một phát súng đầu tiên tiến công vào những quan niệm lạc hậu của chế độ trọng nam khinh nữ, hôn nhân lạc hậu và đặt những viên gạch đầu tiên xây dựng một chế độ hôn nhân mới tự nguyện bình đẳng. Tiếp theo đó là sự ra đời của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 và 2000 giúp cho Luật Hôn nhân và gia đình hoàn thiện hơn phù hợp với sự phát triển của đất nước, của con người, của thời đại. Nhìn chung Luật Hôn nhân và gia đình đã khá hoàn chỉnh quy định một cách hệ thống đầy đủ, rất gần gũi thiết thực cho cuộc sống xã hội. Tuy nhiên để pháp luật đi vào đời sống xã hội có hiệu quả đòi hỏi những nhà thực hiện chính sách xã hội, pháp luật phải có kinh nghiệm thực tế, có kiến thức pháp luật vững vàng. Từ đấy chúng tôi đưa ra đề tài nghiên cứu : “ Thực trạng , nguyên nhân và giải pháp với hiện tượng ly hôn trong các gia đình Việt Nam hiện nay “ nhằm để hiểu rõ và tìm ra một biện pháp tình trạng gia tăng của vấn đề này trong xã hội hiện nay 1.2. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU: Hê- ghen viết : “…tự nó, theo khái niệm của nó, hôn nhân là không bị phá vỡ, nhưng chỉ tự nó, tức là chỉ theo khái niệm của nó mà thôi .” (Hê - ghen “nguyên lý của triết họcluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu môn Triết Học Mác LêNin pháp quyền “ đoạn bổ sung (163-219) Điều thường xảy ra luôn dưới chế độ TB không phải là những trường hợp riêng lẻ, mà là hiện tượng điển hình, đó là những điều kiện làm cho các giai cấp bị áp bức không thể nào “thực hiện được” các quyền dân chủ của họ. Phần lớn là trường hợp quyền ly hôn không thể thực hiện được dưới chế độ TB, vì dưới chế độ đó, giới bị áp bức thì bị đè nén về mặt kinh tế vì người phụ nữ dưới chế độ đó, bất kể dưới hình thức dân chủ nào vẫn chỉ coi là “ người nô tỳ trong gia đình”, người nô tỳ bị giam cầm trong buồng ngủ, buồng con cái, trong nhà bếp. Quyền tự do ly hôn càng đầy dủ thì người phụ nữ càng thấy rõ ràng nguyên nhân khiến họ phải làm “nô lệ gia đình” (V-Lênin, về “1 sự biếm hoạ CN Mác và về CNKT đế quốc”. ([2]) Trên thế giới cũng vậy, ly hôn là đề tài được quan tâm nghiên cứu từ rất lâu, đặc biệt trong các công trình nghiên cứu của cac nhà XHH phương tây, trong dó đáng chú ý là công trình tiêu biểu như: “The dirorce revolution the unexpected social economic consequences for women and children in america” (các mạng ly hôn và hậu quả KTXH không mong đợi đối với phụ nữ và trẻ em ở Mỹ) của Lenore J.Weitzman -1985. “mothers and divorce” (Những người mẹ và ly hôn) của Terry A.Xendell -1986... Đặc biệt là cuốn “surnving the breakup - how children and parent upe with divorce” của 2 nhà khoa học nữ Judith Swallersteen và Joan Berlin Kelly (mỹ ) -1980 đã đưa ra 1 phân tích khá sắc sảo dưới góc độ tâm lý học, xã hội học, về ly hôn.Hai nhà nghiên cứu đã đề cập đến nguyên nhân tâm lý dẫn đến ly hôn qua nghiên cứu 60 trường hợp ly hôn ,những khó khăn, hạnh phúc sau ly hôn của từng trường hợp điển hình, khả năng tái hôn, thu nhập của vợ chồng sau ly hôn, nhất là thái độ, cuộc sống của những đứa con sau ly hôn. ở Việt Nam, bản thân khoa học XHH còn mới mẻ nên nghiên cứu XHH về ly hôn hầu như rất ít chủ yếu nghiên cứu mang tính chất lồng ghép, tổng hợp . Ở nước ta, vấn đề này cũng ngày 1 bức thiết hơn và được các nhà nước quan tâm tìm hiểu. Đã có công trình nghiên cứu được tiến hành như nghiên cứu “Như gia đình phụ nữ thiếu vắng chồng” do viện nghiên cứu gia đình và giới được thực hiện -1989, nghiên cứu này đã phân tích thực trạng đời sống kinh tế và tình cảm của người phụ nữ ly hôn, ly thân ở nông thôn miền núi phía bắc. Điều lý thú là những bằng chứng thực nghiệm mới này đã chỉ ra khó khăn kinh tế như là nguyên nhân cơ bản dẫn đến ly hôn. Nghiên cứu tiếp theo là “Nghiên cứu về quyền của phụ nữ trong luật hôn nhân và gia đình - 1986 và việc thực hiện quyền đó” do TW hội liên hiệp phụ nữ việt nam thực hiện - 1994. Nghiên cứu này thống kê tình hình ly hôn ở việt nam qua các số liệu của toà án Nhân dân tối cao; đồng thời phân tích các nguyên nhân ly hôn dựa trên 517 bộ hồ sơ ly hôn lưu trữ tại toà án thuộc 4 tỉnh thành phố (Hà Nội, Vĩnh Phú, Quảng nam - Đà nẵng và thành phố HCM) thời gian 2 năm 1993-1994. Dựa trên các hồ sơ này, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến ly hôn do tính tình không hợp chiếm tỷ lệ cao nhất (20.51%) tiếp đến là do khác biệt về nghề nghiệp của vợ và chồng làm việc ở môi trườngluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Môi Trường khác nhau và phải sống xa nhau và lý do ngoại tình chiếm tỷ lệ rất thấp. Ở mỗi quốc gia thì ly hôn cũng rất khác nhau như ở 1 số quốc gia theo đạo Hồi, phụ nữ không có quyền xin ly hôn trong khi đó chồng họ lại có quyền đuổi vợ ra khỏi nhà và chỉ cần nói ba lần câu đuổi vợ trước 1 nhân chứng và thế là “thủ tục bỏ vợ đã hoàn tất”. Tại một số quốc gia như Aixơlen, philippin, ly hôn hoàn toàn bị cấm biệt. ở một số nước khác, việc giải quyết ly hôn không quy vào lỗi. Trong khi đó, một số quốc gia khác, việc giải quyết ly hôn lại quy về lỗi những người có lỗi thường bị phạt nặng và phải đền bù cho phía không có lỗi . Một số nghiên cứu cũng do TWHLHPN tiến hành năm 1997 “Tổng kết về tình hình ly hôn ở Việt Nam” dựa trên nguồn số liệu từ Viện kiểm soát và Toà án Nhân dân tối cao báo cáo và phân tích tình trạng ly hôn qua 375 hồ sơ ly hôn lưu trữ tại 3 toà án địa phương là Hà Nội, Thanh Hoá và Vũng Tàu, kết quả có 57,1% cặp vợ chồng ly hôn vì lý do tính tình không phù hợp. Có 6,1% hồ sơ ghi người chồng không có trách nhiệm với gia đình, 3,2%do mâu thuẫn mẹ chồng nàng dâu 0,8%do vợ hắt hủi chồng, 12,8% do chồng ngoại tình và cũng tỷ lệ tương tự như vậy do chồng đánh vợ . Đáng chú ý là công trình nghiên cứu ly hôn - nghiên cứu trường hợp Hà nội do Viện gia đình và giới tiến hành 1998 - 1999 đã khắc phục được hạn chế của những nghiên cứu trước. Lần đầu tiên nghiên cứu này sử dụng các phương pháp thực nghiệm trong nghiên cứu như thu thập các tài liệu thống kê, lập bảng hỏi, chọn mẫu, và tiến hành thu thập thông tin từ các đối tượng có liên quan đến ly hôn. Chính vì vậy, những nguyên nhân ly hôn thực tế đã được làm sáng rõ hơn. Có thể nói, các nghiên cứu này đã góp phần nhận diện bức tranh về ly hôn ở Việt nam thời kỳ đổi mới. Nhưng con số đó là của cách đây 6 năm về trước và hiện nay thực tế còn khác hơn nhiều với những lý do cũng đa dạng hơn. 1.3. MỤC ĐÍCH , NHIỆM VỤ , ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU : 1. 3.1. Mục đích nghiên cứu: - Khảo sát thực trạng ,nguyên nhân của hiện tượng ly hôn trong các gia đình - Đưa ra giải pháp kiến nghị giảm bớt tình trạng ly hôn 1.3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Thao tác hóa khái niệm lien quan đến các yếu tố của đề tài: ly hôn, gia đình , ly hôn gia đình, ...... - Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc nghiên cứu về ly hôn trong các gia đình - Khảo sát định lượng và định tính về thực trạng ly hôn trong các gia đình - Đánh giá, phân tích những biến số tác động đến vấn đề ly hôn 1.4. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.4.1. Ý nghĩa khoa học. Sự phát triển của khoa học nói chung không thể tách khỏi sự phát triển của khoa học chuyên ngành. Việc nghiên cứu đề tài trên chính là củng cố thêm phương pháp, tri thức khoa học xã hội học cho người nghiên cứu khoa học. Đồng thời, đề tài sẽ làm phong phú thêm, mở rộng phạm vi nghiên cứu, lĩnh vực nghiên cứu và phục vụ xã hội của ngành XHH. Mặt khác, đê tài sẽ có ý nghĩa là bài học kinh nghiệm cho những lần nghiên cứu khoa học sau về lĩnh vực này. Tuy nhiên, mặt thành công của đề tài sẽ góp phần khẳng định vai trò của XHH và những công trình nghiên cứu trước đây về lý luận và thực nghiệm. 1.4.2. Ý nghiã thực tiễn. Đề tài giúp ta nhận thức rõ, đúng đắn một thực tế, một vấn đề xã hội mới nảy sinh. Đó là hiện tượng ly hôn trong gia đình. Đồng thời thấy được tầm quan trọng của gia đình trong quá trình phát trển xã hội, hình thành nhân cách con người. Từ đó giúp ta tìm ra nguyên nhân, đưa ra giải pháp, khuyến nghị trong các gia đình Việt Nam nói chung khắc phục, hạn chế, giải quyết thực trạng trên… 1.5. ĐỐI TƯỢNG, KHÁCH THỂ, PHẠM VI NGHIÊN CỨU 1.5.1. Đối tượng nghiên cứu: - Thực trạng , nguyên nhân , giải pháp của hiện tượng ly hôn trong các gia đình. 1.5.2. Khách thể nghiên cứu: Vợ, chồng trong mối quan hệ ly hôn 1.5.3. Phạm vi nghiên cứu: Một số tỉnh huyện : 1.5.4. Thời gian nghiên cứu : T8/2009 – T12/ 2010 1.6. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU XXH: 1.6.1. Phương pháp luận Ở đề tài nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng làm phương pháp luận. Vấn đề ly hôn trong gia đình nó có liên quan mật thiết đến các yếu tố khác . Chính vì vậy, khi nghiên cứu nghiên cứu vấn đề này phải xem xét từng trường hợp, từng điều kiện kinh tế,văn hóa,chính trị, xã hội của từng gia đình nông thôn . Đồng thời, chúng ta cũng phải đặt trong mối liên hệ với các nhân tố khác như nhà trường, các nhóm xã hội, truyền thông đại chúng. Ngoài ra, chúng ta cũng phải xem xét vấn đề đó trong một quá trình lich sử cụ thể cũng như tác động từ truyền thống văn hóa làng xã 1.6.2 Phương pháp nghiên cứu xã hội học 1.6.2.1 Phương pháp phân tích tài liệu Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã đọc và phân tích một số tài liệu liên quan đến vấn đề bạo hành gia đình Đồng thời chúng tôi quan tâm đến báo cáo trên các tạp chí, sách, báo... để đưa vào những thông tin cần thiết phục vụ cho đề tài. 1.6.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu : 1.6.2.3.Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi 1.7 GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU VÀ KHUNG LÝ THUYẾT 1.7.1 Giả thuyết nghiên cứu : Giả thuyết 1 :Các yếu tố nghề nghiệp , môi trường văn hóa , lối sống, trình độ học vấn, giáo có thể là những yếu tố tác động ly hôn trong gia đình Giả thuyết 2 :Người phụ nữ xin ly hôn thường nhiều hơn là nam xin ly hô Giả thuyết 3 :Những gia đình thành thị thường có hiện tượng ly hôn nhiều hơn ở nông thôn Khung phân tích: Mối quan hệ vợ chồng với xã hội Mối quan hệ vợ chồng Tuổi Vấn đề KT- VH XH VỢ CHỒNG TRONG GIA ĐÌNH Nghề nghiệp Trình độ học vấn Nơi ở HIỆN TƯỢNG LY HÔN TRONG CÁC GIA ĐÌNH Nguyên nhân Hậu quả CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CHÍNH 2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ LÝ THUYẾT ÁP DỤNG 2.1.1 Lý thuyết trao đổi xã hội P.Blau Cơ sở cho sự xuất hiện quan điểm này bắt nguồn từ những quan điểm của các nhà Kinh tế, Nhân loại học, Tâm lí học. Dù vậy, nguồn gốc kinh tế với những khái niệm chi phí – lợi nhuận là một trong những luận điểm gốc của quan điểm này. Thuyết lựa chọn duy lí dựa vào tiên đề cho rằng con người hoạch định hành động một cách có chủ đích, có suy nghĩ để lựa chọn và sử dụng các nguồn lực một cách duy lí nhằm đạt được kết quả tối đa với chi phí tối thiểu. Tức là trước khi quyết định một hành động nào đó con người luôn luôn đặt lên bàn cân để cân đo, đong đếm giữa chi phí và lợi nhuận mang lại, nếu chi phí ngang bằng hoặc nhỏ hơn lợi nhuận=> thực hiện hành động và ngược lại nếu chi phí lớn hơn hành động thì họ không hành động. => hành động => không hành động Khi nhắc đến lý thuyết trao đổi và lựa chọn hợp lý, có lẽ không ai có thể vượt qua được tên tuổi của Georg Simmel, ông nêu ra nguyên tắc “cùng có lợi” trong mối tương tác xã hội giữa các cá nhân và cho rằng mỗi cá nhân luôn phải cân nhắc, toan tính thiệt hơn để theo đuổi các nhu cầu cá nhân, thỏa mãn các nhu cầu cá nhân. Simmel cho rằng mối tương tác giữa người với người đều dựa vào cơ chế cho - nhận, tức là trao đổi mọi thứ ngang giá nhau. Quan niệm này về sau được phát triển thành học thuyết trong nghiên cứu xã hội học hiện đại. Thuyết trao đổi coi tương tác xã hội như là một sự trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa các bên tham gia. Mỗi bên luôn xem xét chi phí bỏ ra và lợi nhuận mang về của từng món hàng, từng dịch vụ trước khi đưa chúng ra trao đổi với nhau. Quan điểm này không được mặn mà mấy với các nhà xã hội học nhưng thực tế cho thấy ở mọi lúc, mọi nơi con người ta đều sử dụng nó. Nhất là trong thời đại kinh tế thị trường như hiện nay thì quan điểm này tỏ ra có hiệu nghiệm trong việc tham gia vào lí giải các hiện tượng xã hội. Trong những biến thể của lý thuyết Trao đổi và lựa chọn hợp lí của xã hội học hiện đại thì đáng chú ý nhất phải kể đến là lý thuyết Trao đổi xã hội của George humans xây dựng trên cơ sở nghiên cứu hành vi xã hội ở cấp vi mô là các cá nhân và các nhóm nhỏ và lý thuyết Trao đổi xã hội do Peter Blau đưa ra trên cơ sở tiếp cận cấu trúc xã hội ở cấp độ vĩ mô- nhóm lớn. Homans đưa ra chủ trương “trả lại con người cho xã hội học”, ông cho rằng mọi lý thuyết xã hội học khổng lồ thực chất đều là xã hội học về nhóm và các hiện tượng xã hội cần được giải thích bằng các đặc điểm của cá nhân chứ không phải bằng đặc điểm của cấu trúc xã hội. Vì vậy, cách lý giải hợp lý nhất đối với hiện tượng xã hội là cách giải thích tâm lí học. “Hành vi sơ đẳng” của con người là cơ sở của sự trao đổi xã hội giữa hai hoặc nhiều ngừơi. Ông định nghĩa hành vi sơ đẳng là hành vi mà con người lặp đi lặp lại, không phụ thuộc vào việc nó được hoạch định hay không, diễn ra dưới nhiều hình thức từ phản xạ có điều kiện đến kĩ năng, kỹ xảo đến thói quen. Con người là một chủ thể duy lý trong việc xem xét và sự lựa chọn hoạt động để đem lại phần thưởng lớn nhất và có giá trị nhất. Ông cho rằng quyền lực cũng tham gia vào quá trình trao đổi, nó có khả năng đem lại các phần thưởng có giá trị, vì vậy, quan hệ quyền lực cũng là quan hệ trao đổi. Khác với Homans, Blau quan tâm nghiên cứu sự trao đổi xã hội trong quan hệ với cấu trúc xã hội vĩ mô, Blau cho rằng sự trao đổi xã hội không chỉ là một khía cạnh, một mặt của hành vi xã hội mà còn có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự hội nhập, đoàn kết, thống nhất xã hội. Ông cho rằng yếu tố cốt lõi của sự trao đổi xã hội là sự phụ thuộc của cá nhân này vào cá nhân kia về sản phẩm, hành hóa hay dịch vụ nào đó. Blau cũng cho rằng trong trao đổi xã hội chứa đựng yếu tố quyền lực và quan hệ trao đổi là quan hệ làm nảy sinh quan hệ quyền lực. Blau cho rằng trong trao đổi xã hội, quyền lực là thứ có thể đem trao đổi để lấy thứ khác. Do đó, người có quyền lực vẫn phải tham gia vào tương tác, quan hệ với ngừơi khác để dành những thứ có giá trị. Điều đặc biệt trong nghiên cứu “ trao đổi xã hội” của Blau là ông đã đưa các lý thuyết xã hội của mình vượt khỏi phạm vi của các định đề tâm lý học về sự lựa chọn của cá nhân. Thay vì nhấn mạnh các yếu tố tâm lý của hành vi lựa chọn, Blau đặc biệt chú ý đến vai trò của “cấu trúc xã hội”. ông nghiên cứu cấu trúc xã hội vi mô với tư cách là cấu trúc tế bào của xã hội, tức là cấu trúc nhóm đôi, nhóm cặp, trên cơ sở đó, ông triển khai nghiên cứu đặc điểm, tính chất của cấu trúc xã hội vĩ mô gồm nhiều người, nhiều nhóm xã hội, nhiều thiết chế xã hội và hệ thống xã hội. Đời sống vợ chồng là những quan hệ trực diện với nhau về mặt tình cảm, vì vậy tưởng chừng như lý thuyết trao đổi và lựa chọn hợp lí có vẽ không thích hợp với việc nghiên cứu gia đình nhưng thực ra nhiều người đã sử dụng sự phân tích lợi hại để cân đo, so sánh các hành động và quan hệ trong lĩnh vực này. Các ngưồn lực và quyền lực đóng vai trò trung tâm. Theo hai nhà nghiên cứu Sabetalli và Shehan (1993). “ Các nguồn lực của mỗi người vợ người chồng và sự lệ thuộc của mỗi người vợ người chồng vào quan hệ của họ phải được tính đến”. Lý thuyết này tỏ ra có sức thuyết phục khi dược áp dụng để giải thích cho những xu hướng đang nổi lên như một hiện tượng xã hội như sự gia tăng tỉ lệ ly hôn hay xu hướng sống độc thân của những thanh niên trẻ (đặc biệt là trong các nước có nền kinh tế phát triển)… Như vậy, cùng với cách tiếp cận nhóm trong nhiên cứu gia đình cho phép chúng ta xác định dược động cơ cũng như các nguyên nhân của sự tan vỡ của gia đình, những biến động trong quan hệ vợ chồng, quan hệ giữa cha mẹ và con cái… 2.1.2 Lý thuyết hành vi lựa chọn của George Homans George Homans (1910 – 1989), là nhà xã hội học người Mỹ, một trong những tác giả của lý thuyết trao đổi xã hội. Ông có ý thức rõ về vai trò của mỗi tương tác trực tiếp giữa các cá nhân và quan tâm tìm hiểu các đặc điểm của mối tương tác xã hội ở cấp độ vi mô hơn là đặc điểm của hệ thống xã hội cấp vĩ mô. Theo thuyết lựa chọn duy lý đòi hỏi phải phân tích hành động lựa chọn của cá nhân trong mối liên hệ với cả hệ thống xã hội của nó bao gồm các cá nhân khác với những nhu cầu và sự mong đợi của họ, các khả năng lựa chọn và các sản phẩm đầu ra của từng lựa chọn cùng các đặc điểm khác. Do đó, sự tác động của nhiều yếu tố như vậy mà các hành vi lựa chọn duy lý của các cá nhân có thể tạo ra những sản phẩm phi lý không mong đợi của cả nhóm, tập thể. Theo đó, ông nhấn mạnh đến sự trao đổi của các cá nhân trong các nhóm nhỏ mà thông qua đó các cá nhân học tập và hình thành nhân cách của mình. Hành vi sơ đẳng được Homans định nghĩa là hành vi mà con người lặp đi lặp lại không phụ thuộc vào việc nó có được hoạch định hay không. Hành vi xã hội sơ đẳng dưới nhiều hình thức từ phản xạ có điều kiện đến kỹ năng, kỹ xảo đến thói quen. Cá nhân sẽ quyết định lựa chọn một hành động nào đấy ngay cả khi giá trị của nó thấp nhưng bù lại, họ chọn hành động vì tính khả thi rất cao. Ở đây, những giá trị của kết quả, giá trị của phần thưởng và cả sự mong đợi của mỗi cá nhân bắt nguồn từ hệ chuẩn mực xã hội như phong tục tập quán, truyền thống. 1.1.3. Lý thuyết phân tích xung đột trong các khía cạnh về giới của Chanet Chafetz. Chanet thăm dò các cấu trúc và điều kiện xã hội ảnh hưởng đến cường độ của sự phân tầng giới tính – hay các bất lợi của phụ nữ - trong mọi xã hội và mọi nền văn hóa. Các cấu trúc và điều kiện này bao gồm các yếu tố phân biệt giới tính về vai trò, ý thức hệ gia trưởng, gia đình và tổ chức lao động, các điều kiện định khuôn như các khuôn mẫu sinh sản, sự phân cách của các vị trí lao động và nội trợ, thặng dư kinh tế, tính chất phức tạp về kỹ thuật, mật độ dân số và sự khắc nghiệt về môi trường- tất cả được nhận thức như là các biến số. Sự tương tác giữa các biến số này quyết định mức độ của sự phân tầng giới tính, vì chúng định khuôn các cấu trúc chủ yếu của sự nội trợ và sự sản xuất kinh tế và mức độ mà các phụ nữ di động giữa hai lĩnh vực này. Quan điểm của Chafet là phụ nữ chịu đựng sự bất lợi ở mức thấp nhất khi họ có thể cân bằng giữa các trách nhiệm nội trợ với các vai trò quan trọng và độc lập trong nền sản xuất thị trường. Nội trợ/gia đình được xem không phải là một lĩnh vực nằm ngoài lao động, một khu vực của sự tình cảm và sự nuôi dưỡng, mà là một lĩnh vực trong sự lao động diễn rasự chăm sóc trẻ, công việc nhà và đôi khi cũng là lao động (khi ở gia đình nông trại) mà đối với chúng có những ban thưởng vật chất vượt khỏi phạm vi nội trợ. Sự tiếp nhận của phụ nữ đối với các ban thưởng đó hoặc thông qua sự nội trợ hoặc thông qua sự sản xuất thị trường trở thành sự giảm nhẹ các yếu tố bất lợi xã hội và hình thái của sự nội trợ là cấu trúc chủ yếu tạo sự thuận lợi hay gây trở ngại cho sự tiếp nhận này. 2.2 CÁC KHÁI NIỆM CÔNG CỤ 2.2.1 Hôn nhân Hôn nhân một cách chung nhất có thể được xác định như một sự xếp đặt của mỗi một xã hội để điều chỉnh mối quan hệ sinh lý giữa đàn ông và đàn bà. Nó là một hình thức xã hội luôn luôn thay đổi trong suốt quá trình phát triển của mối quan hệ giữa họ, nhờ đó xã hội xếp đặt và cho phép họ sống chung với nhau, quy định quyền lợi và nghĩa vụ của họ. Hôn nhân là sự kết hợp của các cá nhân về mặt tình cảm, xã hội, và hoặc tôn giáo một cách hợp pháp. Hôn nhân có thể là kết quả của tình yêu. Hôn nhân là một mối quan hệ cơ bản trong gia đình ở hầu hết xã hội. Về mặt xã hội, lễ cưới thường là sự kiện đánh dấu sự chính thức của hôn nhân. Về mặt luật pháp, đó là việc đăng ký kết hôn. Hôn nhân thường là sự kết hợp giữa một người đàn ông được gọi là chồng và một người đàn bà được gọi là vợ. Hôn nhân theo chế độ đa thê là một kiểu hôn nhân trong đó một người đàn ông có nhiều vợ. Ở một số nước, hôn nhân đồng giới được công nhận. Ở một số nước khác, việc đấu tranh hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới đang diễn ra. Tuy nhiên hiện nay ở Việt Nam, luật hôn nhân và gia đình cấm hôn nhân giữa những người cùng giới tính. 2.2.2 Kết hôn Luật hôn nhân và gia đình có viết : Điều 7 Cấm kết hôn trong những trường hợp sau đây : a) Đang có vợ hoặc có chồng ; b) Đang mắc bệnh tâm thần không có khả năng nhận thức hành vi của mình ; đang mắc bệnh hoa liễu ; c) Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ ; giữa anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha ; giữa những người khác có họ trong phạm vi ba đời ; d) Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi. Điều 8 Việc kết hôn do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú của một trong hai người kết hôn công nhận và ghi vào sổ kết hôn theo nghi thức do Nhà nước quy định. Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau ở ngoài nước do cơ quan đại diện ngoại giao của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận. Mọi nghi thức kết hôn khác đều không có giá trị pháp lý. Điều 9 Việc kết hôn vi phạm một trong các Điều 5, 6, 7 của Luật này là trái pháp luật. Một hoặc hai bên để kết hôn trái pháp luật, vợ, chồng hoặc con của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác, Viện kiểm sát nhân dân, Hội liên hiệp phụ nữa Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam có quyền yêu cầu Toà án nhân dân huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Tài sản của những người mà hôn nhân bị huỷ được giải quyết theo nguyên tắc : tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người ấy ; tài sản chung được chia căn cứ vào công sức đóng góp của mỗi bên ; quyền lợi chính đáng của bên bị lừa dối hoặc bị cưỡng ép kết hôn được bảo vệ. Quyền lợi của con được giải quyết như trong trường hợp cha mẹ ly hôn. 2.2.3 Ly hôn: Điều 40 – Luật hôn nhân và gia đình có viết Khi vợ hoặc chồng, hoặc cả hai vợ chồng có đơn xin ly hôn thì Toà án nhân dân tiến hành điều tra và hoà giải. Trong trường hợp cả hai vợ chồng xin ly hôn, nếu hoà giải không thành và nếu xét đúng là hai bên thật sự tự nguyện ly hôn, thì Toà án nhân dân công nhận cho thuận tình ly hôn. Trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng xin ly hôn, nếu hoà giải không thành thì Toà án nhân dân xét xử. Nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Toà án nhân dân xử cho ly hôn. 2.2 4. Khái niệm “Gia đình” Gia đình là cái nôi nuôi dưỡng cho cả một đời người, là môi trường giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách sống có tình có nghĩa, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau, có ý thức trách nhiệm của công dân, tôn trọng pháp luật và giữ gìn đạo lý Gia đình là khái niệm được dùng để chỉ một nhóm xã hội hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân( quan hệ tính giao và quan hệ tình cảm) và quan hệ huyết thống nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó (cha me, con cái, ông bà, họ hàng nội ngoại...). Gia đình có thể hiểu như là một đơn vị xã hội vi mô, nó chịu sự chi phối của xã hội song có tính ổn định độc lập tương đối. Nó có quy luật phát triển riêng với tư cách là một thiết chế xã hội đặ thù. Những thành viên trong gia đình được gứ bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi kinh tế, văn hóa, tình cảm một cách hợp pháp được nhà nước thừa nhận và bảo hộ CHƯƠNG 3 3.1 THỰC TRẠNG LY HÔN Hiện tượng ly hôn trong các gia đình VN đang tăng lên. Theo kết quả điều tra Gia đình Việt Nam năm 2006 vừa được Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch và Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc tại VN (UNICEF) ngày 26.6.10 hiện tượng ly hôn đang tăng lên, chủ yếu là do áp lực về kinh tế, khác biệt về lối sống và sự không chung thuỷ của hai giới. Kết quả điều tra lần này cho thấy tỷ lệ ly hôn là 2,6% với lứa tuổi từ 18 - 60 và cao hơn ở thành thị. Một điều đáng chú ý từ cuộc điều tra là VN đang hình thành những hình thái gia đình mới với ngày càng nhiều những phụ nữ ly dị sau khi đã có con, gia đình chỉ có bố hoặc mẹ. PGS-TS Nguyễn Hữu Minh, Viện trưởng Gia đình và giới (Thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam) cho biết, tỷ lệ phụ nữ đứng đơn ly hôn cũng cao gấp đôi so với nam giới. Lý do chính là giá trị cá nhân được đề cao hơn, người phụ nữ chủ động hơn trong hạnh phúc của mình và cũng chứng tỏ nhận thức của nữ giới về quyền và địa vị của họ đã thay đổi. Tuy nhiên, kết quả điều tra cũng cho thấy mô hình gia đình hạt nhân khá phổ biến ở thành thị và các khu vực đang phát triển. Tuổi kết hôn lần đầu thường cao hơn với những người ở thành phố (khoảng ba năm với cả hai giới) và những ngường có trình độ chuyên môn cao (khoảng 4,5 tuổi) Một số liệu đáng lưu tâm trong khảo sát cho thấy, 20% các ông bố và 7% các bà mẹ hoàn toàn không dành một thời gian nào cho việc chăm sóc con cái do phải lo kiếm sống. Hơn 80% trẻ vị thành niên (15-17 tuổi) cho biết bố mẹ cho phép các em tự quyết định về mọi vấn đề liên quan đến cuộc sống của mình. Do vậy, báo cáo đánh giá, nếu bố mẹ không quan tâm, chăm sóc con cái sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển thể chất, trí tuệ và tính tình của của trẻ em. Trẻ em ở Việt Nam thường xuyên tham gia các công việc gia đình, đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Trung bình, các em bắt đầu tham gia lao động được trả công là 14,3 tuổi. Với lứa tuổi này, thiếu tiền (21,7%), học lực kém (10,7%) và không có điều kiện học tiếp (10,5%) là những lo lắng hàng đầu của các em trong cuộc sống. Cuộc điều tra cho thấy hành vi bạo lực gia đình vẫn tồn tại ở 1/5 các cặp vợ chồng, nạn nhân chủ yếu là người phụ nữ và con cái trong gia đình, tuy nhiên vấn đề này vẫn được coi là vấn đề nội bộ của gia đình và chưa có sự can thiệp thích đáng của pháp luật hay các đoàn thể xã hội. Thứ trưởng Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch Huỳnh Vĩnh Ái nhận định, các điều tra cung cấp một bức tranh toàn diện về những thay đổi trong các mối quan hệ gia đình cũng như vai trò và trách nhiệm của mỗi thành viên. Đồng thời làm sáng tỏ những thay đổi các giá trị và chuẩn mực của gia đình dưới tác động của công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Cuộc điều tra được tiến hành từ năm 2006 đến 2007 trên 9.300 hộ gia đình gồm các đối tượng người lớn, trẻ vị thành niên và các bậc cao tuổi ở 64 tỉnh, thành phố. Cuộc điều tra do Vụ Gia đình của Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em trước đây, nay trực thuộc Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch phối hợp với Tổng cục Thống kê, Viện Nghiên cứu gia đình của Australia và Viện Nghiên cứu gia đình và giới thực hiện. Theo Phó Chánh án TAND TP Huỳnh Ngọc Ánh, trong năm qua đã xuất hiện trường hợp nguyên đơn là người nước ngoài hoặc Việt kiều về nước xin ly hôn với công dân Việt Nam (21 vụ). Đây là những trường hợp hoàn toàn mới và việc giải quyết án sẽ vất vả, kéo dài hơn thông thường vì phải công chứng, chứng thực đơn, tài liệu, phiên dịch tại tòa… Ông Ánh nhìn nhận án ly hôn là loại án có số lượng cao nhất, năm sau luôn cao hơn năm trước nhưng ngành tòa án TP đã nỗ lực cao và chủ động gỡ vướng nên lượng án tồn, án quá hạn rất ít (63 vụ). Theo một cuộc khảo sát mới đây của Trung tâm Tư vấn giáo dục tâm lý thể chất TP.HCM, ly hôn vì bất đồng trong cá tính, suy nghĩ, quan điểm chiếm tỉ lệ cao nhất (39,5%). Tại buổi báo cáo đề tài này, Tiến sĩ Mai Ngọc Luông cho rằng đây là sự thay đổi tất yếu trong xã hội đô thị. Cá tính của những trí thức trẻ đã thể hiện rõ nét hơn, họ dám trung thực với bản thân hơn trong nếp sống và suy nghĩ của mình. Theo Tiến sĩ Luông, cá tính mạnh trong cuộc sống hiện đại thì rất tốt nhưng nó lại là kẻ thù của hôn nhân vì người ta dễ tự do thể hiện cá tính mà thiếu sự nhường nhịn lẫn nhau. Theo kết quả nghiên cứu khoa học mới công bố về tình trạng ly hôn của thanh niên trên địa bàn TP.HCM của nhóm tác giả Nguyễn Ngọc Tài (Trung tâm Tư vấn giáo dục tâm lý thể chất TP.HCM), hiện nay cứ bình quân 2,7 cặp kết hôn thì có một cặp ly hôn. Độ tuổi ly hôn dưới 30 chiếm tỉ lệ cao và năm sau luôn tăng hơn năm trước. Cũng theo khảo sát này, 43,4% cảm thấy cuộc sống của mình thoải mái, tự do hơn sau khi ly hôn. Theo Tòa án nhân dân TP. Đà Nẵng, số án ly hôn đang chiếm trên 50% các án về dân sự tại các tòa. Nếu năm 2009, các cấp tòa án thụ lý 1.402 vụ ly hôn, thì sáu tháng đầu năm 2010 đã thụ lý 819 vụ; số vụ hòa giải thành công chỉ chiếm khoảng 3-4%. Đáng nói, số vụ ly hôn trong các gia đình trẻ tăng nhanh nhất với trên 70% tập trung ở độ tuổi từ 2230, trong đó, có trên 60% ly hôn khi mới kết hôn từ 1-5 năm và hầu hết đã có con. Ước tính, mỗi năm trên địa bàn TP. Đà Nẵng có khoảng 1.000 - 1.500 trẻ sống thiếu cha hoặc mẹ do gia đình ly tán. Tình trạng trên không chỉ gia tăng ở các quận nội thành mà đang có dấu hiệu tăng nhanh tại những vùng nông thôn. Kết quả điều tra ở cấp quốc gia, cũng là lần đầu tiên về thực trạng gia đình của cả nước đưa ra những thông tin và con số đáng báo động: Tình trạng ly hôn trên cả nước đã tăng theo cấp số nhân trong vòng 10 năm qua. Theo kết quả nghiên cứu về xã hội học đã được công bố của Tiến sỹ Nguyễn Minh Hòa (Trường Đại học KHXH và Nhân văn TP Hồ Chí Minh) thì tỷ lệ ly hôn trên cả nước chiếm từ 31 - 40% trên số kết hôn. Điều đó có nghĩa cứ 3 cặp kết hôn thì sẽ có 1 cặp chia tay và chiếm 60% trong số này là lớp người trẻ thuộc thế hệ 8X (từ 23 - 30 tuổi). Tại TP Hồ Chí Minh, số liệu điều tra xã hội học còn cho biết mỗi năm có trên 50 ngàn trẻ em rơi vào hoàn cảnh cha mẹ bỏ nhau và 30% trẻ em lang thang đường phố xuất thân từ hoàn cảnh này. Cuộc sống của gia đình trẻ ngày nay đã khá giả hơn khi nguyên nhân chia tay về kinh tế chỉ chiếm một con số nhỏ, ở vị trí thứ 3 trong tổng số vụ ly hôn được khảo sát trên cả nước. Mâu thuẫn về lối sống, nguyên nhân hàng đầu dẫn đến việc vợ chồng ly hôn hiện nay theo nhận định của một chuyên gia về tâm lý "Nhiều cặp vợ chồng ly hôn vì những lý do hết sức đơn giản, mà chỉ cần mỗi người biết thông cảm, sẻ chia với nhau hoặc điều chỉnh mình một chút họ vẫn có thể hàn gắn, giữ được một mái ấm hạnh phúc. Nhiều người trong số những cặp vợ chồng đang đứng sát bên bờ vực chia ly khi đến với các chuyên gia tư vấn hoặc lúc đưa nhau ra trước tòa đã nhận được sự khuyên giải khá kỹ. Nhưng cả vợ hoặc chồng đều khăng khăng đòi được giải quyết ly hôn một cách quyết liệt dù họ không thể giải thích một cách thuyết phục thế nào là không hợp nhau, thế nào là bất đồng quan điểm sau nhiều năm chung sống… Hơn nữa, đa số cả chồng và vợ khi quyết định ly hôn đều giành quyền nuôi con. Điều đó chứng tỏ họ rất thương con nhưng không thể hy sinh bớt cái tôi bản thân vì tương lai con cái". Theo Phó Giáo sư, Tiến sỹ Phan An, một chuyên gia nghiên cứu hàng đầu về lĩnh vực hôn nhân - gia đình của Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ: "Lớp phụ nữ trẻ, hiện đại ngày nay có trình độ học thức, công việc ổn định và thu nhập cao hơn. Khi đã độc lập trong cuộc sống, cái tôi cá nhân cũng trỗi dậy mạnh hơn, và như vậy, họ tự cho mình quyền quyết định trong nhiều việc, điều đó giải thích tại sao phụ nữ đứng đơn ly hôn cao gấp 2 lần đàn ông". Về nguyên nhân ngoại tình dẫn đến đổ vỡ hạnh phúc gia đình, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Phan An cho biết: "Mặt trái của cuộc sống hiện đại là nét văn hóa truyền thống đang dần bị mai một. Sự tiêu cực là những cám dỗ lẫn trong đó đã khiến một bộ phận những người đã có gia đình sống giả dối với nhau hơn để đạt được sự ham muốn ích kỷ của bản thân". Gặp ông Hai, đã hơn 60 tuổi ở quận Tân Bình, TP Hồ Chí Minh khi ông đang dỗ đứa cháu ngoại mới 3 tuổi khóc ngằn ngặt do con gái ông mới ly dị chồng, đưa cả con về ở, ông than: "Thời chúng tôi cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, bảo sao con phải nghe vậy, nay thì ngược lại!". Tuổi kết hôn trong giới trẻ ngày càng muộn hơn, mức trung bình hiện đã đạt gần 23 tuổi đối với nữ và nam là 26 tuổi. Như vậy, ý thức, nhận thức về gia đình đối với họ chắc chắn đã cao hơn trước song ngược lại, trách nhiệm với gia đình, với xã hội trong việc duy trì một gia đình bền vững đối với một bộ phận người trẻ không được xem trọng. Tình trạng ly hôn trong giới trẻ vẫn trên đà gia tăng hiện đang là một câu hỏi lớn cần được cả xã hội quan tâm “Đa số 8X trong những trường hợp ly hôn kể trên đều là con một. Dù là nam hay nữ thì họ vẫn luôn được đặt ở vị trí trung tâm và duy nhất của gia đình. Tính vị kỷ của những người này được thể hiện khá rõ trong thời gian độc thân. Đa số họ thiếu sự khoan dung và vị tha với người khác sau khi kết hôn”, (nhà thơ Từ Dương, 68 tuổi nhận định.) Một số câu chuyện : Câu chuyện 1 : Bà Dương kể: Thảo (cháu nội của bà), là con một. Bố Thảo làm công an, là cán bộ nhà nước. Vợ chồng có mỗi mình Thảo, nên từ nhỏ, Thảo đã thích gì được nấy. Dù biết với kiểu nuông chiều vô điều kiện đó, con gái sẽ trở nên ích kỷ, nhưng bố cô vẫn động viên nhau: trg đến rằm sẽ tròn. Tuy nhiên, nhân cách con người khác với hiện tượng tự nhiên của trời đất. “Quyền lực” của Thảo bị “vướng” ngay khi cô về nhà chồng. “Mọi mong muốn của nó không được thực hiện ngay mà phải thông qua ý kiến của các thành viên khác. Thậm chí, nhiều lần hội đồng gia đình còn mạnh tay phủ quyết những điều nó tưởng không ai dám cãi”. Thế là Thảo đã cương quyết ly hôn. Kỳ lạ là chuyện ly hôn với cô gái 25 tuổi này chẳng phải là điều bận tâm, đau khổ hay dằn vặt... Thậm chí cô còn vui hơn khi thoát được cái gia đình “chằng chịt” phía nhà chồng. Gặp cô trong chuyến dã ngoại với nhóm bạn tại huyện Cần Giờ, mọi người tiếc rẻ cho quyết định “nông nổi” khi cô chia tay với Đức, một kỹ sư công nghệ thông tin giỏi giang. Nhưng Thảo tỉnh bơ: “Mình nghĩ kỹ lắm rồi, bố còn nghe mình, sao mình lại phải nghe... người dưng...?”. Người dưng mà Thảo muốn nói chính là bố và anh chị chồng. Xu hướng gia đình hai trụ cột đang được xã hội ủng hộ. Trụ cột thứ hai được đặt lên vai người vợ, vốn chỉ được xem là người đóng vai trò theo. Có thể thấy đó là biểu hiện rõ nhất cho định kiến xã hội đã được thay đổi nhằm duy trì một cuộc hôn nhân bền vững. Nhưng muốn được xem là trụ cột, đương nhiên người phụ nữ phải biết làm ra tiền. Thực tế, với phụ nữ thế hệ 8X, không ít người thu nhập cao hơn nam giới. Điều đáng buồn, là khi họ làm ra tiền nhiều hơn trụ cột chính, họ lại cảm thấy mình bị thiệt thòi nếu phải duy trì cuộc sống chung với một người không ngang cơ. Nguyệt Lan, sau đợt trúng chứng khoán hồi cuối năm 2007, đã nhẹ nhàng chia tay với người chồng Việt kiều đang thua lỗ trong nhiều dự án đầu tư tại Việt Nam. Khi còn là sinh viên, Nguyệt Lan tranh thủ học tiếng Anh bằng cách xin bán bưu ảnh và đĩa CD ở khu phố Tây Phạm Ngũ Lão, TP.HCM. Ở đây, cô quen Jimmy Trần, Việt kiều Mỹ và hai người cưới nhau trước khi cô tốt nghiệp vài tháng. Lấy Trần, cô cử nhân 22 tuổi chắc mẩm mình được sở hữu một tài sản trị giá ít nhất một triệu đô la từ hợp đồng chuyển nhượng dự án đầu tư khu đất vàng ở Khánh Hòa. Dự án bất thành, tiền không rút lại được... Cô bán luôn c nhà mà Trần mua cho cô trên đường Thạch Thị Thanh, Q.1. Một phần tiền mua lại c hộ ở Q.5, một phần cô giao cho Trần để đeo đuổi việc rút tiền khỏi dự án, một phần cô lén chồng chơi chứng khoán. Trúng chứng khoán, cô giấu tiền riêng. Trong những lần gặp lại bạn bè cùng khóa, thấy mọi người vẫn còn “hồn nhiên như cô tiên” cô chợt nhận thấy: “Mình còn trẻ, mà sao cuộc sống cứ chán như con gián” nên nhấp nhổm chuyện chia tay. Nhiều người biết Trần, khuyên cô suy nghĩ lại, Lan cười nửa hư nửa thật: “Trần không còn lợi, thì đợi đến rg long làm gì?”. Câu chuyện 2: Nguyễn Thảo, nhân viên công ty sự kiện B&T, lý giải cho quyết định ly hôn của mình như vậy. Cô bảo: “Từ ngày lấy chồng, cuộc sống chung chẳng còn vui như xưa. Cái gì cũng phải dè dặt, mất hết tự do!”. Một trong những quyền tự do điển hình mà Thảo cho là sự mất mát lớn nhất sau khi lập gia đình - chính là giờ giấc sinh hoạt hàng ngày bị gò ép, đơn điệu so với trước đó. Công ty của Thảo quản lý nhân viên bằng hiệu quả việc làm, nên giờ giấc không bị quản thúc bằng việc quẹt thẻ chấm công hàng ngày. Cũng vì thế, nên Thảo có thể ngủ nướng tới 9 - 10 giờ sáng và quay về nhà lúc 1 - 2 giờ khuya. Sự tự do này đã tạo cơ hội cho Thảo quen được Tuấn Anh, trưởng phòng outbound một công ty du lịch, trong một lần công ty cô tổ chức khóa huấn luyện làm việc theo đội nhóm (workteam) ở Phan Thiết. Không bị ràng buộc về giờ giấc như Thảo, nên mỗi lần cô gọi là Tuấn Anh có mặt và hai người có thể vui vẻ với nhau đủ thứ chuyện mà không hề phân vân về thời gian. Sáu tháng quen nhau, họ quyết định cưới. Một phần đám cưới luôn là niềm tự hào của người phụ nữ. Phần khác, những tưởng sau cưới cuộc sống chung sẽ vui hơn... Nhưng có ngờ đâu, người vui không phải Thảo mà là hàng xóm, bạn bè; còn Thảo, tuy không phải làm dâu, nhưng lại bắt đầu cuộc sống... ràng buộc với những quy củ chán phèo để nhập vai một người vợ... hiền! Tiến sĩ Nguyễn Minh Hòa (ĐHKHXH &NV TP.HCM), có một thống kê: tỷ lệ ly hôn ở Việt Nam chiếm 31% - 40%. 60% số vụ ly hôn này thuộc về các gia đình trẻ, tuổi vợ chồng chỉ từ 23 - 30, trong đó 70% ly hôn khi mới kết hôn. Những con số này cho thấy có một quan niệm mới về độ “kết dính” của đời sống vợ chồng. Hỏi về lý do chấm dứt hôn nhân của mình,: “Không chia tay thì tự mình hành xác mình à?”. (Thảo Chi, Nữ,nhân viên một công ty khai thác dịch vụ công nghệ thông tin) Các thống kê cho thấy, Việt Nam hiện có khoảng 60.000 vụ/năm, tương đương 0,75vụ/1000 dân (trong khi ở Nga là 3,36, Trung Quốc là 0,79, ở Thái Lan là 0,58). Theo số liệu thống kê ở thành phố Hồ Chí Minh, có khoảng 40% các cuộc hôn nhân kết thúc bằng ly dị (tăng gấp đôi so với năm 1998). Nếu so sánh với Mỹ là 49% (cao nhất thế giới) và phần lớn các nước phát triển là khoảng 40%, thì tình trạng “tan đàn xẻ nghé” ở nước ta cũng chả chịu thua bạn kém bè. Điều đáng nói là trong khi tỷ lệ ly hôn cao không kém gì các nước khác thì văn hóa ly hôn của chúng ta lại quá thấp so với họ. Ở các nước khác, sau ly hôn, hầu hết những người đã từng là vợ chồng vẫn cư xử với nhau bằng phép lịch sự tối thiểu và rất hiếm khi đẩy nhau vào thế hận thù. Câu chuyện 3: Tôi có người bạn mới đi Thụy Điển về, anh kể chuyện đến dự sinh nhật một cháu bé có cha mẹ ly hôn. Điều khiến anh ngạc nhiên là bữa tiệc đó đông vui hơn sinh nhật những đứa trẻ có gia cảnh bình thường khác bởi đứa trẻ ấy có tới bốn bố mẹ (thêm bố dượng và mẹ kế) và hẳn tám ông bà. Tất cả đều nâng cốc chúc mừng vui vẻ, tan tiệc còn tiễn nhau ra xe rất thân tình. Có lẽ ở các quốc gia phát triển với khung nền văn minh cao, những cuộc chia tay trở nên nhẹ nhàng, thoải mái hơn vì truyền thống ly hôn đã có từ nhiều đời. Không ở được với nhau thì chia tay; không là vợ chồng nữa thì có thể là bạn bè, và cả hai cùng phải có trách nhiệm với con cái. Đời ông bà, cha mẹ như thế nào, con cháu cứ thế mà theo nên nó trở thành một nếp sống. Còn chúng ta suốt mấy nghìn năm, khi ván đã đóng thuyền, dù không có tình yêu, không hạnh phúc, dù gia đình có tên gọi khác là địa ngục trần gian, năm ngày ba trận choảng nhau, thì vẫn cứ cố mà chịu đựng nhau cho đến hết đời bởi lời răn đe “đừng bôi gio trát trấu vào mặt bố mẹ”, bởi nỗi xấu hổ, ê chề khi phải đối mặt với sự ác cảm, định kiến của cộng đồng. Thế nên lớp trẻ ngày nay không tiếp thu được chút gì về văn hóa ly hôn của các thế hệ trước, khi “hữu sự”, họ hành xử phần nhiều theo bản năng, và không ít điều đáng tiếc đã xảy ra. Thực trạng hiện nay cho thấy khoảng 70% đơn ly hôn do phụ nữ đứng tên. Với không ít những ông chồng trong đầu còn chất nặng tư tưởng phong kiến và thói gia trưởng vẫn ngấm sâu trong huyết quản, đó là một sự xúc phạm. Và giống như con thú bị thương, họ sẽ hung hãn trả thù với không ít hành động vừa phi đạo đức, vừa trái pháp luật như bạo hành, lăng nhục vợ con... mà đôi khi pháp luật cũng khó can thiệp kịp thời. Mặt khác, các cuộc ly hôn ở những nước phát triển cũng trở nên nhẹ nhàng hơn bởi sự chặt chẽ, nghiêm minh của thứ pháp luật thượng tôn. Quyền nuôi con đã được điều tra, xem xét kỹ lưỡng trên cơ sở đảm bảo những điều kiện tốt nhất cho đứa trẻ. Chuyện phân chia tài sản cũng đơn giản hơn vì nhiều đôi có hợp đồng hôn nhân trong đó đã thỏa thuận ghi rõ phần tài sản thuộc về mỗi người nếu chia tay. Nếu chưa có hợp đồng trước đó thì họ cũng chẳng có lí do gì mà đi ngược lại phán quyết của pháp luật. Chỉ cần vi phạm chế độ phụ cấp nuôi con sau ly hôn, toà án đã can thiệp ngay để bảo vệ quyền lợi của người nuôi và của đứa trẻ. Hành vi của những người đã ly hôn còn quay lại quậy phá người cũ, pháp luật cũng chẳng bỏ qua. Trong khi đó ở xứ ta, người mẹ được tòa xử cho quyền nuôi con, nhưng chồng cũ đến đón con mang đi mất đành đệ đơn xin toà án can thiệp tiếp. Vị thẩm phán nghĩ một lúc vẫn chẳng hết phân vân: “Bây giờ chúng tôi có thể huy động lực lượng đến cưỡng chế đòi lại con cho chị nhưng vài hôm anh ta lại đến cổng trường đón con về thì làm thế nào?”. Bạn tôi, một chuyên gia người Úc, biết chuyện đã rất ngạc nhiên: “Nếu ở nước tôi, anh ta bị khép vào tội bắt cóc trẻ con và chắc chắn đi tù”. Chính vì luật pháp của họ có uy lực như thế nên người dân có muốn làm bậy cũng không dám. Còn ở ta thì sao? Có người đàn ông, tòa đã xử ly hôn rồi nhưng vẫn tự cho mình cái quyền ghen với vợ cũ, bất kể người đàn ông nào đến với chị đều bị anh ta đe dọa, chửi bới cả hai. Có anh, tòa đã xử cho vợ được quyền nuôi đứa con gái 5 tuổi, nhưng anh ta cứ đến cổng trường mẫu giáo đón con về nhà mình, khiến mẹ thương nhớ con lại phải đến tiếp tục hầu hạ anh ta. Ngược lại, có trường hợp người bố đến thăm con nhưng cả nhà vợ cũ cấm cửa không cho gặp, phải nhờ đến cảnh sát khu vực và tổ dân phố can thiệp mới được gặp con một lúc. Câu chuyện 4: Một đám cưới ở Hà Nội, người vợ cũ xông vào giữa lúc hôn lễ đang tiến hành làm náo loạn, cô dâu, chú rể chạy tan tác. Thậm chí có anh ly hôn đã hai năm rồi nhưng thỉnh thoảng vẫn đến cửa hàng của vợ cũ đập phá, chửi bới om sòm, chính quyền đã nhiều lần can thiệp mà cũng chẳng ăn thua. Còn những chuyện đổ lỗi cho nhau, nói xấu nhau không ra gì trong và sau ly hôn cho hả giận hay cho đối phương không dễ làm lại cuộc đời, là chuyện ...thường ngày ở huyện Trong xã hội hiện đại, khi người ta nhận ra cuộc hôn nhân của họ là sai lầm không thể cứu vãn thì ly hôn chính là phương cách giúp họ giải quyết sai lầm ấy. Về bản chất, ly hôn chẳng phải là một vấn đề xấu, người ly hôn cũng chưa chắc đã phải người xấu, như một triết gia người Đức từng nói: “Một thánh nam lấy một thánh nữ chưa chắc đã thành đôi vợ chồng thánh”. Cái xấu ở đây chỉ là thái độ hận thù, hậm hực, những cư xử thiếu tôn trọng nhau của những người trong cuộc. Mà suy cho cùng, khi bạn tát người khác, chính tay bạn cũng bị đau cơ mà. Bởi thế, dù vẫn biết cuộc đời chẳng giống như ciné hay tiểu thuyết tâm lý, tôi vẫn mong muốn tất cả các cặp vợ chồng khi hết yêu nhau, hãy độ lượng và bao dung để chia tay nhau thật nhẹ nhàng, vui vẻ... Ông Ngô Văn Anh, Chánh tòa dân sự TAND TP Hải Phòng nhận định: Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng ly hôn của giới trẻ là sự tìm hiểu nhau quá vội vã dẫn đến cha mẹ hai bên khó định hướng về việc tổ chức cưới hỏi. Bên cạnh đó, không ít cặp vợ chồng trẻ chưa có cái nhìn nghiêm túc về quan niệm hôn nhân, khi lấy nhau sẽ phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm. Cũng chính vì xây dựng gia đình sớm khi vợ hoặc chồng chưa có công ăn việc làm, nên khi có con nhỏ, điều kiện kinh tế gia đình khó khăn dẫn đến vợ chồng khó chia sẻ, gây ra sự hằn học, đánh chửi nhau. Câu chuyện 5: Gặp em N.V.A, 25 tuổi, ở Quán Trữ, Kiến An, tại phòng xử án của TAND quận Kiến A, V.A ngậm ngùi kể lại: Anh T. (chồng) hơn em 2 tuổi. Bọn em yêu nhau khi học năm cuối của trường cao đẳng. Do nóng vội và dễ dãi trong chuyện tình cảm nên em đã có thai và buộc gia đình T. phải làm đám cưới khi cả 2 vợ chồng đều chưa có công ăn việc làm. Rồi em sinh con, không may cháu bị mắc bệnh tim bẩm sinh. Vì chưa thể tự lập về kinh tế nên vợ chồng sống phụ thuộc vào đồng tiền do mẹ chồng cung cấp. Do thiếu kinh nghiệm trong cách ứng xử nên mẹ chồng, nàng dâu thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn. Chẳng những em không nhận được sự chia sẻ thông cảm từ chồng mà anh ấy tỏ ra lạnh nhạt và thờ ơ với 2 mẹ con. Cuộc sống vợ chồng thường xuyên xảy ra “chiến tranh lạnh”. Em đã bế con trai về ở hẳn nhà mẹ đẻ. Hơn 1 năm nay, anh ấy chẳng đoái hoài gì đến hai mẹ con em nữa. Em nghĩ rằng nếu kéo dài tình trạng này chỉ thêm đau khổ nên em quyết định ly hôn”. Đôi mắt thâm quầng, khuôn mặt gầy và đem xạm sau nhiều đêm thức trắng, chị H, 30 tuổi, ở huyện An Lão, buồn bã kể về chuyện gia đình mình. Hai anh chị yêu nhau say đắm rồi tổ chức đám cưới. Thế rồi sau 6 năm chung sống, vợ chồng chị có 2 mặt con xinh xắn (1 gái, 1 trai). Tưởng rằng “có nếp có tẻ” kinh tế ổn định thì gia đình chắc chắc sẽ hạnh phúc. Nhưng chị có ngờ đâu chồng lại đổ đốn. Khi lên chức giám đốc một công ty TNHH, anh ít khi ăn cơm tối cùng 3 mẹ con và thường trở về nhà lúc đêm khuya. Chị gặng hỏi chuyện thì anh cho rằng công việc bận rộn không có thời gian quan tâm đến gia đình. Thực tế anh đã có người đàn bà khác trẻ đẹp và kém chị nhiều tuổi. Khi anh đâm đơn ly hôn, chị hoàn toàn sụp đổ và đau khổ. Đêm nào cũng nằm khóc một mình nhưng anh đã quyết, chị khó có thể níu kéo nên buộc phải chấp nhận yêu cầu của anh. Cũng chính từ đây, mái ấm gia đình mà chị đã dày công vun đắp giờ đã tan vỡ, các con chị đang phải sống trong cảnh “con không cha như nhà không nóc”… Câu chuyện 6: Trường hợp của em H.T.L, 22 tuổi, ở huyện Kiến Thụy, lại vừa đáng giận vừa đáng thương. Sinh ra và lớn lên trong gia đình thuần nông, L. chỉ được hoc hết lớp 9, gia đình khó khăn nên em phải ra TP kiếm việc làm. Với bản tính dịu dàng lại có chút nhan sắc, L. đã lọt vào mắt xanh của một anh chàng trẻ tuổi. Do L. quá tin người yêu nên chỉ yêu nhau 3 tháng em đã chấp lời cầu hôn và lên xe hoa về nhà chồng khi mới tròn 18 tuổi. Ở cái tuổi đẹp nhất của thiếu nữ L. đã phải làm mẹ. Về sống với nhau chẳng được bao lâu thì L. thấy chồng có nhiều biểu hiện bất thường và phát hiện chồng nghiện ma túy. Những kỷ vật ngày cuới cha mẹ 2 bên trao tặng và ngay cả đôi nhẫn cưới gắn bó vợ chống cũng bị người chồng lấy đi bán để thỏa mãn cơn nghiện. Đồ đạc trong nhà chẳng còn thứ gì đáng giá, lại thường xuyên bị chồng “dạy” bằng những trận đòn vô cớ. Không thể chịu đựng được hơn nữa, L đã bế con về nhà ngoại và gửi đơn ra TAND huyện An Lão xin ly hôn để giải thoát cho mình. Theo thống kê của TAND TP Hải Phòng , tỷ lệ ly hôn của những cặp vợ chồng thời hiện đại không chỉ gia tăng ở các quận nội thành mà đang có dấu hiệu tăng nhanh tại những vùng nông thôn. Án ly hôn đang chiếm trên 50% các án về dân sự nói chung tại các tòa án. Chỉ tính riêng năm 2009, tòa án các cấp của TP Hải Phòng đã thụ lý 2.212 vụ ly hôn, tăng từ 50-200% so với những năm trước đó. Trong 6 tháng đầu năm 2010, tòa án các cấp đã thụ lý 1.206 vụ ly hôn. Số lượng án ly hôn hòa giải chỉ chiếm khoảng 3-4 %. Một số tòa án quận, huyện có án ly hôn tăng đến mức chóng mặt như: Ngô Quyền, Lê Chân, Hồng Bàng. Có những tháng, TAND quận Lê Chân phải giải quyết 50-60 vụ về hôn nhân gia đình. Điều đáng buồn là trên 70% số vụ ly hôn thuộc về các gia đình 8X, tuổi vợ chồng tập trung từ 22-30. Trong đó, có trên 60% ly hôn khi mới kết hôn từ 1-5 năm và hầu hết đã có con. Từ con số thống kê trên, có thể ước tính mỗi năm trên địa bàn TP Hải Phòng có khoảng 1.500- 2.000 trẻ sống thiếu cha hoặc mẹ do gia đình ly tán. Nhiều gia đình trẻ chỉ sống với nhau được 1-2 năm đã vội ra tòa đề nghị được ly hôn. Không phải ai cũng hiểu rằng tình yêu và hôn nhân là 2 chuyện hoàn toàn khác nhau, bởi khi bước vào cuộc sống gia đình thì mọi người phải đối mặt với muôn vàn khó khăn. Chính sự hiếu thắng, sỹ diện, cái “tôi” quá lớn là kẻ thù số một của các gia đình trẻ hiện nay. ở Huế, vẫn phổ biến quan niệm cho rằng chuyện gia đình "đổ vỡ" trong hôn nhân (ly dị) là bất thường, bị dư luận xôn xao, xét nét, đàm tiếu... Trước những năm 1970 - 1980, vấn đề phân rã gia đình chủ yếu do ly hôn không phải là không có, nhưng có thể nói là rất ít, rất hiếm hoi. Một gia đình xảy ra cảnh "chia đàn sẻ nghé", dễ thường bị làng họ lấy làm lạ, lập tức bị dư luận lên án, chê bai. Và trong bối cảnh đó, uy tín, cái "thanh danh" vun đắp tự bao đời của gia tộc đã bị ảnh hưởng - một thực tế không dễ gì chấp nhận được, đặc biệt nguy hiểm hơn, là hậu quả tác động một cách tiêu cực nhất, rõ nét nhất đến tâm s inh lý, tính cách của con cái. Từ đây, có thể lưu ý đến một hiện tượng dễ gặp là những cặp vợ chồng không bao giờ ly dị, dù rằng họ thực sự sống ly thân. Cả hai đều cố làm ra vẻ bề ngoài tưởng chừng như hạnh phúc, cố tạo ra một hiện tượng giả, mang vỏ bọc để che đậy cái rạn nứt bên trong. Cái tôi cá nhân của họ lúc này hy s inh cho s ự nên người của con cái: họ sống với nhau chỉ vì trách nhiệm, mối quan hệ chỉ tồn tại trên cơ s ở pháp lý... Vì vậy, mọi mâu thuẫn trong gia đình đều được giải quyết ổn thõa, và người phụ nữ giữ vai trò điều hoà. Người phụ nữ sống trong khuôn phép của lễ giáo, ngay từ nhỏ, được giáo huấn cách đối nhân xử thế, đạo tam tòng tứ đức... Họ chịu s ự chi phối bền chặt của những qui định khắt khe, dần dần thấm nhuần và ăn s âu vào tiềm thức. Họ trở thành những "nội tướng" trong gia đình phục vụ chồng, con, hy s inh đến mức nhẫn nhục, cam chịu. Bên cạnh đó, một bộ phận dân Huế theo đạo Thiên Chúa Giáo, mà theo giáo luật thì hôn nhân Ki - tô giáo là bất khả phân ly vì "điều gì Thiên Chúa đã k ết hợp, loài người không được phép phân ly". Do đó, việc ly hôn hay đa phu, đa thê là trái với luật, Chúa và giáo hội không chấp nhận (xe m thêm: Nguyễn Bình Tĩnh, 1992; Hà Huy Tú: 1996; 106 - 115). Vì vậy, mặc dù nhiều người s ống trong tình trạng đau khổ cũng chưa mạnh dạn bày tỏ ý chí thoát ly cuộc s ống "cơm k hông lành, canh chẳng ngọt". Số liệu các án ly hôn của Toà tuy không thống kê thành phần tôn giáo, nhưng ý kiến của các công chức Toà án cũng cho thấy rất rõ điều đó. Như vậy, dư luận xã hội, văn hoá truyền thống, yếu tố tôn giáo..., chính là rào cản vô hình góp phần hạn chế số vụ ly hôn ở Huế: "Trước những năm 1990, án ly hôn ít, chừng vài chục vụ, mặc dù luật Hôn nhân và gia đình đã có sự cởi mở đối với các trường hợp ly hôn. Hiện nay, tuy còn nhiều tác động của nếp sống gia giáo truyền thống, song mấy năm gần đây, tình trạng ly hôn trong các gia đình đang ngày càng gia tăng. Ðó là vấn đề mới mà Toà án chúng tôi đang phải đương đầu giải quyết" (Lời tâm s ự của Luật sư Ðào Mai Hường - Toà án Thành phố Huế). Thực trạng đáng buồn của xã hội, số vụ ly hôn tăng lên ở mức báo động, trong những năm gần đây, từ qui mô địa phương cho đến cả nước. Cụ thể: năm 1995, cả nước có 35.658 vụ, đến năm 2000 tăng lên 50.171 vụ, chỉ trong vòng một năm, lên đến 54.479 vụ - năm 2001 (Toà án nhân dân tối cao, 2002). Ðặc biệt, tại các thành phố lớn, s ố án ly hôn tăng nhanh:
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan