TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI
KHOA
SEMINAR NGÂN HÀNG
Đề tài
“Nợ xấu của ngân hàng, thực trạng và giải pháp”
SINH VIÊN THỰC HIỆN :
LỚP
`
:
MÃ SV
:
Hà Nội, 2015
1
MỞ ĐẦU
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính và suy thoái kinh tế
toàn cầu từ năm 2008 đến nay, nền kinh tế nước ta đã chịu tác động tiêu cực và
kinh tế vĩ mô có nhiều yếu tố không thuận lợi. Hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, nợ xấu của hệ thống các TCTD
có chiều hướng gia tăng nhanh.
Nợ xấu ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế cũng như đến sự
tồn tại và phát triển của hệ thống ngân hàng. Do vậy, nợ xấu không chỉ là vấn đề
của các ngân hàng cần phải giải quyết mà cần có sự chỉ đạo chung của nhà nước.
Các ngân hàng cần phải nhận thức đúng về nợ xấu, đồng thời tìm và phân tích
được nguyên nhân để từ đó đưa ra giải pháp khắc phục phù hợp. Nếu các ngân
hàng cố tình che dấu nợ xấu thì sẽ không phản ánh đúng được thực trạng của toàn
hệ thống ngân hàng và hậu quả là ảnh hưởng đến nguồn cung ứng vốn cho nền
kinh tế.
Trong bối cảnh nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn như hiện nay thì vấn
đề giải quyết nợ xấu của các ngân hàng là bài toán nan giải nhất trong ngắn hạn.
Nợ xấu của ngân hàng được xem là nguyên nhân cơ bản gây tắc nghẽn sự lưu
thông lành mạnh của nền kinh tế, gây mất an toàn cho hệ thống ngân hàng và cũng
phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh ngày càng khó khăn của doanh nghiệp.
Xuất phát từ lý do trên tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nợ xấu của ngân
hàng, thực trạng và giải pháp” nhằm đưa ra những hiểu biết chung nhất về tình
hình nợ xấu cũng như giải pháp giải quyết tình trạng nợ xấu hiện nay.
2
NỘI DUNG
1.Khái quát chung về nợ xấu
Một trong những nút thắt lớn hiện nay của nền kinh tế hiện nay là vấn đề nợ
xấu của hệ thống ngân hàng. Nhiều chuyên gia kinh tế gọi đó là “cục máu đông
trong mạch máu” của nền kinh tế. Giải quyết được vấn đề này mới có thể khai
thông bế tắc cho nền kinh tế, giúp ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy sự phục hồi
của tăng trưởng kinh tế.
Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại từ nhóm 3 (dưới tiêu chuẩn),
nhóm 4 (nghi ngờ) và nhóm 5 (khả năng mất vốn cao).
Cụ thể nhóm 3 trở lên, gồm các khoản nợ quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên
90 ngày, đồng thời quy định các ngân hàng thương mại căn cứ vào khả năng trả nợ
của khách hàng để hạch toán các khoản vay vào các nhóm thích hợp.
Như vậy nợ xấu được xác định theo 2 yếu tố: đã quá hạn trên 90 ngày
và khả năng trả nợ đáng lo ngại. Đây được coi là định nghĩa của chung trong giới
tín dụng chuyên ngành.
Còn theo định nghĩa nợ xấu của các tổ chức tín dụng thế giới thì : một
khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các
khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả
theo thoả thuận; hoặc các khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng có
lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ”.
Và khi khách hàng bị nợ xấu từ nhóm 3 trở lên sẽ rất khó được ngân hàng
duyệt vay lại ít nhất là 5 năm.
Như vậy nợ xấu hay nợ khó đòi là các khoản nợ dưới chuẩn, có thể quá
hạn và bị nghi ngờ về khả năng trả nợ lẫn khả năng thu hồi vốn của chủ nợ, điều
3
này thường xảy ra khi các con nợ đã tuyên bố phá sản hoặc đã tẩu tán tài sản. Nợ
xấu gồm gồm các khoản nợ quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên thường quá ba tháng
căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng để hạch toán các khoản vay vào các
nhóm thích hợp.
Cách tính nợ xấu
Ví dụ: Với ngân hàng nông Techcombank chi nhánh Gia Lâm, hôm nay họ
cho 100 khách hàng vay tiền , mỗi người 5 tỷ là 500 tỷ trong thời hạn 12 tháng.
Khi tới ngày tính lợi nhuận trả cổ tức , họ tính luôn tiền lãi thu được tới thời điểm
đó và tiền vốn cho vay. Từ đó mới phân chia lợi nhuận cho cổ đông, thưởng Ban
Quản Trị ngân hàng. Và họ không tính rủi ro kinh doanh , khi kinh tế khủng
hoảng, khoản vay 5 tỷ có thể mất trắng , đó là nợ xấu, đó là phải để một phần lãi
ngày hôm nay vào quỹ dự phòng.
Cách tính nợ xấu của ngân hàng quốc tế so với VN :
Một khoản vay quốc tế 1 tỷ, khi tháng đầu trả 50 triệu (24 kỳ, mỗi kỳ 50
triệu), tháng thứ 2, không trả được, khi trể 3 tháng là toàn số nợ đọng là 950 triệu
là nợ xấu.
Còn tại ngân hàng VN …càng làm thấp nợ xấu thì càng được chia lời
nhanh… Tháng thứ 2 , 3 ,4 không trả được, thì nợ xấu chỉ là 3 * 50 triệu= 150
triệu. Số 150 triệu này của 100 công ty còn phân loại: công ty đóng cửa và hấp hối
là loại 4, công ty không trả nổi bây giờ nhưng với ý kiến chủ quan của Ngân hàng
cho vay thì 12 tháng sau trả được v.v…?
Trong khi đó, ngân hàng nước ngoài thì nợ xấu sẽ là 950 triệu * 100 công ty
= 95 tỷ, không phân loại và NH phải trích dự phòng từ lợi nhuận hay ngay cả lỗ
cũng phải trích 95 tỷ. Khi nào các công ty này bắt đầu trả được nợ thì họ mới lấy ra
khỏi danh sách nợ xấu mà giảm lại cho dự phòng.
4
Chính vì vậy dự phòng của quốc tế không tăng đột xuất theo tháng ngày
trong thời hạn vay, của VN thì cứ thêm mỗi tháng mỗi nhiều nhưng bất cứ lúc nào,
không ai biết là bao nhiêu vì tháng sau, sau nữa sẽ thêm nữa.
2.Thực trạng tình hình nợ xấu của Ngân hàng Việt Nam
Trong bối cảnh nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn như hiện nay thì vấn
đề giải quyết nợ xấu của các ngân hàng là bài toán nan giải nhất trong ngắn hạn.
Nợ xấu của ngân hàng được xem là nguyên nhân cơ bản gây tắc nghẽn sự lưu
thông lành mạnh của nền kinh tế, gây mất an toàn cho hệ thống ngân hàng và cũng
phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh ngày càng khó khăn của doanh nghiệp.
Điển hình vào năm 2012, do bị ảnh hưởng bởi nhiều nguyên nhân nên hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bị thua lỗ. Hệ quả là nợ xấu của các ngân
hàng đã không ngừng tăng lên, trở thành “điểm nghẽn” của nền kinh tế, cản trở sự
lưu thông của dòng vốn tíndụng.
Cụ thể, tỷ lệ nợ xấu của một số ngân hàng TMCP như Ngoại thương Việt
Nam (VCB), Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV), Công thương Việt Nam
(CTG), Á Châu (ACB), Sài Gòn Thương tín (STB), Techcombank (TCB), Quân
Đội (MB) và ngân hàng thương mại nhà nước như Agribank (AGR) từ năm 2008
đến hết quý III năm 2013 khá cao trong đó Agribank có tỷ lệ nợ xấu cao nhất trong
các ngân hàng, kế đến là BIDV và thứ ba là Vietcombank và Techcombank. Giai
đoạn 2008-2010, ngân hàng VCB, BIDV và AGR có tỷ lệ nợ xấu gần bằng nhau.
Tuy nhiên, vào giai đoạn 2011 – hết quý III năm 2013 thì tỷ lệ nợ xấu của AGR có
xu hướng tăng rất cao tương đương gần 300% so với giai đoạn 2008-2010, và cao
nhất vào năm 2011 lên đến 6,67%. Trong số các ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu khá
cao thì ba ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu thấp nhất đó là CTG, ACB, STB (năm 2008 tỷ
lệ nợ xấu của ACB chỉ có 0,08%).
5
Dựa vào số liệu của báo cáo tài chính quý III/2013, nhiều ngân hàng bị nợ
xấu ăn gần hết lợi nhuận. Lợi nhuận trước thuế 9 tháng đầu năm 2013 của
Eximbank là 1.155 tỷ đồng (giảm 1.282 tỷ đồng so với cùng kỳ năm 2012),
Vietcombank đạt 3.991 tỷ đồng (giảm 403 tỷ đồng) và Techcombank là 750 tỷ
đồng (giảm 1.483 tỷ đồng). Theo các chuyên gia về kinh tế thì lợi nhuận của ngân
hàng bị nợ xấu ăn hết là cái giá mà các ngân hàng phải trả cho việc cho vay quá
hào phóng trước đây.
Nợ xấu ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận của ngân hàng. Lợi nhuận của ngân
hàng đã bị teo tóp vì nợ xấu.
Tại nhiều ngân hàng, tỷ lệ nợ xấu tăng cao là do các khoản nợ trước đây
chưa xấu nay đã bắt đầu xấu. Theo như số liệu báo cáo tài chính của Vietcombank
thời điểm đầu năm 2013 tỷ lệ nợ xấu là 2,4%, nợ xấu đã tăng lên 2,98% tổng dư
nợ, trong đó nợ có khả năng mất vốn là 2.683 tỷ đồng, tăng đến 85%. Cũng trong
quý III/2013, Vietinbank có tổng cộng 8.518 tỷ đồng nợ xấu, so với thời điểm cuối
năm 2012 nợ xấu đã tăng khoảng 70%. Bên cạnh đó, thời điểm cuối quý III/2013
ngân hàng Quân đội cũng có 2.073 tỷ đồng nợ xấu, tăng khoảng 50% so với cùng
kỳ năm 2012. Nợ xấu tăng cao, lợi nhuận làm ra đổ hết vào quỹ trích lập dự phòng
rủi ro, có ngân hàng bị nợ xấu ăn gần hết lợi nhuận như ở Navibank, chín tháng
đầu năm 2013 lợi nhuận sau thuế chỉ đạt 10,3 tỷ đồng, giảm hơn 89% so với cùng
kỳ năm trước.
3.Những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng nợ xấu
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến nợ xấu của ngân hàng tăng cao, nhưng
chủ yếu xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau đây:
- Môi trường kinh tế - xã hội: Dù ít hay nhiều, các hoạt động sản xuất
kinh doanh luôn phải chịu tác động trực tiếp hay gián tiếp của môi
trƣờng kinh tế xã hội, nhƣ sự thay đổi về lãi suất, tỷ giá, các cuộc khủng
hoàng kinh tế thế giới và khu vực. Trong một nền kinh tế tăng trƣởng
6
lành mạnh, tiềm năng sản xuất và tiêu dùng của xã hội lớn thì hoạt động
sản xuất kinh doanh có điều kiện tốt để phát triển. Nhƣng trong một nền
kinh tế bị khủng hoảng, đang đà xuống dốc, tỷ lệ lạm phát cao, sản xuất
bị đình trệ, đầu tƣ giảm sút, thu nhập của mọi thành viên trong xã hội
đều giảm thì khả năng phát triển sản xuất kinh doanh là rất kém, ảnh
hƣởng mạnh mẽ tới hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Tác động xấu của
tình hình kinh tế xã hội nhƣ vậy sẽ làm ảnh hƣởng tới khả năng trả nợ
của các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân, gây tác động xấu đến khả
năng thu hồi vốn tín dụng của Ngân hàng.
Tốc độ tăng trưởng tín dụng giai đoạn 2006-2011 không ổn định. Năm
2007, tốc độ tăng trưởng là 48,9% cao nhất trong giai đoạn này. Nhưng đến năm
2008, tốc độ có xu hướng giảm xuống còn 23,4%. Tuy nhiên, năm 2009 lại tăng
lên là 37,5% và năm 2011 là năm có tốc độ tăng trưởng thấp nhất trong giai đoạn
này 12,8%.
- Thị trường bất động sản: Một phần lớn nguồn tín dụng được đầu tư vào
lĩnh vực bất động sản. Khi thị trường bất động sản trầm lắng, nghĩa là cầu về lĩnh
vực này suy giảm mạnh làm cho các nhà đầu tư không bán được hàng mà nguồn
vốn đầu tư cho thị trường này lại chủ yếu là vốn tín dụng của ngân hàng. Nhiều
doanh nghiệp bất động sản làm ăn thua lỗ, không có khả năng trả nợ cho ngân
hàng, dẫn đến nợ xấu.
- Áp lực cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhà nước: Áp lực này chủ yếu
đối với các ngân hàng thương mại thuộc sở hữu của nhà nước. Nhờ vậy mà các
doanh nghiệp nhà nước dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn tín dụng của ngân hàng do
đó đã sử dụng không hiệu quả nguồn tài trợ trên và đầu tư vào lĩnh vực trái ngành
nghề (ngân hàng, chứng khoán, bất động sản,…) vì không am hiểu về những lĩnh
vực đó nên khi bất động sản đóng băng, chứng khoán thì ảm đạm và kinh doanh
7
ngân hàng thua lỗ vì nợ xấu dẫn đến các doanh nghiệp không trả được nợ, sinh ra
nợ xấu.
- Khả năng quản trị của một số ngân hàng còn nhiều bất cập so với quy mô:
Một số ngân hàng thường hay sử dụng nguồn vốn huy động ngắn hạn để cho vay
trung và dài hạn, dẫn đến độ vênh lớn về kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ, mất
tính thanh khoản và tiềm ẩn rủi ro thanh toán rất lớn. Bên cạnh đó, các ngân hàng
cạnh tranh nhau bằng cách tăng tổng tài sản, để thực hiện được điều đó buộc các
ngân hàng phải tăng vốn bằng cách tăng lãi suất huy động và điều tất yếu là lãi suất
cho cũng sẽ tăng làm cho các khách hàng đi vay rơi vào tình trạng phải trả lãi cao,
cứ như thế kéo dài khách hàng sẽ mất dần khả năng trả nợ ngân hàng, dẫn đến nợ
xấu tăng mạnh.
- Sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng: Các ngân hàng ngoài các hoạt
động chính là huy động vốn và cho vay thì còn thực hiện hoạt động đầu tư. Chính
vì sở hữu chéo lẫn nhau nên một số ngân hàng thay vì dùng vốn huy động để cho
vay thúc đẩy sản xuất kinh doanh thì lại ủy thác cho các công ty con đầu tư vào bất
động sản, chứng khoán, mua cổ phần của ngân hàng khác. Sở hữu chéo không phù
hợp sẽ đem lại rất nhiều rủi ro, khi đó làm chất lượng tín dụng giảm xuống dẫn đến
nợ xấu như hiện nay.
- Sự suy thái về đạo đức của một số cán bộ ngành ngân hàng, năng lực
chuyên môn của các cán bộ chưa theo kịp với tốc độ phát triển của ngành ngân
hàng, các khâu của quy trình tín dụng còn phát sinh khá nhiều tiêu cực như khâu
thẩm định, xét duyệt và theo dõi các khoản vay….
4. Một số giải pháp cơ bản khắc phục nợ xấu
Để khắc phục nợ xấu chúng ta cần phải xây dựng lộ trình cụ thể và được
thực hiện trong một thời gian dài. Để giải quyết triệt để vấn đề nợ xấu cần phải có
sự phối hợp giữa Nhà nước, ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp. Cụ thể là:
8
Thứ nhất, phải trích lập quỹ dự phòng rủi ro. Các ngân hàng cần thực hiện
nghiêm túc việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro theo nguyên tắc tính đúng và tính đủ.
Để quản lý được việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro của các ngân hàng thì ngân
hàng Nhà nước phải có biện pháp xử lý thật nghiêm đối với các ngân hàng báo cáo
không trung thực tình hình nợ xấu của ngân hàng mình.
Thứ hai, nâng cao năng lực quản trị rủi ro trong hệ thống ngân hàng. Các
ngân hàng cần phải chủ động xử lý nợ xấu bằng cách xây dựng các nguyên tắc
trong quản lý rủi ro như chất lượng công tác tín dụng, thẩm định giá, tỷ lệ cho vay,
đánh giá phân loại khách hàng, xem xét kỹ phương án sản xuất kinh doanh,…
Thứ ba, khai thông thị trường bất động sản và giảm lượng hàng tồn kho
trong doanh nghiệp. Để thực hiện được điều đó thì nhà nước đưa ra chính sách chia
nhỏ căn hộ có diện tích lớn ra thành những căn hộ có diện tích nhỏ, thực hiện nhà ở
xã hội. Bên cạnh đó, nhà nước phải có biện pháp để thúc đẩy đầu tư, tăng tiêu dùng
trong dân và tăng trưởng kinh tế.
Thứ tư, thực hiện phân loại nợ xấu. Nếu như các ngân hàng thực hiện phân
loại nợ xấu theo đúng chuẩn khi đó sẽ đề ra được những biện pháp xử lý thích hợp
cho từng loại nợ. Điều quan trọng hơn hết là các ngân hàng phải xác định được quy
mô và tính chất của nợ xấu để phân loại và có hướng xử lý cho phù hợp.
Thứ năm, chuyển nợ xấu thành vốn góp cổ phần. Nhà nước khuyến khích
các ngân hàngchuyển nợ thành vốn góp, thành cổ phần của các doanh nghiệp vay.
Khi đó, các ngân hàng chuyển từ chủ nợ sang thành cổ đông của các doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp sẽ giảm được áp lực thanh toán nợ, giảm được chi phí lãi vay,
kết quả kinh doanh của doanh nghiệp sẽ được cải thiện đáng kể.
Thứ sáu, sáp nhập hay hợp nhất các ngân hàng thương mại nhỏ. Nhà nước
cần khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các ngân hàng thương mại nhỏ, yếu
kém hợp nhất, sáp nhập với các ngân hàng lớn, cần cho phép các ngân hàng nước
ngoài có tiềm lực tài chính mạnh mua lại những ngân hàng yếu kém.
9
Thứ bảy, ban hành chính sách giãn nợ. Nhà nước cần ban hành chính sách
và có cơ chế cụ thể giải quyết cho các doanh nghiệp được giãn nợ với ngân hàng.
Ngân hàng có chính sách giãn nợ cho các doanh nghiệp có uy tín trong thanh toán
nợ và những doanh nghiệp có công trình đang thi công dở dang chưa hoàn
thành,… Và nếu được ngân hàng Nhà nước có thể cho các doanh nghiệp được
phép chủ động đề nghị với ngân hàng giãn nợ đối với các khoản vay trung và dài
hạn.
5.Đề xuất cơ chế xử lý nợ xấu ngân hàng cụ thể:
Về phía các ngân hàng thương mại
Đối với khối nợ xấu cũ, các NHTM cần:
Xử lý từ nguồn trích lập dự phòng rủi ro theo quy định. Tìm mọi biện pháp
để thanh lý/phát mại tài sản bảo đảm cho các khoản nợ xấu để thu hồi nợ.
Chủ động phối hợp khách hàng thực hiện cơ cấu lại nợ, giãn thời gian trả nợ đối
với những khách hàng có khó khăn tài chính tạm thời nhưng có triển vọng kinh
doanh khi giải quyết được nợ xấu; Tiếp tục giảm lãi suất xuống để thực hiện các
khoản cho vay mới, giúp DN giảm chi phí đầu vào, bán được hàng, có điều kiện trả
nợ ngân hàng.
Bán nợ qua công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của các NHTM, Công ty
mua bán nợ trực thuộc NHNN, Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC) của Bộ Tài
chính.
Cần phải thấy rằng, để xảy ra nợ xấu, trách nhiệm đầu tiên thuộc về ngân
hàng (do nguyên nhân khách quan và chủ quan mang lại) nhưng các ngân hàng
không thể tự tạo ra nợ xấu. Nợ xấu là do các con nợ - DN/cá nhân vay vốn đến hạn
không trả được nợ, mà việc không trả được nợ cho các ngân hàng có nguyên nhân
cơ bản do yếu kém chủ quan của bản thân DN nhưng không thể bỏ qua nguyên
10
nhân từ cơ chế chính sách, từ quản lý vĩ mô. Vì vậy, xử lý nợ xấu lúc này không
chỉ là trách nhiệm đơn lẻ của các ngân hàng, DN mà cần có sự tham gia của Nhà
nước với mục tiêu phải đạt được trong việc xử lý nợ xấu là tạo điều kiện để các
ngân hàng thiết lập quan hệ tín dụng mới, giúp DN còn khả năng hoạt động vay
vốn, đồng thời thanh lọc những DN, ngân hàng yếu kém trong sản xuất kinh
doanh; Thông qua xử lý nợ xấu, các ngân hàng mới có điều kiện tiếp tục hạ lãi suất
tiền vay.
Việc xử lý nợ qua công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng
cũng có điểm thuận lợi là công ty con của ngân hàng nên có điều kiện hiểu rõ từng
khoản vay đối với khách hàng. Khi chuyển nợ xấu cho công ty quản lý nợ và khai
thác tài sản của ngân hàng, công ty có thể chủ động, nhanh chóng tìm khách hàng
để bán tài sản thu hồi vốn cho ngân hàng. Tuy nhiên, để công ty quản lý nợ và khai
thác tài sản của ngân hàng xử lý nợ xấu hiệu quả, cần xây dựng cơ chế mua bán nợ
rõ ràng, minh bạch, có sự tham gia giám sát chặt chẽ của NHNN, để tránh tình
trạng nợ xấu trên bảng cân đối của ngân hàng có thể giảm nhưng chất lượng nợ
không thay đổi, do không giải quyết tận gốc vấn đề.
Nếu bán nợ xấu cho DATC thuộc Bộ Tài chính thực hiện, rất cần một cơ
chế mua bán rõ ràng thì hoạt động mua bán các khoản nợ xấu của ngân hàng mới
có hiệu quả.
Do tính phức tạp của các khoản nợ xấu trong ngân hàng, trong bối cảnh áp
lực xã hội rất lớn về vấn đề giải trình thì vấn đề đặt ra là thành lập công ty mua bán
nợ trực thuộc NHNN hay công ty mua bán nợ quốc gia (AMC) phải đủ quyền lực,
được hỗ trợ bởi các chuyên gia giỏi về lĩnh vực này, với những bước đi hợp lý, với
sự phát triển của thị trường mua bán nợ Việt Nam.
11
Cùng với với việc xử lý nợ xấu cũ, các NHTM cần coi trọng đúng mức đến
việc hạn chế nợ xấu mới nảy sinh bằng cách:
Rà soát lại phân loại nợ, tiến tới việc phân loại nợ theo thông lệ quốc tế. Để
làm được việc này các ngân hàng cần phải (i) Hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín
dụng nội bộ theo chuẩn Basel II. Việc xếp hạng tín dụng phải căn cứ trên các số
liệu thống kê lịch sử của chính ngân hàng cho các đối tượng khách hàng để tính
toán các thước đo rủi ro xác suất/khả năng xảy ra vỡ nợ (PD); tổn thất có thể xảy ra
do vỡ nợ (LGD) và rủi ro vỡ nợ (EAD) cho các đối tượng này; đồng thời áp dụng
các điều chỉnh cần thiết trên cơ sở ý kiến của chuyên gia. Có như vậy, việc xếp
hạng tín dụng mới thực sự là công cụ hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng và là
căn cứ để định giá theo rủi ro của ngân hàng. (ii) Mặt khác chất lượng của xếp
hạng khách hàng phụ thuộc lớn vào mô hình tổ chức và đội ngũ nhân sự của chính
ngân hàng. Vì thế, việc hoàn thiện mô hình tổ chức theo hướng tuân thủ các
nguyên tắc về quản trị DN, đảm bảo phân tách rõ trách nhiệm giữa các bộ phận
liên quan trong việc quản lý rủi ro; tránh xung đột lợi ích là vấn đề cốt lõi để giảm
thiểu nợ xấu nảy sinh trong hoạt động tín dụng.
Giám sát việc triển khai và ứng dụng xếp hạng tín dụng trong hoạt động để
giảm thiểu rủi ro nhằm đảm bảo hệ thống xếp hạng tín dụng không ngừng được
hoàn thiện và nâng cao chất lượng, đòi hỏi nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin
để đảm bảo hệ thống vận hành có hiệu quả. Định kỳ hoặc đột xuất kiểm tra việc
tuân thủ các quy định xếp hạng tín dụng, đảm bảo chất lượng thông tin đầu vào
nhằm ngăn ngừa những sai sót do vô tình hay cố ý đánh giá khách hàng theo ý kiến
chủ quan của một, hay nhóm người, làm sai lệch kết quả xếp hạng, dẫn đến các
quyết định cho vay không chuẩn.
Về phía doanh nghiệp vay vốn
12
Giải quyết hàng tồn kho là vấn đề cấp bách hiện nay. Để xử lý hàng tồn
kho, ngoài việc hạ giá bán (chấp nhận lỗ) để thu hồi vốn về quay vòng thì một hình
thức liên kết giữa các DN, sử dụng các sản phẩm của nhau cũng là cách làm hiện
nay. Bên cạnh đó, việc minh bạch thông tin tài chính, nâng cao khả năng quản trị
DN, để tạo niền tin trong quan hệ tín dụng với ngân hàng.
Về phía Ngân hàng Nhà nước
Nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý để các ngân hàng có căn cứ thực
hiện xếp hạng tín dụng nội bộ, hướng theo thông lệ quốc tế. Song song với việc
xây dựng, hoàn thiện xếp hạng tín dụng nội bộ, cần có chính sách phát triển các
đơn vị xếp hạng tín dụng độc lập làm cơ sở tham chiếu chung trong công tác xếp
hạng tín dụng. Kinh nghiệm của nhiều nước trong khu vực cho thấy, việc phát triển
các tổ chức xếp hạng tín dụng không do Nhà nước quản lý để hạn chế việc chi phối
của tổ chức hay cá nhân làm sai lệch kết quả xếp hạng là rất quan trọng trong hoạt
động tín dụng của ngân hàng.
Nhanh chóng xử lý những bất ổn trong nội tại của một số ngân hàng, giám
sát dòng tiền luân chuyển trong nội bộ ngân hàng. Đây là một trong những nguyên
nhân cơ bản làm hệ thống ngân hàng luôn bất ổn, và tích tụ rủi ro hệ thống lớn. Khi
giám sát được dòng vốn ra khỏi vòng luẩn quẩn bởi một số ngân hàng, nợ xấu của
các ngân hàng thương mại có điều kiện được xử lý, điểm nghẽn về vốn sẽ được
khắc phục, việc tiếp cận vốn của DN sẽ dễ dàng hơn.
13
KẾT LUẬN
Nợ xấu là yếu tố tất yếu trong hoạt động ngân hàng, song thực tế hoạt động
ngân hàng vừa qua và diễn biến nền kinh tế được dự báo còn nhiều khó khăn, thời
gian tới đòi hỏi phải sớm có các giải pháp nhằm kiểm soát hiệu quả đà tăng của nợ
xấu cũng như những tác động khó lường của nó đối với hệ thống ngân hàng và
toàn bộ nền kinh tế.
Nợ xấu tại các NHTM Việt Nam không phải mới phát sinh trong những
năm gần đây, mà thực chất đã tích tụ từ nhiều năm trước. Khi tình hình kinh tế vĩ
mô xấu đi, hoạt động sản xuất kinh doanh trì trệ, thì cũng là lúc nợ xấu nảy nở như
nấm sau mưa.
Nợ xấu đang gia tăng gây mối nguy hại lớn cho nền kinh tế và trực tiếp ảnh
hưởng đến các doanh nghiệp, vấn đề hàng đầu được đặt ra cho NHNN vào lúc này
làm sao xử lý giảm bớt tỷ lệ nợ xấu này. Thông điệp của Chính phủ gần đây cũng
cho thấy rằng, giải quyết nợ xấu là nhiệm vụ hàng đầu trong kế hoạch cải tổ hệ
thống ngân hàng. Nợ xấu NH đã trở thành vấn đề của quốc gia, chính vì vậy cần
14
Nhà nước bắt tay vào giải quyết chứ không nên để các NH thương mại tự xoay xở.
Trong 20 năm qua, từ kinh nghiệm của các quốc gia từng gặp vấn đề nợ xấu như
Hàn Quốc, Mỹ đều chọn cách xử lý thông qua việc mua bán nợ và đã thành công.
Bên cạnh khó khăn chung của nền kinh tế, nguyên nhân chính làm gia tăng
nợ xấu xuất phát từ chính các ngân hàng. Do đó, tìm kiếm giải pháp nhằm chặn đà
tăng của nợ xấu, giảm thiểu tác động bất lợi của nợ xấu đối với hệ thống ngân hàng
và nền kinh tế phải bắt đầu từ chính các ngân hàng, đồng thời không xem nhẹ
nguyên nhân từ chính sách điều hành chung.
15
- Xem thêm -