Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đề tài nghiên cứu khoa học động cơ học tập của sinh viên năm thứ nhất trường đại...

Tài liệu đề tài nghiên cứu khoa học động cơ học tập của sinh viên năm thứ nhất trường đại học khoa học xã hội và nhân văn

.PDF
60
62032
158

Mô tả:

THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN Nguyễn Thị Lệ Thu PHẦN 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG. 1. Lý do lựa chọn đề tài. Trong tâm lí học động cơ là một vấn đề được các nhà khoa học rất quan tâm. Tất cả những công trình nghiên cứu nhằm mục đích lí giải vì sao con người hành động thế này hay thế khác về thực chất là những công trình nghiên cứu về động cơ. Khái niệm động cơ thường được dùng như một khái niệm trung tâm để lí giải hành vi của con người. Các nhà tâm lí học nghiên cứu và chỉ ra rằng động cơ có một vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động của con người. Động cơ chính là lực thúc đẩy con người hành động để đạt được mục đích của mình. Nói khác đi động cơ chính là yếu tố thôi thúc con người hành động để thoả mãn nhu cầu. Con người không thể đạt được mục đích của mình nếu thiếu vắng động cơ. Vậy thì, trong quá trình học tập động cơ có vai trò như thế nào? Về thực chất động cơ học tập là gì? Động cơ có ảnh hưởng đến kết quả học tập không ? Trường ĐHKHXH &NV, Đại học quốc gia Hà nội, là một trường có bề dày về công tác giảng dạy, được thể hiện rất rõ thông qua kết quả học tập cũng như những thành tích mà giảng viên và sinh viên nhà trường đạt được. Vậy thì động cơ gì thúc đẩy sinh viên nhà trường học tập là gì? Động cơ ấy có ảnh hưởng và đóng vai trò quan trọng như thế nào đến kết quả học tập của sinh viên? Đặc biệt là với những sinh viên năm thứ nhất thì việc xác định được động cơ học tập có vai trò như thế nào trong quá trình học tập của sinh viên ấy? Bởi sinh viên năm thứ nhất đa số là những người mới xa nhà lần đầu nên còn rất nhiều bỡ ngỡ trong cuuộc sống, không những thế khi bước vào môi trường đại học phải làm quen với cách học hoàn toàn mới, chắc hẳn sẽ gặp rất nhiều khó khăn. 1 THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN Nguyễn Thị Lệ Thu Với tất cả những lí do trên tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu khoa học “ Động cơ học tập của sinh viên năm thứ nhất trường đại học khoa học xã hội và nhân văn”. 2. Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu. - Đối tượng nghiên cứu. Đối tượng mà người nghiên cứu tiến hành đó là động cơ học tập của sinh viên năm thứ nhất trường ĐHKHXH & NV. - Khách thể nghiên cứu. Khách thể nghiên cứu dự kiến là 150 sinh viên thuộc 4 khoa: Khoa Tâm lí học, Khoa Đông phương học, Khoa Du lịch học và Bộ môn khoa học quản lí ( Thuộc khoa triết học). 3.Mục đích nghiên cứu. Qua việc nghiên cứu về động cơ học tập của sinh viên năm thứ nhất trường ĐHKHXH &NV, chúng tôi muốn đưa ra một số kết luận để giúp cho các khoa có những kế hoạch, chương trình giảng dạy cũng như là những hoạt động ngoại khoá thu hút sinh viên tham gia, để trên cơ sở đó vừa nâng cao chất lượng đào tạo, lại vừa thúc đẩy sinh viên học tập nhờ xây dựng được hệ thống động cơ học tập đúng đắn. Bên cạnh đó qua kết quả nghiên cứu mà đề tài chỉ ra, trường sẽ có những chương trình cụ thể để giới thiệu về trường cũng như các khoa trong trường, mục đích đào tạo của từng khoa, công việc mà sinh viên sẽ làm sau khi tốt nghiệp… nhằm giúp cho các em học sinh phổ thông có những định hướng đúng đắn ngay từ khi có định hướng thi đại học. 2 THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN Nguyễn Thị Lệ Thu 4. - Nhiệm vụ nghiên cứu. Nhiệm vụ nghiên cứu lí luận : Phải chỉ rõ được các khái niệm có liên quan đến đề tài, các đặc điểm tâm sinh lí của sinh viên cũng như là nêu được những nét sơ qua về địa bàn nghiên cứu. - Nhiệm vụ nghiên cứu thực tiễn: Tông qua việc sử dụng phiếu hỏi, kết hợp với tra cứu tài liệu người nghiên cứu cần chỉ rõ những vấn đề sau: +, Động cơ thi đại học của sinh viên trường ĐHKHXH & NV. +, Động cơ học tập của sinh viên năm thứ nhất trường ĐHKHXH & NV. +, Những yếu tố ảnh hưởng đến động cơ học tập của sinh viên năm thứ nhất trường ĐHKHXH & NV. 5. Phương pháp nghiên cứu. Đề tài sử dụng chủ yếu những phương pháp nghiên cứu sau: 6. a. Phương pháp thu thập tài liệu b. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi c. Phương pháp thống kê toán học Giả thuyết nghiên cứu. Nếu sinh viên xác định được động cơ học tập rõ ràng thì sinh viên cố gắng hiọc tập để đạt được kết quả như mong muốn. Nếu sinh viên năm thứ nhất có nhận thức đúng đắn về khoa trường đang theo học thì sinh viên xác định được động cơ học tập rõ ràng. 3 THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN Nguyễn Thị Lệ Thu PHẦN II: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Chương 1: Cơ sở lí luận của đề tài. I. Khái niệm động cơ và các lí thuyết về động cơ. 1.1 Khaí niệm động cơ. Vấn đề động cơ là vấn đề trung tâm trong cấu trúc nhân cách. Theo Leonchiep “sự hình thành nhân cách con người biểu hiện về măt tâm lý trong sự phát triển động cơ của nhân cách” (1). Hay nói khác đi, vấn đề động cơ là vấn đề trung tâm của tâm lý học. Việc lý giải tại sao con người hành động thế này hay thế khác về thực chất đó là những nghiên cứu về động cơ được dùng như một khái niệm trung tâm để nhằm lý giải hành vi và nguyên nhân của những hành vi ấy (5). Động cơ là một khái niệm trung tâm của tâm lý học, rất nhiều ý kiến cho rằng trên con đường của sự tiến hoá thì động cơ xuất hiện khá muộn. Nói đến động cơ là nói đến xu hướng lựa chọn hoạt động của con người. Khái niệm động cơ được dùng để chỉ sự phản ánh ở mức độ cao hơn, khi trong một hoàn cảnh nào đó diễn ra sự lựa chọn để đáp ứng trong một loạt các kích thích cùng đồng thời tác động lên cơ thể. Việc lựa chọn được thực hiện sẽ thúc đẩy cơ thể hoạt động, hướng mọi sự chú ý và tính tích cực của nó vào việc mục đích đã lựa chọn. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về động cơ. Nhà tâm lý học Nga nổi tiếng A.N Leonchiep khi bàn về động cơ cho rằng: Thứ nhất động cơ và nhu cầu là hai hiện tượng tâm lý gắn bó chặt chẽ với nhau. Thứ hai, động cơ chính là đối tượng có khả năng đáp ứng nhu cầu đã được thể hiện trên tri giác, biểu tượng tư duy … Hay nói khác đi, đó chính là sự phản ánh chủ quan về đối tượng thoả mãn nhu cầu. Thứ ba là động cơ có chức năng định hướng thúc đẩy và định hướng hoạt động nhằm thoả mãn nhu cầu (2). 4 THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN Nguyễn Thị Lệ Thu Còn J. Piagiex thì cho rằng tính định hướng tích cực, có chọn lọc của hành vi tạo thành bản chất của hiện tượng được xác định là động cơ. (7) Ronald E. Smit định nghĩa động cơ như là một quá trình bên trong có ảnh hưởng đến hướng, tính bền vững và sức mạnh của hành vi có mục đích (16). Khác với quan điểm trên, Maurie Reuchlin cho rằng khi nghiên cứu động cơ chính là sự phân tích các yếu tố gây ra hành động, hướng nó vào mục đích nào đó, cho phép nó kéo dài nếu chưa đạt được mục đích hoặc ngưng lại nếu chưa đạt được mục đích … và phân tích các cơ chế cắt nghĩa tác dụng của các yếu tố đó (4). Có rất nhiều ý nghĩa khác nhau về động cơ hoạt động của con người, song mọi quan điểm đều cho rằng, động cơ là một hiện tượng tâm lý thúc đẩy, quy định sự lựa chọn và hướng của hành vi. Việc nghiên cứu về động cơ thực chất chính là quá trình lý giải nguyên nhân dẫn đến hành vi đó. Trong lịch sử tâm lý học đã tồn tại những quan điểm duy tâm về động cơ. Những người đi theo quan điểm này nhìn thấy nguồn gốc động cơ của con người trong tư duy, ý thức. Ph. Anghen đã viết về điều đó như sau: “Con người quen giải thích hành động của mình bằng tư duy của họ, mà đáng nhẽ ra phải giải thích chúng từ nhu cầu”. Những giải thích đầu tiên về động cơ con người theo quan điểm duy vật cơ học máy móc ban đầu là gắn động cơ với những nhu cầu sinh lý như đói, khát … Và chính cách nhìn nhận động cơ của con người như những bản năng dẫn đến chỗ đối lập cá nhân với xã hội, và xem môi trường xã hội chỉ như là điều kiện để các bản năng vốn có của con người dần dần được bộc lộ trong qúa trình phát triển mà thôi. Bên cạnh đó, các nhà tâm lý hộc hành vi cổ điún bằng con đường duy vật giải thích hành vi của con người một cách máy móc, theo mô hình phản xạ có điều kiện. Quan điểm này thường phủ nhận hoặc không đánh giá đúng mức tính tích cực của con người. 5 THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN Nguyễn Thị Lệ Thu Theo dòng lịch sử phát triển của khoa hoc, ngày càng có nhiều nhà khoa học nhận thấy nhược đỉêm của những quan điểm trên. Chúng ta có thể nêu ra một số điểm đáng lưu ý về động cơ thông qua những kết quả nghiên cứu dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử như sau: • Đầu tiên động cơ là sự phản ánh tâm lý về đối tượng có khả năng thoả mãn nhu cầu của chủ thể. Bởi như chúng ta đã biết nhu cầu bao giờ cũng mang tính đối tượng – nhu cầu về một cái gì đó. Tuy nhiên, khi ở chủ thể xuất hiện trạng thái cần cái gì đó thì đối tượng thoả mãn nhu cầu chưa được xác định rõ. Chỉ khi nhu cầu gặp được đối tượng có khả năng thoả mãn thì nhu cầu mới mang tính đối tượng. Đối tượng thoả mãn nhu cầu được con người tri giác, tư duy thúc đẩy và định hướng hành động của chủ thể sẽ trở thành động cơ. Như vậy động cơ là tất cả những gì xuất hiện ở cấp độ phản ánh tâm lý thôi thúc con người hành động nhằm thoả mãn nhu cầu. Như trên trình bày, thì ở đây xuất hiện vấn đề về mối quan hệ biện chứng giữa động cơ và nhu cầu. Khi bàn về động cơ, người ta không thể không bàn đến nhu cầu. Ngược lại khi nói đến nhu cầu thì không thể không nói đến động cơ - động lực thúc đẩy con người thoả mãn nhu cầu. Do đó, nếu nhìn nhận nhu cầu như là một tất yếu khách quan thể hiện sự đòi hỏi của chủ thể về những điều kiện cần thiết cho sự tồn tại và phát triển thì động cơ là biểu hiện chủ quan của tất yếu khách quan đó. Tuy nhiên, động cơ và nhu cầu có quan hệ không đồng nhất. Những nhu cầu giống nhau được thoả mãn bởi những động cơ khác nhau. Ngược lại, sau những động cơ giống nhau có thể là những nhu cầu khác nhau (3). Đây chính là tính chất đa dạng về phương thức thoả mãn nhu cầu con người. • Thứ hai, động cơ đặc trưng của con người mang tính lịch sử – xã hội. Luận điểm này có ý nghĩa phương pháp luận rất lớn. Bởi trước hết, luận điểm này khẳng định rằng các động cơ đặc trưng của 6 THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN Nguyễn Thị Lệ Thu con người nảy sinh và hình thành trong quá trình phát triển cá thể, chứ không phải là một cái gì đó có sẵn từ khi đứa trẻ được sinh ra. Do đó, một vấn đề cơ bản và quan trọng là phải nghiên cứu các cơ sở quy định quá trình hình thành các động cơ đặc trưng của con người và các cơ chế của quá trình đó. Hiện nay hầu hết các nhà tâm lý học đều khẳng định rằng hệ thống động cơ của con người được hình thành trên cơ sở sự hoạt động và giao tiếp của chủ thể trong hệ thống các quan hệ xã hội, các nhóm xã hội nhất định, mà ở đó mỗi chủ thể thực hiện vai trò của mình. Tính lịch sử xã hội của cá nhân được thể hiện ở chỗ, đối tượng thoả mãn nhu cầu của con người thường là sản phẩm của quá trình sản xuất xã hội. Những sản phẩm đó với tư cách là những phản ánh tâm lý về các đối tượng đó nên các động cơ của con người thường mang tính xã hội. Đối với những nhu cầu giản đơn, sơ cấp, mang tính bản năng thì cách đáp ứng nhu cầu đó cũng mang tính xã hội thuộc vào điều kiện sống cụ thể, nền văn hoá, lối sống của mỗi người, mỗi nhóm người. Như vậy, có thể nói rằng, động cơ là một hiện tượng tâm lý giúp con người lựa chọn hướng của hành vi. Động cơ là phản ánh tâm lý thúc đẩy con người hành động nhằm thoả mãn nhu cầu. Động cơ mang tính xã hội lịch sử 1.2 Các lí thuyết về động cơ a, Lý thuyết về động cơ của S. Freud. Toàn bộ lý giải về cơ chế vận hành của động cơ con ngưòi được Freud thể hiện trong hệ thống về lý thuyết nhân cách của ông . Là một bác sỹ chuyên khoa thần kinh, ngay từ buổi đầu ông đã có dịch tiếp xúc với rất nhiều bệnh nhân và ông phát hiện ra rằng nhiều người trong số họ không có tổn thương thực thể. Quyết tâm nghiên cứu tới cùng 7 THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN Nguyễn Thị Lệ Thu những bệnh nhân này Freud đã từ bỏ cách tiếp cận suy nghĩ thần kinh và chuyển sang cách tiếp cận tâm lý học. Trong qúa trình làm trị liệu của mình ông thực sự quan tâm đến những bệnh nhân Hystery. Bằng phương pháp thôi miên và sau này là phương pháp liên tưởng tự do ông đã đi đến kết luận rằng chìa khoá để hiểu các chứng nhiễu tâm nói chung và các triệu chứng Hystery nói riêng nằm ở vô thức. Yếu tố vô thức có vai trò quan trọng trong đời sống tâm lý con người, không chỉ là riêng vởi người bệnh. Trong trị liệu điều quan trọng là phải tìm ra được yếu tố vô thức đã đẻ ra các triệu chứng bệnh kể cả là những xung lực bị trấn áp từ qua khứ xa xưa. Học thuyết của Freud về cơ bản là dựa trên khái niệm vô thức. Ông cho rằng mọi hoạt động của con người đều bắt nguồn từ vô thức. Lúc đầu, ông cho rằng đời sống tâm lý của con người có ba mức: Vô thức, tiền ý thức, và ý thức. Cái vô thức là nguồn gốc chứa đựng những bản năng tạo ra động cơ của con người bao gồm cả vận động và hành vi trí tuệ. ở tầng tiền ý thức của con người chứa đựng những nội dung tâm lý. Bình thường những nội dung này không được ý thức, song nó dễ dàng được chuyển sang cùng ý thức. ở tấng ý thức mọi hành vi của con người diễn ra dưới sự kiểm duyệt của xã hội. ở tâng này trạng thái tâm lý của con người thường mâu thuẫn với tầng vô thức. Lý thuyết của Freud dùng để giải thích các bệnh như Hystery, sự quên các sự kiện hay một số các sự kiện như giấc mơ, nói lỡ … và cơ chế đó được giải thích như sau: Một ham muốn nào đó trỗi dậy liền đụng phải “Trạm kiểm duyệt của ý thức”, và do đó phải tìm đường đi vòng và chuyển sang hình thức khác. Về hình thức, các hình thức biểu hiện như là các triệu chứng bệnh lý, xong về thực chất đó các hình thức ký hiệu của các ham muốn ban đầu. 8 THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN Nguyễn Thị Lệ Thu Sau chiến tranh thế giới thứ 2, lý thuyết của Freud thay đổi. Ông cho rằng đời sống tâm thần của con người có ba cấp. Cấp thấp nhất là “Cái ấy” nội dung của “ Cái ấy” bao gồm tất cả những gì có từ khi con người sinh ra. Hay nói khác đi, “cái ấy” chứa đựng yếu tố bản năng và vận hành theo nguyên tắc thoả mãn . Cấp thứ 2, làm trung gian giữa “ cái ấy” và thế giới bên ngoài chính là “cái tôi”. “ Cái tôi” đảm bảo sự bảo tồn. Đối với những gì ở bên ngoài “ cái tôi” thực hiện nhiệm vụ của mình bằng cách nhận biết các kích thích, tích luỹ kinh nghiệm trong trí nhớ do kích thích đem lại, tránh những kích thích qúa mạnh bằng cách trốn tránh, thích nghi với những kích thích vừa phải, cuối cùng đi tới làm thay đổi thế giới bên ngoài một cách thích hợp và có lợi cho chủ thể bằng hành động. Đối với những yếu tố ở bên trong, “cái tôi” tiến hành hành động chống lại cái ấy bằng cách làm chủ những đòi hỏi xung năng và xem xét những đòi hỏi ấy có cần thiết được đáp ứng ngay hay không. Thường thì cái tôi tìm đến sự thích thú và tìm cách tránh sự căng thẳng. (Freud đã thực sự nói gì). Như vậy có nghĩa là cái tôi buộc phải phục vụ cái ấy nhưng không phải tuân theo nguyên tắc thoả mãn mà là tuân theo nguyên tắc hiện thực. Cấp độ thứ ba, cấp độ cao nhất trong đời sống tâm lý con người, đó là cấp độ cái siêu tôi. Cái siêu tôi là một bộ phận được hình thành từ cái tôi để cho ảnh hưởng của bố mẹ vẫn được tiếp tục và thường đối lập với cái tôi. Cái siêu tôi là thành phần mang chuẩn mực xã hội và có vai trò là người kiểm duyệt. Có nghĩa là hành vi của con người được xuất hiện từ cái ấy rồi thông qua cái tôi và bị kiểm duyệt bởi cái siêu tôi. Điều đó có nghĩa là nhu cầu của con người sẽ được thoả mãn nếu như nhu cầu đó là phù hợp với yêu cầu, chuẩn mực của xã hội. Và đIều này phải được cá nhân ý thức một cách rõ ràng. 9 THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN Nguyễn Thị Lệ Thu Với mô hình cấu trúc nhân cách trên đây Freud đã mô tả quá trình hình thành động cơ của con người thông qua nhiều tầng bậc. Thứ nhất đó là các tầng bậc sinh vật (cái ấy), tầng nhân cách (cái tôi), tầng xã hội (cái siêu tôi). (Tâm lý học trong thế kỷ 20). Tuy nhiên, việc lý giải về mối quan hệ của ba tầng bậc ấy thì Freud đã bị rất nhiều nhà nghiên cứu phê phán. Freud cho rằng, sức mạnh của cái ấy thể hiện mục đích thực sự của đời sống hữu cơ của cá nhân và có xu hướng thoả mãn những nhu cầu bản năng của cá nhân đó. Cái ấy chứa đựng những xung lực bản năng. Xung lực bản năng có tác động nhiều nhất đến đời sống tâm lý con người chính là bản năng tính dục (hay Libido). Theo ông thì Libido là một số năng lượng gần như cố định ở tất cả các cá nhân, có liên hệ chủ yếu và căn bản tới bản năng tính dục của họ, tạo nên một phần trang bị vốn có từ khi sinh ra và tồn tại cho đến hết cuộc đời dưới một hình thức nào đó (Freud đã thực sự nói gì). Theo ông thì đời sống tính dục không phải bắt đầu vào tuổi dậy thì mà bắt đầu từ khi con người mới sinh ra. Đời sống tính dục khác với đời sống tình dục. Khái niệm tình dục ám chỉ nhiều hành động không liên quan đến cơ quan sinh dục. Đời sống tình dục bao hàm chức năng cho phép tính được khoái cảm từ các vùng khác nhau trên cơ thể. Có thể nói rằng trong toàn bộ hệ thống lý thuyết của Freud thì có hai ý tưởng sau đây là cơ sở kích thích cơ bản nhất, từ đó mà ông giải thích cơ chế vận hành của động cơ con người. Đầu tiên, ông cho rằng ý thức là một phần tương đối nhỏ và có tính chất tạm thời trong toàn bộ đời sống con người. Nếu như chúng ta xem xét phần vô thức và ý thức của con người như là hai phần của tảng băng trôi, thì tất cả những gì chúng ta biết được, nhớ được là phần nổi trên mặt nước. Chính phần chìm này quyết định trọng tâm của toàn bộ tảng băng và phần lớn những vận động, phương hướng của tảng băng đó. Hay nói khác đi phần vô thức mới là phần quyết định ý thức của con người. 10 THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN Nguyễn Thị Lệ Thu Thứ hai, trong lý thuyết của Freud, quan hệ giữa cá nhân và xã hội dường như luôn luôn đối kháng. Trong quá trình sống con người luôn luôn muốn những nhu cầu có tính bản năng của mình nhưng không thể cưỡng lại những đòi hỏi của xã hội, những yêu cầu của người khác … Cho nên hầu hết các cá nhân phải từ bỏ phần lớn các xung lực bản năng hướng tới thoả mãn những nhu cầu của mùnh. Từ hai quan điểm trên cộng với một số kinh nghiệm trong quá trình làm trị liệu mà Freud rút ra cơ chế vận hành động cơ như sau: Theo ông cái ấy là một bình chứa năng lượng chung mà từ đó tất cả các cấp tâm trí có thể rút ra. Năng lượng có được đầu tư vào một biểu tượng, một đối tượng cũng có thể được chuyển vào những cái khác có liên quan đến những cái ban đầu bằng một chuỗi liên tưởng. Những quá trình chuyển đi, chuyển lại như vậy thường xuyên diễn ra trong các hoạt động của vô thức. Chính sự phân phối liên tục của hệ thống tâm trí là yếu tố có vai trò quan trọng để lý giải những ứng xử bình thường cũng như những rối loạn ứng xử của con người. Đồng thời Freud cho rằng giữa các cá nhân luôn có xung đột giữa các xung năng. Chẳng hạn như xung đột giữa các xung năng tính dục và xung năng tự bảo tồn. Những xung năng ấy được hoạt động theo các cơ chế tự vệ của cái tôi. Thường có các cơ chế tự vệ là: Dồn nén, phóng chiếu, thay thế và thăng hoa. Tất cả những quá trình trên đều diễn ra một cách vô thức, song hoàn toàn không mang tính ngẫu nhiên, mà trên thực tế nó là cơ chế tự vệ của con người. Các cơ chế này luôn cùng tồn tại, đan xen vào nhau và hỗ trợ cho nhau làm cho con người dễ tạo sự cân bằng nội tâm và thích nghi với hoàn cảnh sống. Với cách lí giải theo quan điểm của Freud, toàn bộ hệ thống động cơ của con người, của xã hội được nhìn nhận như là cách thức thoả mãn, là sự thể hiện dưới hình thức kí hiệu những mong muốn bên trong của con người. 11 THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN Nguyễn Thị Lệ Thu Toàn bộ đời sống tâm lí của con người là một cuộc đấu tranh không ngừng giữa hai lực lượng luôn mâu thuẫn là ý thức và vô thức. Và Freud đã mở ra một hướng nghiên cứu mà cho đến nay các nhà khoa học vẫn chưa nghiên cứu một cách đúng mức và giải thích nó một cách thoả đáng. Vô thức đóng vai trò quan trọng như thế nào trong đời sống con người có lẽ cần được nghiên cứu nhiều hơn. b, Lý thuyết động thái của K. Lewin. Lewin là một nhà tâm lí học đặc biệt quan tâm đến van đề động cơ. Theo ông thì tâm lí học phải nghiên cứu quy luật hình thành và thể hiện của động cơ, bởi hành vi của con người được qui định bởi các nhu cầu và động cơ tâm lí từ bên trong của họ. Nghiên cứu về lĩnh vực này, Lewin xuất phát từ quan điểm cho rằng, tâm lí học cần phải khắc phục quan điểm xem xét động cơ như một lực bên trong khép kín, tác động không phụ thuộc vào môi trường, phải đi từ cách nhìn nhận các khách thể như những vật thể đến cách nhìn nhận chúng trong các mối quan hệ. Cần phải xem xét hành vi của con người như là kết quả tác động trực tiếp lẫn nhau giữa cá nhân và môi trường xung quanh cá nhân đó. Lí thuyết về động cơ của Lewin liên quan đến một số khái niệm mà chúng ta cần làm rõ. Thứ nhất đó là khái niệm nhu cầu. Theo ông thì nhu cầu là lực thúc đẩy hành động. Nhu cầu được ông hiểu là trạng thái động xuất hiện ở con người khi người đó thực hiện một dự định hay một hành động nào đó. Nhu cầu của con người được ông gọi là nhu cầu xã hội. Lewin gọi nhu cầu của con người là nhu cầu xã hội không phải có ý nói đến tính quy định xã hội của chúng mà muốn nhấn mạnh rằng, nhu cầu xét về bản chất không phaỉ mang tính bẩm sinh, cũng không phaỉ là một hiện tượng tâm lí có tính sinh vật. Mà nhu cầu có tính động, xuất hiện ở những thời điểm cụ thể. Và có thể thấy rõ ràng rằng Lewin chịu ảnh hưởng bởi quan điểm của các nhà tâm lí học theo trường phái tâm lí học Gestan. 12 THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN Nguyễn Thị Lệ Thu Luận điểm của trường phái Tâm lí học này cho rằng hiện tượng tâm lí xuất hiện tại đây, vào thời điểm này đã được ông sử dụng để giải thích tính qui định của hành vi con người. Ông phân biệt nhu cầu xuất hiện trong một thời điểm cụ thể với các nhu cầu bền vững khác của con người như nhu cầu nghề nghiệp, nhu cầu tự khẳng định. Đồng thời Lewin đặc biệt coi trọng nhu cầu xã hội, vì theo ông chính những nhu cầu âý thúc đẩy hoạt động thường ngày của con người. Nhu cầu xã hội có xu hướng thoả mãn, có nghĩa là giải toả sự căng thẳng. Nhu cầu xã hội khi có bất kì một hệ thống trương lực nào đó xuất hiện trong một hoàn cảnh cụ thể, đảm bảo cho sự hoạt động của con người hướng tới giải toả trương lực. M. Owsiankina đã làm thực nghiệm để chứng minh điều này. Ông tiến hành thực nghiệm với một nhóm các nghiệm thể. Đầu tiên ông giao cho họ một công việc đơn giản như xếp hình. Rồi sau đó khi gần kết thúc công việc, ông lại yêu cầu họ làm một công việc khác. Kết quả là 80% nghiệm thể sau khi hoàn thành công việc thứ hai đã quay lại tiếp tục làm nốt công việc thứ nhất đang bỏ dở. Lewin lí giải hiện tượng trên như sau: Ông cho rằng khi nghiệm thể tiếp nhận nhiệm vụ thì điều đó có nghĩa là ở người đó đã xuất hiện một dự định, một hệ thống trương lực, hay một nhu cầu xã hội. Khi nhiệm vụ được thực hiện thì trương lực được giải toả dần. Nếu công việc bị bỏ dở thì có nghĩa là nhu cầu chưa được thoả mãn hoàn toàn. Việc quay lại thực hiện tiếp tục nhiệm vụ dở dang chứng tỏ hệ thống trương lực có xu hướng tiến tới giải toả. Mặc dù sự xuất hiện của hiện tượng như trên còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau ( tuổi, giơí tính, …), song các nghiên cứu về chúng đã là cơ sở để Lewin đi đến kết luận rằng đối với các hoạt động của con người thì xuất hiện hệ thống trơng lực trong hoàn cảnh cụ thể là yếu tố cơ bản, nó chính là yếu tố qui định hoạt động tâm lí của con người. Chính khía cạnh động thái ( khía cạnh động lực) chứ không phải khía cạnh nội dung quy định 13 THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN Nguyễn Thị Lệ Thu việc thực hiện dự định. Điều này có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong việc điều chỉnh hành vi con người. Đó là trong việc điều chỉnh hành vi của con người cần phải làm thế nào để nội dung giáo dục muốn đạt đến phải đạt được một mức độ ý nghĩa nhất định đói với cá nhân đó, tức là đạt được một lực đẩy lớn hơn các nội dung khác, thì như thế việc điều chỉnh hành vi con người mới có hiệu lực. Khái niệm thứ nhai là khái niệm không gian sống. Sử dụng khái niệm này ông muốn nhấn mạnh đến sự thống nhất giữa nhân cách ( chủ thể) với môi trường cụ thể. Không gian sống- đó là môi trường và nhân cách tác động lẫn nhau, là tổng thể những sự kiện tâm lí tồn tại phụ thuộc vào nhau. Hành vi của con người không chụi sự qui định bởi đặc điểm của môi trường có tác động lên nhân cách mà bởi một thể thống nhất trong vẹn, cụ thể các thành phần là nhân cách và môi trường. Điều đáng quan tâm ở đây là tất cả các sự kiện vật lí hay các sự kiện xã hội đều có thể thuộc thành phần của không gian sống nếu như chúng tác động lên con người và được người đó cảm nhận. Ngược lại, những gì không được con người tri giác thì không thuộc không gian sống. Trong không gian sống mọi vật thể không xuất hiện đơn độc mà luôn trong mối quan hệ với con người, hay chính xác hơn là trong mối quan hệ với nhu cầu và mong muốn của con người. Vì vậy, để có thể hiểu được hành vi của con người thì cần phải phân tích động thái của mối quan hệ qua lại giữa con người và môi trường xung quanh nó. Không chỉ nghiên cứu về môi trường xã hội trong hoàn cảnh hiện tại mà Lewin còn đưa ra khái niệm “viễn cảnh thời gian” để diễn tả tính quy định hành vi con người. Nguyên tắc cơ bản của lí thuyết này cho rằng hành vi hay những thay đổi khác trong trường tâm lí phụ thuộc vào cấu trúc của trường tại thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, các tri giác, trải nghiệm của con người về tình trạng hiện tại luôn có quan hệ với các biểu tượng trong quá khứ và những mong muốn về tương lai. Điều này có nghĩa kinh nghiêm quá 14 THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN Nguyễn Thị Lệ Thu khứ hay các sự kiện tương lai chỉ có thể tham gia vào khong gian sống thông qua việc nhân cách hình dung về chúng như thế nào trong thời điểm hiện tại. Với khái niệm viễn cảnh thời gian, Lewin đã khẳng định hoạt động của con người không chỉ chịu ảnh hưởng bởi những gì có trong hiện tại, mà cả những kinh nghiệm quá khứ và mục đích gần và xa khác nhau của nhân cách. Lý giải về quá trình vận hành động cơ. Theo ông, để hiểu được các chuyển động của con người trong không gian sống thì cần phải hình dung các lực tâm lí theo kiểu vật lí. Lực tâm lí được hiểu là một đại lượng định hướng dẫn tới một đại lượng. Lực này được xác định bởi hướng, cường độ và vị trí cuả nó. Theo ông thì không có một hiện tượng nào của con người chỉ chịu tác động của một lực tâm lí. Trong một thời điểm nhất định có rất nhiều lực khác nhau tác động lên nhân cách, con người sẽ rơi vào hoàn cảnh mâu thuẫn khi các lực tác động lên họ bằng các phương khác nhau và gần bằng nhau. Về mặt tâm lý hướng của hành động sẽ cho thấy khuynh hướng của động cơ. Hành động của con người trong không gian sống là một phương tiện đạt mục đích. Trong các phương tiện đạt mục đích khác nhau thì con người bao giờ cũng có xu hướng lựa chọn phương tiện giá trị nhất và đơn giản nhất. Thông thường trong không gian sống không phải tất cả những gì liên quan đến hành động đều được con người nhìn nhận như nhau. Thường thì mục đích gần được con người xác định rõ hơn những mục đích xa. Và thường thường lực tác động lên nhân cách hướng tới mục đích tỷ lệ thuận với giá trị của mục đích và tỷ lệ nghịch với khoảng cách của mục đích. Đặc biệt khi nghiên cứu về động cơ Lewin còn nhấn mạnh đến tính hệ thống của chúng. Theo ông, bất kỳ một hành động nào cũng tham gia vào một hệ thống nhất định. Hệ thống này lại tham gia vào một hệ thống khác lớn hơn ... và cuối cùng là tham gia vào một hệ thống trọn vẹn, hệ thống động cơ - xúc cảm của nhân cách. Vì vậy, muốn hiểu được hành vi của con 15 THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN Nguyễn Thị Lệ Thu người thì phải tìm hiểu lĩnh vực động cơ - xúc cảm của nhân cách , và trong quá trình nghiên cứu thì Lewin chỉ chú ý đến khía cạnh lực chứ không đề cập nhiều đến khía cạnh nội dung của lĩnh vực đó. Hạn chế của Lewin cũng chính ở chỗ đó. Nghiên cứu về động cơ nhưng ông chủ yếu thiên về yếu tố xúc cảm mà ít chú ý đến tư duy, ý thức, tính tích cực của nhân cách. Ông chỉ đi sâu nghiên cứu về khía cạnh lực của động cơ và đi đến kết luận, chỉ khi nào các giá trị xã hội trở thành giá trị nhân cách của con người thì các giá trị đó mới có thể đạt được một lực thúc đẩy có hiệu quả và chỉ khi đó việc thực hiện hoạt động mới đem lại cho con người những xúc cảm dương tính, và đến lượt nó lại củng cố thêm ý nghĩa nhân cách của các giá trị xã hội. Do đó quan điểm của ông về khía cạnh lực của động cơ có ý nghĩa quan trọng trong việc điều chỉnh hành vi của con người. Một trong những luận điểm quan trọng trong nền tảng lí thuyết động cơ của Lewin là luận điểm cho rằng các nhu cầu xã hội có khả năng chuyển giao. Điều này có nghĩa là năng lượng của hệ thống này có thể chuyển giao sang hệ thống kia. Thực nghiệm về việc đưa ra hai nhiệm vụ cho nhóm nghiệm thể đã trình bày ở trên là một ví dụ điển hình minh hoạ cho luận điểm này. Việc nhóm nghiệm thể quay lại tiếp tục thực hiện nhiệm vụ thứ nhất sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ thứ hai cao như trường hợp hai – nhiệm vụ được giao cho nghiệm thể có nội dung khác nhau. Điều này có nghĩa là việc thực hiện nhiệm vụ thứ hai đã thay thế nhiệm vụ thứ nhất. Nói cách khác, sự giải toả năng lượng ở nhiệm vụ thứ hai đã thay thế cho việc giải toả năng lượng ở nhiệm vụ thứ nhất. ở người lớn, khả năng chuyển giao năng lượng này là rất lớn. Có thể nhận thấy rằng về hình thức quan điểm chuyển giao các nhu cầu xã hội của Lewin gần giống với quan điểm của S.Freud. Tuy nhiên, về bản chất hai quan điểm này là khác nhau. Thứ nhất , các nhu cầu mà Lewin nói đến là những nhu cầu xã hội trong thời điểm cụ thể (tại đây, bây giờ) trong khi đó lý thuyết của S. Freud thì đó là các hành vi bản 16 THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN Nguyễn Thị Lệ Thu năng , bị xã hội cấm đoán. Thứ hai, sự thay thế trong mô hình của Lewin có chức năng điều chỉnh, còn trong lí thuyết của S.Freud , nó có chức năng bảo vệ. Nhìn chung thì lý thuyết về động cơ của Lewin nhấn mạnh đến lực tâm lý hay nói khác đi là nhấn mạnh vai trò của hoạt động thực tiễn đối với quá trình nhận thức của con người nói chung và đối với việc hình thành các lực thúc đẩy con người hoạt động nói riêng. Do đó, đây cũng là một quan điểm rất có ý nghĩa đối với việc điều chỉnh hành vi con người. c, Lí thuyết của Carl Roger về cá tôi. Carl Roger không trực tiếp nghiên cứu về động cơ, song những cách lí giải của ông về những gì xảy ra xung quanh hành vi con người lại cho thấy những điều có liên quan rõ ràng đến động cơ. Khái niệm trung tâm trong lí thuyết của C. Roger là về cái tôi. ông cho rằng trong buổi đầu của cuộc sống trẻ em chưa phân biệt được bản thân chúng với môi trường xung quanh. Trong quá trình sống, nhờ nhận thức, trẻ bắt đầu phân biệt được bản thăn nó với thế giới xung quanh, từ đó mà cái tôi, nhân cách được hình thành. Trong suốt quá trình sống thì cá nhân luôn có xu hướngduy trì, bảo vệ nó và bất kì một dấu hiệu mâu thuẫn nào với nó sẽ là một mối đe doạ có thể gây ra lo âu ở chủ thể. Bkhi gặp mâu thuẫnmột số người có thể phản ứng lại các mối đe doạ đó một cách thích hợp bằng cách tự điều chỉnh lại quan điểm về nhân cách của mình để điều kiện trở nên phù hợp. Theo quan điểm này thì hành vi của con người không phải như là phản ứng đơn giản đối với những tác động bên ngoài, mà như là một câu trả lời xâu sắc của từng cá nhân đối với tác động đó. Và ông cho rằng không ai có thể giải thích hành vi của chúng ta một cách sâu sắc, thấu đáo bằng chính chúng ta. Điều này có nghĩa là chính bản thân mỗi người sẽ ý thức rõ hơn ai hết về nhu cầu, động cơ hành động của chính mình. 17 THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN Nguyễn Thị Lệ Thu d, Lí thuyết nhân cách của V. Frankl. Frankl là một nhà sinh lí học người Áo, ông lí giải về ccác động cơ cơ bản của con người khác với quan điểm của Freud và Adler. Theo quan điểm của ông thì lực thúc đẩy cơ bản của con người chính là cuộc đấu tranh vì ý nghĩa cuộc sống. Việc tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời là dấu hiệu tồn tại đích thực, vì vậy con người nhất thiết phải thấy được ý nghĩa tồn tại của mình. Sự thiếu hụt hay mất đi ý nghĩâ cuộc đời sẽ làm cho con người cảm thấy trống rỗng về tinh thần, cuộc sống trở nên nặng nề. Ông cho rằng ý nghĩa cuộc sống mang bản sắc cá nhân và con người không thể tìm thấy ý nghĩa cuộc sống bên trong bản thân mình (trong tâm hồn hay trong cơ thể), mà chỉ có thể tìm thấy trong môi trường xung quanh. Do đó tồn tại người không phải là sự tự thể hiện mà là sự tự chuyển vào cái khác. Điều này được hiểu như sau: Thứ nhất là con người có thể đạt đợc ý nghiã cuộc sống bằng cách thực hiện hành động. Hai là, con người tìm thấy ý nghĩa cuộc sống qua việc chăm sóc cho người khác, trong tình yêu với mọi ngươì. Ba là, con người có được ý nghĩa cuộc sống khi xây dựng quan điểm rõ ràng đối với những hoàn cảnh sống khác nhau. Trên cơ sở đó Frankl xây dựng phương pháp trị liệu ý nghĩa. Nhiệm vụ của cách trị liệu này là giúp cho bệnh nhân tự tìm được ý nghĩa cuộc sống của mình. Quan điểm trị liệu ý nghĩa khác với quan điểm trị liệu phân tâm ở chỗ, quan điểm này cho rằng con người là một thực thể mà sứ mệnh của nó là thực hiện ý nghĩa và hiện thực hoá các giá trị chứ không phải là sự thoả mãn đơn giản những bản năng và ham muốn. e, Lí thuyết nhận thức xã hội của Albert Bandura. A. Bandura là một nhà tâm lí học Mỹ chịu nhiều ảnh hưởng của tâm lí học hành vi, nên ông chú trọng nhiều đến yếu tố môi trường qui định hành vi. Tuy nhiên, trong quan điểm của mình về động cơ, ông nhấn mạnh 18 THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN Nguyễn Thị Lệ Thu đến tầm quan trọng của các quá trình nhận thức nằm giữa kích thích và hành vi trả lời. Theo ông thì hành vi của con người được hiểu như là kết quả của sự tác động qua lại giữa cái mà con người nghĩ và điều kiện mà con người đang sống. Giống như nhiều nhà lí thuyết học tập khác, Bandura cho rằng hậu quả mà hành vi gây ra có tác động mạnh lên hành vi. Ngoài ra ông còn cho rằng phần thưởng hay hình phạt có thể có từ bên ngoài, cũng có thể có từ bên trong. ông nhấn mạnh đến tầm quan trong của phần thưởng hay hình phạt từ bên trong của cái tôi, ở đây ông muốn nói đến sự tự điều chỉnh hành vi bởi cái tôi thông qua các quá trình bên trong như những gì khác với bên ngoài. Ông cho rằng, nếu chúng ta nhấn mạnh đến các quá trình nhận thứcquá trình điều chỉnh bên trong - thì mới có thể lí giải được sự phát triển đạo đức của chúng ta. Ông đưa ra mô hình về mối quan hệ hành vi- môi trường như sau: Môi trường Con người Hành vi Mô hình về mối quan hệ tác động qua lại giữa hành vi, con người , môi trường. Trong số những nhân tố điều chỉnh hành vi của con người thì ông nhấn mạn đến tầm quan trọng của sự cảm nhận của con người về hiệu lực cái tôi của cá nhân, niềm tin của người đó về năng lực của bản thân trong việc thực hiện hành vi. Ông cho rằng, những người có hiệu lực cái tôi cao có niềm tin vào năng lực thực hiện những hành vi cần thiết để thoả mãn nhu 19 THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN Nguyễn Thị Lệ Thu cầu. Còn khi con người bị các tổn thương về tâm lí hay thể chất thì hiệu lực cái tôi sẽ thấp và ở họ xúât hiện tâm trạng lo lắng. 2.Nhận thức. Nhà triết học R. Đềcác đã nói : “ Tôi suy nghĩ tức là tôi tồn tại”. Điều đó có nghĩa là gì? Con người khi sống luôn luôn muốn khám phá , lí giải thế giới xung quanh mình xem tại sao lại như thế này, hay như thế khác. Con người luôn luôn muốn tìm tòi để trả lời cho những câu hỏi mà mình đặt ra. Nói khác đi quá trình suy nghĩ, tìm tòi ấy của con người chính là quá trình nhận thức. Nhận thức là một thuật ngữ khái quát hoá mọi dạng hiểu biết bao gồm: chú ý, ghi nhớ, suy nghĩ và giải quyết vấn đề, tri giác và nhận biết hình mẫu. Một nhận thức là một đơn vị thông tin, một đơn vị suy nghĩ hoặc một ý tưởng. Nội dung của các quá trình nhận thức bao gồm các sự kiện, các mệnh đề, các quy tắc, các khái niệm và các điều mà con người có thể nhớ lại. Hoạt động nhận thức là một hoạt động tinh thần, không làm biến đổi các vật thể, các quan hệ thực…mà hoạt động nhận thức chỉ phản ánh các sự vật, các mối quan hệ mang lại cho chủ thể các hình ảnh, các tri thức về sự vật và quan hệ ấy.( Đó chính là nội dung của quá trình nhận thức như đã nói ở trên). Bằng hoạt động nhận thức con người phân tích, tổng hợp, khái quát, ghi nhớ các hình ảnh ấy. Và nếu có thực hiện một biến đổi nào đó chính là sự biến đổi các hình ảnh này, nói khác đi đó là sự đổi mới tư duy, chuẩn bị cho sự đổi mới thực tế. Các nhà kinh điển Mác – Lênin đã nói: Không có lí luận cách mạng, không có phong trào cách mạng. Phải áp dụng tiến bộ của khoa học kĩ thuật , mới tăng được năng suất lao động. Điều đó khẳng định vai trò to lớn của nhận thức trong quá trình sống của con người. Có hoạt động nhận thức diễn ra ở mức độ kinh nghiệm thực tiễn, có hoạt động nhận thức diễn ra ở mức độ lí luận khoa học. Cả hai mức độ đều 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan