Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đề tài nghiên cứu khoa học đầu tư trực tiếp nước ngoài (fdi)...

Tài liệu đề tài nghiên cứu khoa học đầu tư trực tiếp nước ngoài (fdi)

.PDF
95
47
85

Mô tả:

1 TÓM TẮT ĐỀ TÀI Lý do chọn đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một hình thức đầu tư dài hạn đóng vai trò quan trọng trong quá trình tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xuất khẩu, tạo công ăn việc làm… của các quốc gia trong đó có các nước đang phát triển. Kể từ khi xuất hiện lần đầu tiên trên thế giới vào khoảng thế kỷ thứ 19 đến nay, hoạt động đầu tư nước ngoài đã có những biến đổi sâu sắc. Xu hướng chung là ngày càng tăng lên về số lượng, quy mô, hình thức, thị trường, lĩnh vực đầu tư và sự tập trung ngày càng nhiều của các công ty xuyên quốc gia(MNE). Các MNE kiểm soát gần 90% vốn FDI trên thế giới, điều này phản ánh xu thế tham gia tích cực hơn của các nước vào quá trình toàn cầu hoá, liên kết và hợp tác quốc tế. Vì vậy, thông qua dòng vốn FDI, các quốc gia đang phát triển nói chung và khu vực Châu Á nói riêng nhanh chóng đạt được nhiều thành tựu đáng kể và trở thành một trong những vùng kinh tế năng động, đầy hứa hẹn trên bản đồ thế giới. Riêng tại Việt Nam trong hơn hai thập kỷ qua, FDI giữ vai trò then chốt trong trong sự nghiệp thúc đẩy công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, sau khủng hoảng năm 2008, nền kinh tế vẫn chưa kịp phục hồi dẫn đến dòng vốn FDI toàn cầu sụt giảm đáng kể. Theo báo cáo về đầu tư xuất bản ngày 24/1/2013 của Cơ quan Liên Hợp Quốc về đầu tư và thương mại(UNCTAD) cho biết năm 2012 thế giới ghi nhận con số 1.300 tỷ USD vốn FDI được luân chuyển toàn cầu, đã giảm so với con số 1.600 tỷ của năm 2011. Và tình hình năm 2013 cũng không mấy khả quan, vẫn quay quanh ngưỡng của năm trước đã tạo nên một ―cuộc đua‖ FDI ngày càng trở nên khắc nghiệt. Những vấn đề này đặt ra câu hỏi làm thế nào để thu hút FDI và ― sử dụng vốn ngoại‖ một cách hiệu quả ở các nước đang phát triển? Để trả lời cho câu hỏi này, hàng loạt các bài nghiên cứu ra đời và không ít bài nghiên cứu trong số đó như một cuộn băng tua chậm giúp ta có cái nhìn ban đầu về tác động của các nhân tố lên dòng vốn FDI. Như nghiên cứu của Garibaldi và cộng sự(2002) tại 26 nền kinh tế chuyển đổi Đông Âu cho ra kết quả hồi quy FDI được giải thích tốt bởi các nhân tố cơ bản của nền kinh tế như sự ổn định của kinh tế vĩ mô, mức độ cải cách nền kinh tế, tự do hoá thương mai, tình trạng quan liêu của chính phủ mà tiêu biểu là vấn nạn tham nhũng ở các nước nhận đầu tư. Hay nghiên cứu của Pravakar 2 Sahoo (2006) tại các nước Nam Á trong giai đoạn 1975- 2003, bao gồm Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Srilanka nhân thấy các nhân tố như quy mô thị trường, tỷ lệ tăng trưởng lực lượng lao động, chỉ số cơ sở hạ tầng và mức độ mở cửa thương mại có tác động lên FDI. Tuy nhiên, nhìn chung những bài nghiên cứu hầu như tập trung vào đi sâu phân tích những vấn đề cụ thể, rất riêng về một khía cạnh nào đó, chưa cung cấp một bức tranh toàn diện về mối quan hệ giữa những thể chế phi chính thức của các quốc gia, đó là những thể chế phản ánh quan điểm của người dân với các quy tắc và chuẩn mực đã được hệ thống hoá tạo thành những thể chế chính thức như kinh tế, chính trị… Thứ hai, có rất ít các nghiên cứu diễn ra trên một loạt các thể chế chính thức và phi chính thức cũng như cung cấp các kết quả bao quát về những thể chế khác nhau thì tác động khác nhau đến dòng vốn FDI đổ vào như thế nào hay nói cách khác, loại hình thể chế nào thu hút hoặc không thu hút FDI? Nhận thấy được điều này cộng với nhu cầu thu hút vốn FDI từ các quốc gia phát triển như Việt Nam, đã thôi thúc chúng tôi quyết định thực hiện nghiên cứu: ―Tác động của thế chế chính thức và thể chế phi chính thức lên dòng vốn FDI tại Việt Nam và các nước khu vực Châu Á‖. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu chúng tôi hy vọng sẽ cung cấp thêm cho các học giả về vai trò của các thể chế khác nhau lên FDI, động lực hình thành chúng một cách riêng biệt cũng như đề xuất các gợi ý chính sách cho các nhà điều hành với mục tiêu phát triển nền kinh tế các quốc gia, khu vực và đặc biệt là Việt Nam. Mục tiêu nghiên cứu Bài nghiên cứu đề xuất một kết cấu và thiết lập các công cụ để tạo điều kiện cho các nghiên cứu thực nghiệm và lý thuyết xa hơn nữa trên những thể chế chính thức thông qua cung cấp tư liệu về tác động của thể chế kinh tế, thể chế chính trị, thể chế điều tiết trong việc thu hút các chiến lược đầu tư từ các công ty đa quốc gia vào các quốc gia, đặc biệt là khu vực Châu Á. Trên cơ sở đó, nghiên cứu hướng đến trả lời 2 câu hỏi: 1. Thể chế phi chính thức có mối tương quan như thế nào với các thể chế chính thức của các quốc gia đó? 3 2. Xác định tác động của các thể chế chính thức khác nhau đến sự hấp dẫn của một quốc gia đối với những nhà quản trị các công ty đa quốc gia và thu hút dòng vốn FDI đổ vào như thế nào? Phƣơng pháp nghiên cứu Để kiểm tra những ảnh hưởng trên và các tác động của môi trường thể chế, chúng tôi đã thu thập và phân tích dữ liệu 10 quốc gia Châu Á: Trung Quốc, Ấn Độ, Indonexia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippine, Singapore, Malaysia, Thái Lan, Việt Nam trong 13 năm từ giai đoạn năm 2000 đến năm 2012 đã cung cấp mẫu gồm nhiều định chế và văn hóa đa dạng, phong phú. Ngoài các nước phát triển, mẫu dữ liệu cũng bao gồm một số nền kinh tế mới nổi Ấn độ, và Trung Quốc và một vài nước đang phát triển nhưng chậm hơn gồm Việt Nam, Indonexia, Malaysia… Phương pháp được sử dụng là kỹ thuật phân tích nhân tố khám phá (Exploratory Factor Analysis – EFA) để kiểm định chiều và mức độ tác động của các thể chế phi chính thức cụ thể là văn hoá cùng với thể chế chính thức gồm thể chế điều tiết, thể chế chính trị và thể chế kinh tế lên sự thay đổi trong dòng vốn FDI chảy vào. Nội dung nghiên cứu Nội dung bài nghiên cứu đóng góp vào lý thuyết thể chế bằng cách kiểm tra tác động của các thể chế phi chính thức lên các thể chế chính thức và tác động của các thể chế chính thức lên dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đổ vào. Cụ thể, chúng tôi tổng hợp nhiều bài nghiên cứu trước đây, từ nhiều lĩnh vực khác nhau để xác định vai trò của thể chế điều tiết, thể chế chính trị và thể chế kinh tế của một quốc gia. Kết quả cho thấy những thể chế phi chính thức của quốc gia thể hiện qua hai phương diện của văn hóa là chủ nghĩa tập thể và định hướng tương lai, đã góp phần hình thành nên các thể chế chính thức của quốc gia đó. Lần lượt, mỗi yếu tố trong ba yếu tố của thể chế chính thức có những tác động khác nhau tới mức độ dòng FDI chảy vào trong nước. Từ đó, hình thành nền tảng cơ bản trong việc thu thập và xử lý dữ liệu cũng như đưa ra những lập luận và phân tích cụ thể hơn về tác động của từng yếu tố thể chế lên dòng vốn FDI chảy vào nội địa. 4 Đóng góp của đề tài Bài nghiên cứu của chúng tôi là một trong những nghiên cứu đầu tiên giải thích về mặt lý thuyết lẫn nghiên cứu thực nghiệm cách mà các thể chế phi chính thức của một quốc gia hình thành nên nhiều thể chế chính thức của quốc gia đó. Sử dụng dữ liệu của 10 quốc gia trong hơn 13 năm, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này bằng cách phát triển phương pháp đo lường mới cho ba loại hình thể chế chính thức quan trọng, mỗi một trong số đó phục vụ một vai trò khác nhau trong xã hội. Ngoài ra chúng tôi nghiên cứu ảnh hưởng của ba loại hình thể chế chính thức đến khả năng thu hút vốn của thị trường trong nước đối với các khoản đầu tư từ MNEs, với bằng chứng là đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Bằng cách điều tra các thể chế với số lượng nhiều và đa dạng, chúng tôi có thể cung cấp cái nhìn sâu vào các loại hình và đặc điểm của các thể chế đang thu hút hoặc ngăn cản MNE đầu tư vào một quốc gia. Môi trường các thể chế đa chiều, phức tạp và nhiều thể chế khác nhau phụ thuộc lẫn nhau (North, 1990; Ostrom, 2005; Scott, 1995). Do đó, chúng ta chỉ có thể hiểu được tác dụng thực sự của những môi trường như vậy bằng cách nghiên cứu khảo sát đồng thời nhiều thể chế. Theo đó, nghiên cứu của chúng tôi đã có những đóng góp trước hết cho lý thuyết quản trị và sau đó cho vấn đề thu hút FDI ở các quốc gia Châu Á nói riêng. Đầu tiên, chúng tôi tổng hợp lý thuyết và nghiên cứu các ngành lân cận để xác định ba loại hình thể chế chính thức, mô tả vai trò của chúng trong xã hội và các phương pháp đo lường chúng. Thứ hai, chúng tôi liên kết các thể chế phi chính thức của các quốc gia được phản ánh trong văn hoá với ba loại hình thể chế chính thức. Thứ ba, chúng tôi chứng minh những hệ quả mà mỗi thể chế chính thức tác động đế dòng FDI của quốc gia. Tóm lại, các phương pháp đo lường và lý thuyết chúng tôi cung cấp có thể cải thiện sự hiểu biết của các học giả về vai trò mà các thể chế khác nhau thực hiện, những động lực hình thành chúng một cách riêng biệt, và những hệ lụy riêng của chúng. Hơn nữa, công trình nghiên cứu này sẽ cung cấp nền tảng cho các nghiên cứu trong tương lai về các chiến lược của doanh nghiệp và những tác động của chúng lên hiệu suất kinh doanh. 5 Hƣớng phát triển đề tài Bên cạnh những đóng góp thiết thực, đề tài không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định, đó là hạn chế khách quan trong môi trường thể chế phức tạp đa góc cạnh, cũng như hạn chế chủ quan trong việc xây dựng mô hình. Bên cạnh đó việc ghi nhận dữ liệu của nhóm theo phương pháp thủ công do đó sai sót trong khâu nhập liệu là điều khó tránh khỏi. Ngoài ra, kết quả kiểm định cho thấy có rất ít mối quan hệ giữa văn hoá với các thể chế thanh khoản thị trường, do đó cần có các kiểm định lý thuyết có ý nghĩa hơn đối với biến này. Một hướng nghiên cứu mới cho đề tài này chính là đi sâu phân tích, kiểm định sự ảnh hưởng hỗn hợp của nhiều thể chế lên sự lựa chọn của nhà quản trị các MNE; đặc biệt xem xét nguồn gốc của thể chế chính thức và phi chính thức. Thật vậy, chúng tôi thiếu những dữ liệu để hiển thị một cách rõ ràng rằng các thể chế phi chính thức là nguồn gốc của các thể chế chính thức, và các bài nghiên cứu trước đây đều yêu cầu để giải quyết vấn đề này. Greif (1994) đã kiểm tra cách thức mà nền văn hóa của hai xã hội trong thế kỷ 11 và 12 đã góp phần vào sự phát triển của các thể chế chính thức khác nhau đến chi phối kinh tế trao đổi và thực thi quyền sở hữu. Ông cho rằng các thể chế chính thức phát triển theo quỹ đạo đường cong mà được định hình từ văn hóa của xã hội. Theo thời gian, những thay đổi về thể chế lại củng cố nền văn hóa. Nói cách khác, các tiêu chuẩn và các giá trị văn hóa có thể là nền tảng cho sự phát triển của tổ chức chính thức. Từ đó có thể đưa ra các bằng chứng bao quát về mối quan hệ tồn tại giữa thể chế phi chính thức và thể chế chính thức cũng như giữa chúng lền dòng vốn FDI. Kết cấu bài nghiên cứu Bài nghiên cứu bao gồm 5 chương: Chương 1: Giới thiệu tổng quan về đề tài Chương 2: Tổng quan các nghiên cứu trước đây Chương 3: Phương pháp nghiên cứu Chương 4: Kết quả nghiên cứu Chương 5: Kết luận MỤC LỤC 1. GIỚI THIỆU .................................................................................................... 1 2. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT .......................................................................... 3 2.1. Khái niệm ............................................................................................................... 3 2.1.1. Một số thể chế chính thức ............................................................................... 4 2.1.2. Một số thể chế phi chính thức ......................................................................... 5 2.1.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ................................................................. 6 2.2. Các nghiên cứu trên thế giới và châu Á ................................................................. 7 2.3. Mối quan hệ giữa thể chế phi chính thức và thể chế chính thức tới dòng vốn FDI .............................................................................................................................. 11 2.3.1. Mối quan hệ giữa thể chế phi chính thức và dòng vốn FDI ......................... 11 2.3.2. Mối quan hệ giữa thể chế chính thức và dòng vốn FDI đổ vào. ................... 15 2.4. Thực trạng thu hút FDI của các nước Châu Á ..................................................... 19 2.4.1. Tình hình thu hút FDI của một số quốc gia Châu Á ..................................... 20 3. PHƢƠNG PHÁP VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU ....................................... 34 3.1. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 34 3.1.1. Phương pháp phân tích các nhân tố khám phá EFA (Exploratory Factor Analysis) ..................................................................................................................... 34 3.1.2. Mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên (REM) ........................................................... 39 3.2. Mô tả dữ liệu ........................................................................................................ 40 3.2.1. Phương pháp thu thập số liệu ....................................................................... 40 3.2.2. Xử lý số liệu ................................................................................................... 43 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................................ 44 4.1. Phân tích nhân tố khám phá EFA ......................................................................... 44 4.2. Mô hình hồi quy ................................................................................................... 50 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN............................................................ 57 5.1. Kết luận ................................................................................................................ 57 5.2. Đề xuất ý kiến ...................................................................................................... 59 TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................67 Phụ lục 1. Bảng mô tả biến......................................................................................1 Phụ lục 2. Bảng thống kê mô tả của các biến thể chế ...........................................4 Phụ lục 3. Bảng kết quả hệ số tải nhân tố trƣớc khi xoay ...................................5 Phụ lục 4. Ma trận hệ số tƣơng quan của các biến ...............................................6 Phụ lục 5. Ma trận hệ số nhân tố ............................................................................7 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Từ viết tắt Nghĩa tiếng Việt Gốc tiếng Anh FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài Foreign Direct Investment MNE Công ty xuyên quốc gia Multinational enterprises UNCTAD Hội nghị LHQ về thương mại và phát triển United Nations Conference on Trade and Development EFA Phân tích nhân tố khám phá Exploratory factor analyses REM mô hình các ảnh hưởng ngẫu nhiên Random Effects Model WTO Tổ chức thương mại thế giới World Trade Organization IMF Quỹ tiền tệ thế giới International Monetary Fund OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế Organization for Economic Cooperation and Development ASEAN Hiệp hội các Quốc gia Đông Association of Southeast Nam Á Asian Nations GCC Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh Gulf Cooperation Council WDI Chỉ báo phát triển thế giới World Development Indicators IEF Chỉ số về tự do kinh tế Index of Economic Freedom POLCON Chỉ số về ràng buộc chính trị Political Constraint Index PRS Dữ liệu về rủi ro chính trị Political Risk Services MLE Phương pháp ước lượng hợp lý cực đại Maximum Likelihood Estimates GDP Tổng sản phẩm nội địa Gross Domestic Product CP Chính phủ NH Ngân hàng DANH MỤC BẢNG, BIỂU Bảng 1. 10 công ty phi tài chính xuyên quốc gia lớn nhất từ các nước Châu Á đang phát triển, được xếp hạng theo tài sản nước ngoài, 2004 (Triệu USD) Bảng 2. Đông Á, Nam Á và Đông Nam Á: dòng FDI của một số nền kinh tế tiêu biểu 2008-2009 (triệu USD) Bảng 3. Dòng FDI theo vùng, 2011-2013 (tỷ USD) Bảng 4. Bảng mô tả các biến đại diện văn hóa Bảng 5. Bảng mô tả các biến kiểm soát Bảng 6. Bảng trị số Eigenvalue của các biến Bảng 7. Bảng hệ số tải nhân tố sau khi thực hiện phép quay oblique Bảng 8. Bảng tóm tắt kết quả phân tích nhân tố Bảng 8. Kết quả hồi quy: Tác động của văn hóa lên thể chế chính thức Bảng 9. Kết quả hồi quy: Tác động của văn hóa và thể chế chính thức lên dòng vốn FDI đổ vào DANH MỤC HÌNH Hình 1. Tỷ trọng trong GDP danh nghĩa thế giới Hình 2. Nam Á, Đông Á, Đông Nam Á và Châu Đại Dương: Các dòng FDI vào khu vực và tỷ trọng của chúng trong tổng nguồn vốn cố định, 1995-2005 Hình 3. Nam Á, Đông Á và Đông Nam Á: Các dòng FDI, 10 nền kinh tế hàng đầu, 2004-2005 (Tỷ USD) Hình 3. Nhóm 5 nước có dòng FDI lớn nhất Tây Á, 2007-2008 (tỷ USD) Hình 4. Nhóm 20 nước thu hút nhiều dòng vốn FDI nhất năm 2013 (tỷ USD) (so với xếp hạng năm 2012) Hình 6. Biểu đồ dốc (Scree plot) Hình 7. Sơ đồ tóm tắt tác động của thể chế phi chính thức và thể chế chính thức lên dòng vốn FDI đổ vào 1 1. GIỚI THIỆU Trong nhiều thập niên gần đây, dưới làn sóng toàn cầu hoá, dòng vốn FDI đổ vào các nước ngày càng gia tăng, tạo nên nhiều cơ hội tăng trưởng và phát triển ở các quốc gia nhận đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có sự gia tăng nhanh chóng trên toàn thế giới, từ mức trung bình hàng năm 142 tỷ USD trong những năm 1985 -1990 lên hơn 385 tỷ USD vào năm 1996, đến năm 2007, FDI đã đạt mức 1900 tỷ USD ( UNCTAD, 2009). Tuy nhiên, năm 2008, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính khiến cho dòng vốn FDI sút giảm 14% (chỉ còn 1700 tỷ USD) và 1200 tỷ USD vào năm 2009. Cho đến năm 2010, đã đánh dấu sự gia tăng trở lại của FDI toàn cầu tăng 15% so với năm 2009, FDI tiếp tục gia tăng trong năm 2011 đạt mức 1600 tỷ USD. Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp nước ngoài toàn cầu giảm xuống 18% trong năm 2012, giảm từ 1600 tỷ USD xuống còn 1300 tỷ USD và năm 2013 giữ ngang mức tương đương với năm 2012. Nguyên nhân có thể là do sự phục hồi của nền kinh tế sau khủng hoảng kéo dài hơn dự kiến và chính sách vĩ mô bất ổn. Năm 2012 cũng là năm đầu tiên ghi nhận các nước đang phát triển tiếp nhận nhiều vốn FDI hơn các nước phát triển. Trong đó, tại khu vực Châu Á tuy sụt giảm khoảng 6,7% nhưng tính chung toàn khu vực thì Châu Á chiếm 58% lượng vốn FDI vào các nước đang phát triển. Riêng tại khu vực Đông Nam Á, thu hút FDI vào Indonesia và Philippines cũng như ở các nước có thu nhập thấp như Campuchia, Myanmar và Việt Nam được cải thiện. Có thể nói, sự biến động nguồn vốn FDI lên xuống theo những thời điểm khác nhau cũng như khác biệt giữa các khu vực rõ ràng được tác động bởi nhiều yếu tố trong đó có cả những yếu tố thể chế chính thức và phi chính thức.. Vậy những nguyên nhân nào thu hút FDI và chúng có tác động như thế nào lên FDI của một số quốc gia Châu Á? Đó chính là dấu hỏi lớn cần được giải đáp. Và bài nghiên cứu hướng đến cung cấp một nền tảng lý thuyết về các thể chế phi chính thức và chính thức tác động lên dòng vốn FDI cũng như các bằng chứng thực nghiệm dựa vào mô hình phân tích các nhân tố khám phá EFA và mô hình các ảnh hưởng ngẫu nhiên (REM) với bộ dữ liệu từ 10 quốc gia Châu Á (trong đó có Việt Nam) giai đoạn từ năm 2000 – 2012. Ngoài ra chúng tôi còn đưa thêm bốn biến kiểm soát là: dân số, lao động ngành công nghiệp, vận chuyển đường sắt và chỉ số kết nối vận tải biển vào mô 2 hình nhằm làm giảm bất cứ tác động nào có thể gây nhiễu cho các nhân tố khác hoặc việc diễn giải kết quả của nghiên cứu. Phần tiếp theo sẽ trình bày về một số khái niệm, tổng quan lý thuyết cũng như bằng chứng thực nghiệm của các nghiên cứu trước đây trên thế giới và tại Việt Nam về tác động của các nhân tố lên dòng vốn FDI. Phần 3 liên quan đến phương pháp nghiên cứu và xử lí số liệu, áp dụng cho 10 quốc gia Châu Á. Phần 4 là nội dung và kết quả nghiên cứu. Kết luận và đề xuất ý kiến được trình bày ở phần 5. 3 2. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT 2.1. Khái niệm Theo quan điểm của Hodgson: thể chế là ―hệ thống những quy luật được thiết lập nhằm xây dựng nên các mối tương tác trong xã hội‖. Thể chế bao gồm: thể chế chính thức (luật và quy định) và thể chế phi chính thức (văn hoá, cách ứng xử). Vậy thể chế chính thức và thể chế phi chính thức theo quan điểm các nhà kinh tế học được định nghĩa như thế nào? Helmke và Levitsky (2004) cho rằng thể chế chính thức được công khai và hệ thống hóa, chúng được tạo lập và chấp nhận rộng rãi như những quy tắc chính thức còn các thể chế phi chính thức được xã hội tạo ra, chia sẻ và thường là bất thành văn. Bên cạnh đó, quan điểm của Ben Cousins trong tác phẩm ―How Do Rights Become Real? Formal and Informal Institutions in South Africa’s Land Reform‖ lại cho rằng: thể chế chính thức được bảo đảm bởi pháp luật, tức là thực thi các quy định bởi nhà nước, trong khi các thể chế phi chính thức được duy trì theo thỏa thuận. Như vậy, thể chế phi chính thức là hệ thống bền vững các quan niệm chung và sự hiểu biết mang tính tập thể nhưng không được hệ thống hóa thành những quy tắc và chuẩn mực, qua đó tạo nên sự gắn kết và phối hợp giữa các cá nhân trong một xã hội và phản ánh cấu trúc thực sự của xã hội đó (Scott, 2005). Đại diện cho giá trị chung và những chuẩn mực không được hệ thống như văn hoá, phong tục, tập quán… một trong những yếu tố quan trọng của thể chế phi chính thức trong một quốc gia. Văn hoá mang tính bền vững, ổn định, lâu dài, đồng thời, nó thể hiện chuẩn mực và giá trị của mỗi thành viên trong xã hội. Thể chế chính thức đại diện cho cấu trúc của các quy tắc và chuẩn mực được hệ thống hoá, góp phần định hình những hành vi đúng đắn và tạo điều kiện hình thành kì vọng cho các hành vi liên quan nhằm tạo nên sự ổn định và trật tự của xã hội. Trong khi, các thể chế phi chính thức thay đổi từng bước như văn hoá được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thì các thể chế chính thức lại thay đổi linh hoạt hơn ở chỗ chúng là sản phẩm của ý thức. Thể chế chính thức ra đời như giải pháp cho các vấn đề xã hội. Các giải pháp nằm riêng lẻ cho đến khi chúng kết tinh thành những quy tắc và chuẩn mực chính thức ảnh hưởng đến hành vi trong tương lai. Bởi vì, các cá nhân trong xã hội tuân theo các quy tắc và chuẩn mực này, nên theo thời gian chúng được thừa nhận và 4 thông lệ hoá, sản sinh ra trong những giai đoạn tiếp theo và dần dần được chấp nhận như những thể chế chính thức. Do đó, như DiMaggio (1988) lập luận, thể chế chính thức phản ánh động lực và những hành động của các thành viên trong xã hội, vì vậy, để hiểu biết được thể chế chính thức đòi hỏi phải có sựu hiểu biết logic dựa trên nền tảng từ các thể chế phi chính thức (North, 1990). 2.1.1. Một số thể chế chính thức Có 3 loại thể chế chính thức rất quan trọng đối với nhà quản trị đó là: thể chế điều tiết, thể chế chính trị và thể chế kinh tế. Như một tổng thể, ba thể chế này tạo thành và xác định trình tự trong tiến trình kinh doanh. Zucker quan điểm rằng ―các thể chế thường ở trạng thái liên kết‖, mỗi thể chế được ban hành chủ yếu bởi chính phủ nhằm kiểm soát việc tuân thủ các quy tắc. 2.1.1.1. Thể chế điều tiết Thể chế điều tiết thiết lập những quy tắc và tiêu chuẩn nhằm giảm bớt rủi ro trong hoạt động của các tổ chức. Thể chế điều tiết là nền tảng đảm bảo thực hiện và sử dụng các công cụ quản lý phù hợp (Delia Rodrigo và đồng sự). Trong một bối cảnh đa cấp, thách thức đối với hầu hết các nước là phân cấp tổ chức phải phù hợp với quyền hạn và trách nhiệm để tạo điều kiện thuận lợi khai thác sức mạnh nội sinh và giải quyết những yếu kém của từng khu vực. Bởi vì, chức năng quan trọng của chính phủ là điều tiết hoạt động của các tổ chức trong nước và nước ngoài đang hoạt động trên phạm vi lãnh thổ quốc gia. 2.1.1.2. Thể chế chính trị Thể chế chính trị xây dựng những quy tắc và tiêu chuẩn mà thông qua đó góp phần ổn định môi trường thể chế (Powell, 1991). Các thể chế chính trị là hiện thân của sự chọn lọc các thỏa thuận cụ thể như thể chế chuyên quyền – nơi mà quyền lực chỉ tập trung vào tay một vài cá nhân và cản trở sự tham gia của các công dân khác, mặt khác, các thể chế dân chủ chia sẻ quyền lực giữa nhiều cá nhân và khuyến khích sự tham gia tích cực của các công dân. Nhờ đó, mà chính phủ xác định được bản chất của tiến trình chính trị, bao gồm phân phối quyền lực trong chính phủ, nơi các cá nhân được phép tham gia vào, và cách thức để thực hiện các quyền trên. 5 2.1.1.3. Thể chế kinh tế Thể chế kinh tế là hệ thống những quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ kinh tế và hành vi sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế. Thể chế kinh tế bao gồm những quy tắc, luật lệ được chuẩn hoá và gắn với các chế tài xử lý vi phạm; cơ chế vận hành nền kinh tế cũng như các tổ chức kinh tế. Các thể chế kinh tế được thể hiện rõ ràng trong chính sách tiền tệ và tài khóa của một quốc gia (Fisher,1993) chẳng hạn như : ―Yếu tố tài chính là một phần trong quá trình tăng trưởng của một quốc gia‖ (Levine & Zervos, 1998). 2.1.2. Một số thể chế phi chính thức 2.1.2.1. Chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa cá nhân: Chủ nghĩa tập thể dùng để mô tả cách nhìn nhận về mặt đạo đức, chính trị hay xã hội mà nhấn mạnh đến sự phụ thuộc qua lại giữa con người với nhau và tầm quan trọng của tập thể chứ không phải là của từng cá nhân riêng lẻ. Về mặt triết học chủ nghĩa tập thể coi trọng cái tổng thể quan trọng hơn tổng tất cả những cái riêng lẽ. Không những thế, chủ nghĩa tập thể còn phản ánh mức độ giàu có của dân cư trong sự bình đẳng, gắn kết giữa các đơn vị trong xã hội. Chủ nghĩa tập thể định hình cách mà các thể chế thúc đẩy hoặc kìm hãm lợi ích của tổ chức, cá nhân cụ thể liên quan đến lợi ích của toàn xã hội (Gelfand, Bhawuk, Nishii, & Bechtold, 2004; Triandis, 1995). Nghĩa là vừa đảm bảo lợi ích chung nhưng vẫn phù hợp với hoàn cảnh mỗi cá nhân. Ngược lại, với chủ nghĩa tập thể là chủ nghĩa cá nhân có xu hướng coi trọng và ưu tiên sự độc lập, tự chủ của con người. Những người theo chủ nghĩa cá nhân chủ trương không hạn chế mục đích và ham muốn của mình. Họ phản đối sự can thiệp từ bên ngoài lên sự lựa chọn của mình - cho dù sự can thiệp đó là từ xã hội, nhà nước, hoặc bất kỳ một thể chế nào khác. Đặc điểm của thể chế điều tiết và thể chế chính trị phụ thuộc vào mức độ mà xã hội ưu tiên quyền lợi và sự tham gia của cá nhân vào chính phủ cũng như nhấn mạnh về lợi ích tập thể so với lợi ích cá nhân. 2.1.2.2. Định hướng tương lai. Định hướng tương lai phản ánh mức độ mà các kết quả dài hạn được nhấn mạnh hơn là các kết quả ngắn hạn như việc lập kế hoạch và đầu tư hướng trực tiếp đến kết 6 quả trong tương lai. Trong dự án GLOBE khi nghiên cứu sự khác biệt về văn hóa và tác động của chúng đến quản lý kinh doanh, các nhà nghiên cứu xác định một nền văn hóa định hướng tương lai là sự hy sinh những thoã mãn trong ngắn hạn để đạt được thành công lâu dài và thịnh vượng trong tương lai. Ví dụ như các cá nhân tổ chức từ bỏ việc chi tiêu ở hiện tại để tiết kiệm cho tương lai. Lần lượt, vốn tích luỹ cung cấp phương tiện tài chính để đầu tư vào các cơ hội tăng trưởng trong dài hạn, vì vậy định hướng tương lai có thể ảnh hưởng đến cả cung và cầu vốn, từ đó định hình các đặc điểm của thể chế kinh tế quản trị vốn (Feldstein, 1983). 2.1.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hiện tượng kinh tế mang tính quy luật và không ngừng biến đổi cả về phạm vi và quy mô. Theo Quỹ tiền tệ thế giới IMF định nghĩa: ―FDI là hình thức đầu tư ra khỏi biên giới quốc gia, trong đó người đầu tư trực tiếp đạt được một phần hay toàn bộ quyền sở hữu lâu dài một doanh nghiệp ở một quốc gia khác. Quyền sở hữu này tối thiểu phải là 10% tổng số cổ phần của doanh nghiệp‖. Còn theo định nghĩa của Tổ chức thương mại thế giới WTO thì: đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Và Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã đưa ra khái niệm: ―Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kì tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của luật này‖ (Khoản 3, Điều 2). Đến năm 1996, Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam đưa ra khái niệm đầu tư nước ngoài là ―việc các tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của luật này‖. Như vậy, Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này 7 2.2. Các nghiên cứu trên thế giới và châu Á Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một trong những nhân tố chiến lược quan trọng không thể thiếu đối với quá trình tăng trưởng kinh tế của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Trong giai đoạn phát triển hiện nay, các nền kinh tế thế giới đã khẳng định vai trò tích cực cũng như tính an toàn của nguồn vốn FDI. FDI được nhận định như một hình thức đầu tư có sức ảnh hưởng to lớn đối với các nước có thu nhập thấp, một sự đảo ngược trong dòng vốn này không chỉ tác động trực tiếp lên nhu cầu tài trợ bên ngoài, mà còn ảnh hưởng đến đầu tư và phát triển (IMF 2010). FDI ưu việt hơn so với vay nợ và đầu tư ngắn hạn - một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến khủng hoảng kinh tế tại các nước đang phát triển do tỷ lệ vay nợ ngắn hạn quá cao trong khi vốn FDI thì chỉ chiếm tỷ trọng thấp. Thập kỉ vừa qua đã chứng kiến một sự gia tăng đáng kinh ngạc của dòng FDI chảy vào các quốc gia có thu nhập thấp. Sự dấy lên của dòng vốn đầu vào được giải thích là do tính thanh khoản toàn cầu phong phú và sự gia tăng trong giá cả hàng hóa, kết hợp với nền kinh tế ngày càng phát triển cùng những cải cách ở thị trường phương Đông. Tuy nhiên, hệ quả của suy thoái tài chính toàn cầu đã làm thay đổi hoàn toàn cục diện trên. Nguồn vốn FDI thu hẹp lại đáng kể, trong khi sự căng thẳng của điều kiện tín dụng toàn cầu thì không ngừng kìm hãm khả năng tài trợ của các tổ chức đa quốc gia và làm gia tăng e ngại rủi ro. Khôi phục kinh tế ở các nước phát triển được trông chờ sẽ rất chậm chạp vì tính thanh khoản toàn cầu giảm và ít phong phú hơn trong những năm sắp tới. Cạnh tranh giữa những nước đang phát triển để thu hút dòng vốn FDI sẽ trở nên khốc liệt hơn so với những năm trước đó. Vấn đề được đặt ra là làm thế nào để có thể thu hút FDI ở các nước đang phát triển, mới nổi và cả những nước phát triển? Phải chăng là những thay đổi trong pháp luật hoặc những yếu tố về kinh tế, chính trị sẽ tạo điều kiện hấp dẫn FDI hơn? Để trả lời các câu hỏi đó, nhiều bài nghiên cứu và phân tích đã được các chuyên gia tài chính cũng như các tổ chức kinh tế thế giới lớn như World Bank, IMF đề xuất. Hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới đều cho thấy rằng không chỉ những nhân tố kinh tế vĩ mô như lạm phát, lãi suất, dự trữ ròng…tác động đến FDI mà còn cả những yếu tố về thể chế chính trị như tham nhũng, tự do dân chủ và những yếu tố liên quan đến thể 8 chế điều tiết như môi trường đầu tư, chính sách của chính phủ, các rào cản xuất nhập khẩu…tất cả đều dẫn truyền mạnh mẽ đến dòng vốn FDI đổ vào theo những cách khác nhau.. Trước hết là những nghiên cứu thực nghiệm cho thấy tác động của thể chế kinh tế tới FDI. Luosha Du (2011) đã sử dụng bộ dữ liệu từ 1998-2007 gồm các công ty có nguồn lực tài chính giàu có và phát hiện ra cách thức mà các thể chế kinh tế ảnh hưởng đến độ lớn và hướng di chuyển của dòng vốn FDI. Cụ thể hơn, thuế là một yếu tố có mức độ ưu tiên cao đối với những tập đoàn đa quốc gia, và trong nhiều trường hợp nó cũng được xem như là một công cụ kinh tế để thu hút FDI (Agostini 2007, Hines 1996). Cùng quan điểm các yếu tố của thể chế kinh tế có tác động truyền dẫn tới dòng FDI, Belay Seyoum (2011) đã sử dụng phương pháp hồi quy OLS với mẫu của 119 nước trên các khu vực đia lý khác nhau, để đi đến kết luận FDI không chỉ được xác định bởi các biến thông thường như nguồn tài nguyên, trình độ lao động hay cơ sở hạ tầng của nước tiếp nhận đầu tư mà nó còn phụ thuộc vào biến rất quan trọng là các thể chế kinh tế trong việc thu hút dòng chảy đầu tư. Hoặc tác động của yếu tố lãi suất đến FDI cũng là cả 1 câu chuyện dài đầy thú vị. World Bank (2010) với một bài nghiên cứu gần đây cho giai đoạn 2003-2007 đã nhận thấy rằng khi lãi suất trên toàn cầu giảm xuống sẽ dẫn tới hệ quả chi phí đi vay thấp hơn, điều này đóng góp không nhỏ cho việc tăng thêm 70% nguồn vốn chảy vào các nước đang phát triển, đặc biết là nguồn vốn FDI. Đồng quan điểm này, Levy, Yeyati, Ugo Panizza (2007) đã nghiên cứu tác động của chu kỳ kinh tế (business cycle) và lãi suất (rate of return) ở những nước phát triển (đặc biệt là các nước trong khối OECD) ảnh hưởng như thế nào đến dòng FDI vào các nước đang phát triển. Sau khi tổng hợp các dòng FDI từ 3 nguồn lớn (Mỹ, châu Âu và Nhật Bản), bài nghiên cứu chỉ ra rằng dòng FDI có xu hướng ngược chiều đối với ―output‖ và chu kỳ lãi suất ở trường hợp của Mỹ và châu Âu, trong khi đó ở Nhật Bản tác động này lại không rõ hay chúng chỉ có ảnh hưởng không đáng kể đến dòng chảy vốn FDI. Albuquerque et al. (2005) cũng cho thấy một mức tăng trong lãi suất ở các nước phát triển sẽ dẫn đến mối tương quan âm và có ý nghĩa thống kê đối với dòng vốn FDI chảy vào các nước đang phát triển. Kết luận ở trường hợp của Mỹ và Châu Âu là hoàn toàn phù hợp giữa mối quan hệ kinh tế ngược chiều của mức độ đầu tư trong nước (local investment) và ―dòng vốn 9 FDI‖ – phản ánh khả năng thực hiện hành vi kinh doanh chênh lệch lãi suất- arbitrage của nhà đầu tư khi đứng trước các cơ hội tìm kiếm lợi nhuận. Song yếu tố thể chế chính trị cũng có những tác động đáng kể trong việc thu hút dòng FDI đổ vào. Salter và Niswander (1995) dựa trên dữ liệu 29 nước, kết hợp với mô hình Gray 1988 tìm thấy rằng yếu tố về tôn giáo của một quốc gia có những tác động đáng kể đến dòng vốn FDI. Một cách tổng quát, các nước có sự điều hành tốt của chính phủ có xu hướng thu hút nhiều FDI hơn bởi vì nếu điều hành không tốt thì việc đầu tư sẽ không được bảo hộ (Globerman & Shapiro, 2003) và việc điều hành yếu kém sẽ làm tăng chi phí và sự bất ổn (Cuervo-Cazurra, 2008). Thông qua một số câu hỏi khảo sát 52 Giám đốc điều hành của các công ty đa quốc gia đang hoạt động tại Thổ Nhĩ Kỳ trong năm 2006, Devrim Dumludag (2009) kết luận các yếu tố như các thể chế, ổn định kinh tế - xã hội là nhân tố giải thích hành vi của dòng vốn FDI ở quốc gia này. Tại Nga, Mats Nilsson và Patrik Soderholm (2002) khảo sát 32 công ty lâm nghiệp ở Tây Âu có ảnh hưởng, kết quả cho thấy mặc dù Nga có tài nguyên rừng rộng lớn nhưng một số yếu tố về thể chế và hệ thống pháp luật không rõ ràng làm họ dè dặt trong đầu tư. Kostova và Roth (2002) dựa trên bộ dữ liệu gồm 104 công ty con trên 10 quốc gia khác nhau để đưa ra hai tiêu chí mà các công ty đa quốc gia sẽ xem xét khi đầu tư vào một quốc gia nào đó là: chính sách thể chế của quốc gia này và mối quan hệ giữa công ty đa quốc gia với quốc gia tiếp nhận vốn đầu tư. Nghiên cứu của Zulkefly Abdul Karim (2011) hồi quy bằng mô hình ARDL trên mẫu dữ liệu từ năm 1984 đến 2009 của Malaysia cho rằng việc cung cấp và duy trì chính sách đầu tư tốt là một đóng góp tích cực trong thu hút FDI giúp tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, một vài phân tích cũng cho rằng sự điều hành tốt của chính phủ cũng giúp thu hút FDI (Shleifer &Vishny, 1998; World Bank, 2002;Globerman & Shapiro, 2002; Globerman & Shapiro, 2003; Globerman et al, 2004; La Porta et al, 1997, 1998; Gani, 2007). Đồng thời, một chính sách vĩ mô đúng đắn có thể tạo ra một sự kích thích chung cho hiệu ứng lan tỏa FDI đến đầu tư nội địa thông qua việc tăng sản phẩm biên của những cuộc đầu tư mới và tạo ra môi trường khả dụng cho quá trình truyền bá công nghệ (Mody và Murshid, 2005). FDI chỉ có tác động lên tăng trưởng khi các nước có lạm phát thấp – ngụ ý sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô (Norris, Honda, Amina và Verdier 2010). Tiếp đến, nhiều nghiên cứu đã chứng minh việc bảo hộ quyền sở hữu yếu kém ở các nước nghèo ngụ ý rằng đầu tư nước ngoài có thể không trực tiếp vào các dự án thu 10 hồi vốn lâu, hay tỉ suất sinh lợi ban đầu thấp mà những dòng đầu tư như vậy có thể hữu ích đối với các nước gặp khó khăn về tài chính (Rajan and Zingales, 1998). Chất lượng cơ quan nhà nước kém có thể giới hạn tác động qua lại giữa các công ty nước ngoài và trong nước trong việc thuê mướn lao động. Do đó làm giảm tác động gián tiếp của FDI (Antras, 2003). Norris, Honda, Amina và Verdier (2010) cũng đồng tình với mối quan hệ này giữa FDI và chất lượng định chế nhà nước. Tài liệu về các yếu tố của thể chế điều tiết tác động đến FDI tranh luận rất nhiều về vấn đề tham nhũng, theo đó, chỉ ra rằng các công ty đa quốc gia (MNEs) chịu ảnh hưởng rất lớn từ vấn đề tham nhũng. Một số nghiên cứu cho rằng tham nhũng ngăn cản FDI vì điều này phản ánh việc điều hành yếu kém của chính phủ, tính không minh bạch, làm tăng chi đối với các công ty nước ngoài như việc hối lộ để lộ trình đăng ký kinh doanh, thủ tục giấy tờ thuận lợi hơn… Đặc biệt, hiện tượng tham nhũng là trầm trọng ở các nước quá độ và có rất nhiều tác giả cho rằng sự xuất hiện có nó chính là rào cản nghiêm trọng nhất cho FDI (Resmini 2000, Hellman, Jones and Kaufmann 2002, Bevan and Estrin 2004,Caetano 2005). Nhìn chung, những bài, chưa có được sự đồng lòng trong nghiên cứu giữa các tác giả cũng như thiếu tính xây dựng về mặt nội dung. Có những phân tích thực nghiệm chỉ kiểm tra đại khái trên một số ít quốc gia, chưa có tính đại diện cao về mặt tổng thể. Song những bài nghiên cứu nghiên cứu trên chỉ đơn thuần tập trung đi sâu phân tích vào những vấn đề cụ thể, những vấn đề rất riêng về một khía cạnh nào đó chưa mang tính bao quát. Và nghiên cứu của R. Michael Holmes, Jr., Toyah Miller, Michael A. Hitt and M. Paz Salmador (2011) được đánh giá cao khi khái quát được những thể chế khác nhau tác động đến FDI trên mẫu 50 quốc gia được chọn bởi chúng không đồng nhất về mặt địa lí và kinh tế. Các quốc gia này gồm 21 nước ở châu Âu, 15 nước ở châu Á, 9 nước ở phía Bắc, Nam, hoặc Trung tâm của nước Mỹ, 3 nước ở châu Phi và 2 nước trên lục địa của Úc, đã cung cấp mẫu gồm nhiều định chế và văn hóa đa dạng, phong phú. Ngoài các nước phát triển, mẫu dữ liệu cũng bao gồm một số nền kinh tế mới nổi, như Brazil, Nga, Ấn độ, và Trung Quốc (được gọi chung là nước BRIC; O’Neill, 2001), và một vài nước đang phát triển nhưng chậm hơn gồm Nigeria, Slovenia, và Romania. Sử dụng tổng cộng có 450 quan sát quốc gia-năm (nghĩa là dữ liệu có 9 năm) bài nghiên cứu tiến hành phương pháp đo lường mới và hồi quy dữ liệu bảng cho ba loại hình thể chế chính thức quan trọng, giữ vai trò khác nhau đối với thu
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan