Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Đại cương đề tài nckh đường lối công nghiệp hóa của đảng cộng sản việt nam và sự nghiệp th...

Tài liệu đề tài nckh đường lối công nghiệp hóa của đảng cộng sản việt nam và sự nghiệp thực hiện đường lối cnh hđh của sinh viên đại học bách khoa hà nội

.DOCX
47
366
55

Mô tả:

đề tài nckh đường lối công nghiệp hóa của đảng cộng sản việt nam và sự nghiệp thực hiện đường lối cnh hđh của sinh viên đại học bách khoa hà nội
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ------------------ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC: ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓA CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ SỰ NGHIỆP THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI CNH-HĐH CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI GV HƯỚNG DẪN: TH.S NGUYỄN THỊ HUYỀN SINH VIÊN THỰC MSSV HIỆN NGUYỄN KHẮC QUÝ HÀ XUÂN THUYÊN NGUYỄN CHÍ CƯỜNG 201112020 201112302 20111222 LỚP CNTT-TT 2.4- K46 CNTT-TT 2.2- K56 ĐT-VT 09- K56 Hà Nội, tháng 4 năm 2013 Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa của Đảng MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 3 1.Lý do chọn đề t ài 3 2. Tình hình nghiên cứu 5 3. Mục đích nghiên cứu 6 5. Phương pháp luận nghiên cứu 6 6. Đóng góp của đề tài 6 7. Kết cấu của đề tài : 6 Đề tài gồm 2 chương và 7 mục. 6 CHƯƠNG 1: ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 7 1.1. Khái niệm về công nghiệp hóa - hiện đại hóa 7 1.2. Đường lối công nghiệp hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam 8 1.3. Công nghiệp hóa- hiện đại hóa gắn liền với nền kinh tế tri thức 18 1.4. Kết quả, ý nghĩa, hạn chế của đường lối CNH-HĐH nước ta hiện nay 31 CHƯƠNG 2: SINH VIÊN ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI VỚI VIỆC NGHIÊN CỨU HỌC TẬP ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA 35 2.1.Vị trí, vai trò của sinh viên Việt Nam 35 2.2. Tình hình tìm hiểu đường lối cách mạng của Đảng, cơ hội và thách thức trong công cuộc phát triển 37 2.3. Về nhận thức chính trị, tính tích cực xã hội, lối sống của sinh viên 40 2.4 Sinh viên Đại học Bách Khoa Hà Nội phấn đấu trở thành nguồn nhân lực chất lượng cao trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước 41 KẾT LUẬN 45 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 46 THUẬT NGỮ VIẾT TẮT 47 -2- Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa của Đảng PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đất nước ta đang trên đà công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, với tiến trình mục tiêu thoát ra khỏi trong những nước kém phát triển, trở thành một nước công nghiệp hiện đại trước năm 2020. Do đó việc xác định đường lối tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa của Đảng là việc hết sức quan trọng, bởi đó là động lực phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện tăng cường củng cố an ninh - quốc phòng và là tiền đề cho việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, đủ sức tham gia một cách có hiệu quả vào sự phân công và hợp tác quốc tế. Trước đây, nước Anh thực hiện CNH (công nghiệp hóa) đầu tiên, phải mất 120 năm; nước Mỹ đi sau, chỉ mất 90 năm; sau nữa là Nhật Bản xuống còn 70 năm; và các nước công nghiệp mới (NICs) có hơn 30 năm. Việt Nam thực thực quá trình này trong bối cảnh loài người đang bắt đầu chuyển sang phát triển kinh tế tri thức, với sự bùng nổ của tự động hóa, công nghệ thông tin, công nghệ gen, công nghệ nano, công nghệ vật liệu mới… đúng như tiên đoán của -3- Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa của Đảng C. Mác và Ph. Ăng - ghen từ giữa thế kỷ XIX: “Tri thức sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp’’. Đây chính là cơ hội lịch sử hiếm hoi mà thời đại tạo ra để các nước đi sau như Việt Nam rút ngắn khoảng cách và đuổi kịp các nước đi trước. Việc chuyển nền kinh nước ta sang hướng phát triển dựa vào tri thức trở thành yêu cầu cấp thiết không thể trì hoãn. Ở đại hội X của Đảng đã chỉ rõ: “chúng ta tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hôi chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Quan niệm chủ trương đẩy mạnh CNH-HĐH (công nghiệp hóa- hiện đại hóa) gắn với phát triển kinh tế tri thức là bước phát triển mới trong nhận thức hết sức đúng đắn của Đảng ta, hiểu rõ và nhận thức được tầm quan trọng của việc này, cũng vừa là tầng lớp sinh viên trí thức – nguồn nhân lực chính định đoạt tương lai, vận mệnh của đất nước sau này, để hiểu rõ hơn đường lối công nghiệp của Đảng cũng như chia sẻ với toàn bộ thanh niênsinh viên về nhiệm vụ cũng như trách nhiệm của mình trong tiến trình phát triển đất nước, nhóm sinh viên chúng em đã quyết định chọn đề tài: “Đường lối công nghiệp hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam và việc nghiên cứu, học tập đường lối công nghiệp hóa của sinh viên Đại học Bách khoa Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu của nhóm mình. Để có cơ hội này, chúng em xin được cảm ơn giảng viên, Ths. Nguyễn Thị Huyền đã tạo điều kiện, hướng dẫn và cho phép chúng em cơ hội tìm hiểu và thực hiện đề tài. Cuối cùng, mặc dù đề tài đã được chúng em chuẩn bị sử dụng hết khả năng của mình để tìm hiểu, nghiên cứu, thực hiện song chúng em biết đề tài của mình không tránh khỏi có điểm thiếu xót nên rất mong bên phía các quý -4- Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa của Đảng thầy, cô giáo cũng như bạn đọc xem xét và góp ý kiến để chúng em có thể rút kinh nghiệm, hoàn chỉnh đề tài hơn nữa. Chúng em xin chân thành cám ơn! 2. Tình hình nghiên cứu Việt Nam tiến hành đường lối công nghiệp hóa bắt đầu từ đại hội III năm 1960 từ đó đến nay công nghiệp hóa là một đề tài được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu tiêu biểu như: 1. Đặng Phong (2009), Tư duy kinh tế Việt Nam (1975 -1989), Nhà xuất bản Tri thức, Hà Nội. 2. Nguyễn Xuyến (2007), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Quy Nhơn. 3. Trần Thị Chúc (2010), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa: thực trạng và giải pháp, Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Các đề tài trên đã đề cập đến nhiều nội dung như, trong đó vấn đề luôn được nêu ra là vấn đề công nghiệp hóa hiện đại hóa? Vậy công nghiệp hóa- hiện đại hóa là gì? Tính tất yếu phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. Thực trạng quá trình công nghiệp hóa những năm trước đổi mới… Tuy vấn đề CNH-HĐH đã được nghiên cứu và công bố rộng rãi, đã và đang thực hiện nhiều năm nay song vấn đề:“Đường lối công nghiệp hóa của Đảng cộng sản Việt Nam và việc nghiên cứu học tập đường lối công nghiệp hóa của sinh viên Đại học Bách khoa Hà Nội” vẫn là một đề tài hết sức cần thiết giúp cho chúng em có thể vận dụng những kiến thức của môn học vào công việc và cuộc sống sau này. Chính vì lý do đó mà nhóm chúng em vẫn quyết định chọn đề tài này để làm đề tài NCKH của mình. -5- Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa của Đảng 3. Mục đích nghiên cứu Khái quát hóa đường lối công nghiệp hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam từ đó đưa ra những giải pháp cụ thể giúp cho sinh viện Đại học Bách khoa Hà Nội có phương pháp học tập hiệu quả nội dung này. 4. Đối tượng nghiên cứu Đường lối công nghiệp hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam từ Đại hội VI năm 1986 đến nay. 5. Phương pháp luận nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, logic, lịch sử và các phương pháp chung của khoa học xã hội. 6. Đóng góp của đề tài Đề tài giúp sinh có cái nhìn tổng quát và logic về vấn đề công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam. Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên về vẫn đề công nghiệp hóa. 7. Kết cấu của đề tài : Đề tài gồm 2 chương và 7 mục. CHƯƠNG 1: ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM -6- Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa của Đảng 1.1. Khái niệm về công nghiệp hóa - hiện đại hóa Vào thế kỷ XVII, XVIII, khi cuộc cách mạng công nghiệp được tiến hành ở Tây Âu, công nghiệp hóa được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Nhưng theo dòng thời gian, khái niệm công nghiệp hóa luôn có sự thay đổi cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, của khoa học công nghệ, điều đó chứng tỏ rằng: khái niệm công nghiệp hóa mang tính lịch sử trải qua một thời gian dài. Dựa trên việc kế thừa có chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại và rút kinh nghiệm trong lịch sử tiến hành công nghiệp hóa, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ bẩy khoá VI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII(tháng 11994) Đảng Cộng Sản Việt Nam xác định: “Công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các nền hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế- xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học- công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao. “ Như vậy, công nghiệp hóa theo tư tưởng mới là không bó hẹp trong phạm vi trình độ các lực lượng sản xuất đơn thuần, kỹ thuật đơn thuần để chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khí như trước đây mà bao hàm cả về các hoạt động sản xuất kinh doanh, cả về ngành dịch vụ và quản lí kinh tế- xã hội, được sử dụng bằng các phương tiện và các phương pháp tiên tiến hiện đại cùng với kỹ thuật và công nghệ cao. Bên cạnh đó, quá trình công nghiệp hóa còn cần phải hoàn thiện cơ cấu tổ chức và vận hành xã hội, nâng cao chất lượng sống của người dân trong cả nước, tích cực xoá đói giảm nghèo, phấn đấu tăng mức thu nhập bình quân đầu người cả nước. -7- Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa của Đảng 1.2. Đường lối công nghiệp hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam Đại hội lần V(T3-1982) của Đảng xác định trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ là lấy nông nghiệp làm đầu, ra sức phát triển công nghệ sản xuất hàng tiêu dung; xây dựng và phát triển công nghiệp nặng trong giai đoạn này có mức độ, vừa sức thiết thực, có hiệu quả trong nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đại hội V coi đó là nội dung chính của công nghiệp hóa trước mắt. Đây là sự điều chỉnh đúng đắn đến mục tiêu và bước đi của CNH. Tiếc rằng, việc làm của chúng ta đã không đúng với thực tế gây kết quả nghiêm trọng. Kế thừa tinh thần Ðại hội V, nêu cao ý thức nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật, Ðại hội VI của Ðảng (12-1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện, theo đó trên lĩnh vực kinh tế đã nhấn mạnh tập trung vào ba chương trình: sản xuất lương thực, thực phẩm; sản xuất hàng tiêu dùng; sản xuất hàng xuất khẩu, coi đó là nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên, là những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo. Từ đó kéo dài khoảng 10 năm, chúng ta ít nói tới công nghiệp hóa, trên thực tế sự lãnh đạo của Ðảng và sự quản lý, điều hành của Nhà nước đã tập trung vào ba chương trình kinh tế đó, nhằm đưa đất nước thoát khỏi khó khăn. Bắt đầu từ Ðại hội VIII chúng ta nói công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa cho phù hợp với thời đại cách mạng khoa học và công nghệ đang tiến như vũ bão. Và trong điều kiện mới, khi khoa học và công nghệ có những thay đổi phi thường hàng ngày hàng giờ, khi phát sinh xu hướng toàn cầu hóa kinh tế, khi hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu khách quan thì chúng ta có những cơ hội mới xen lẫn với cả những thách thức mới, đều to lớn chưa từng thấy. Trong bối cảnh ấy, tận dụng lợi thế của nước đi sau, chúng ta có -8- Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa của Đảng thể tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn thời gian hơn so với những nước đi trước khác, nhờ tranh thủ những kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, hiện đại nhất; đó là lợi thế ta tận dụng nhưng đồng thời ta cũng phải luôn luôn tự cảnh báo về khả năng biến thành bãi thải công nghiệp và lệ thuộc vào nước ngoài. Ở đây, lãnh đạo và tổ chức thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải có một trình độ kinh tế chính trị sâu sắc, bảo đảm kinh tế bao giờ cũng là cơ sở của chính trị, chính trị là thượng tầng kiến trúc vừa phản ánh kinh tế lại vừa chi phối, hướng dẫn kinh tế, để cuối cùng mục tiêu chung vẫn là công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiệu quả nhất. Trong các Báo cáo chính trị, các chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 10 năm cũng như 5 năm, thì các Ðại hội IX, Ðại hội X của Ðảng đã quan tâm đến xây dựng và phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp phần mềm, nhìn nhận kinh tế tri thức là xu thế mới của đời sống kinh tế thế giới. Đại hội X xác định mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức để đưa nước ta ra khỏi các nước kém phát triển; tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Báo cáo Chính trị tại Ðại hội IX đã đề cập đến một vấn đề cốt lõi của công nghiệp hóa, đó là “Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để trang bị cho các ngành kinh tế và quốc phòng”. Báo cáo phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010 tại Ðại hội X thì ghi: “Phát triển đồng bộ công nghiệp chế biến, chế tác, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng, công nghiệp quốc phòng, góp phần xây dựng nền tảng cho một nước công nghiệp và nâng cao khả năng tự chủ của nền kinh tế. Xây dựng và thực hiện -9- Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa của Đảng tốt chương trình phát triển công nghiệp phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.” Ðó đều là những phương hướng tốt, tuy nhiên thực tiễn đang đặt ra rằng cần phải nhận thức tốt hơn nữa, điều hành tốt hơn nữa để thể hiện vai trò quyết định của sản xuất tư liệu sản xuất, trước hết là phải quan tâm xây dựng và phát triển ngành cơ khí (cơ khí nặng, cơ khí chính xác, cơ điện tử, ngành luyện kim, hóa chất… ), đồng thời quan tâm đến phát triển công nghệ thông tin (công nghệ phần mềm…), kỹ thuật số, kỹ thuật mạng… trang bị cho cả nền kinh tế quốc dân và quốc phòng. Không thể phủ nhận một thành tựu hiển nhiên của 20 năm đổi mới là công nghiệp nước nhà có bước phát triển mạnh mẽ, chiếm hơn 40% GDP, nông nghiệp chỉ còn chiếm 20% GDP, lao động trong nông nghiệp chỉ còn khoảng 60% tổng lao động xã hội. Tuy nhiên, cần nghiêm khắc nhận ra rằng tỷ trọng công nghiệp gia công còn lớn, phần lớn thiết bị, máy móc, nguyên liệu phải nhập từ bên ngoài, công nghiệp phụ trợ lại yếu kém nên giá trị gia tăng trong công nghiệp còn thấp và thiếu bền vững. Ðiện lực tăng lên, nhưng sản xuất thép thì quá nhỏ bé so với nhu cầu, những hóa chất cơ bản thì cơ bản là nhập khẩu, ngành cơ khí sa sút nghiêm trọng. Hàng tiêu dùng nước ta hiện nay rất phong phú, nhưng yếu tố nước ngoài chiếm phần chủ yếu. Việc thực thi lao động ở nước ta còn vất vả, nặng nhọc, gần như cơ bản vẫn dẫm chân tại chỗ ở trình độ thủ công.Chúng ta cũng có những lo lắng chính đáng về công nghiệp quốc phòng, làm sao cho luôn luôn tương xứng với yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới.Cần suy ngẫm, nâng tầm tư duy về đường lối, quan điểm trong phát triển công nghiệp, trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà. Tình hình hiện nay: máy cho sản xuất, máy cho tiêu dùng, máy lớn, máy nhỏ đều phụ thuộc vào nước ngoài, hằng năm phải nhập hàng tỷ đô-la, - 10 - Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa của Đảng đây là cái yếu cơ bản của nền kinh tế ở nước ta. Cho nên, sắp tới phải tập trung sức khắc phục yếu kém đó và đấy cũng là thực hiện tốt tư tưởng Hồ Chí Minh: “Một nước độc lập, ắt phải có công nghiệp nặng” (Hồ Chí Minh toàn tập, quyển 7, trang 208). Làm được như vậy là chúng ta vừa bảo đảm phát triển nền kinh tế quốc dân, vừa bảo đảm độc lập tự chủ vừa có cơ sở nâng cao căn bản và vững chắc đời sống nhân dân. Xét theo góc độ lợi ích của xã hội thì con đường phát triển công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa ở nước ta, về thực chất là đụng chạm tới quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng. Nếu chỉ nhằm lợi ích trước mắt, tiêu dùng quá mức nền kinh tế cho phép, thậm chí biến thành một “xã hội tiêu dùng”, thì đó là một xã hội không còn triển vọng tương lai, mất cả kinh tế mất cả văn hóa, sớm muộn cũng mất độc lập tự chủ, tự đánh mất mình. Còn lãng phí, thì phải lên án đó là tội ác (lãng phí tài nguyên, lãng phí thời gian, lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng…), vì nó tốn tiền của một cách vô ích, chẳng nhằm vào tiêu dùng cá nhân và cũng chẳng nhằm vào tiêu dùng sản xuất. Ngược lại, nếu chỉ nhằm lợi ích lâu dài, tích lũy quá cao, không chú ý tới đời sống trước mắt của nhân dân, thì sẽ mất động lực phát triển kinh tế, thậm chí mất cả nguồn để tích lũy. Còn tham nhũng, bòn rút ngân sách Nhà nước, là chống lại cả tích lũy và tiêu dùng của nhân dân, rút cuộc chống lại sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.Tóm lại, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng, đấu tranh có hiệu quả với các lực cản của cả tích lũy và tiêu dùng, là một cơ sở quan trọng để thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Nông nghiệp tuy có vai trò to lớn, đặc biệt tạo ra đủ lương thực là một tiền đề quan trọng để đẩy mạnh công nghiệp hóa, nhưng vẫn không thể là nguồn tích lũy chủ yếu. Kinh nghiệm thế giới cho thấy một khi đã có công - 11 - Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa của Đảng nghiệp nặng thì nguồn tích lũy chủ yếu cho công nghiệp hóa chính là bản thân công nghiệp, mà trước hết và to lớn hơn hết lại là từ công nghiệp nặng. Chính công nghiệp nặng cung cấp các thiết bị, công cụ, tạo điều kiện cho lao động và nâng cao năng suất lao động khắp các ngành kinh tế quốc dân, từ sản xuất đến dịch vụ, từ đó tạo nên lợi nhuận – nguồn của mọi tích lũy. Trong điều kiện ngày nay, khi “công nghiệp phần mềm”, “kỹ thuật số”, “kỹ thuật mạng”… đóng vai trò quan trọng, kể cả trong đời sống hằng ngày và tích lũy cho phát triển tương lai thì công nghiệp nặng cũng tạo ra “phần cứng” để chuyển tải “phần mềm” và “số hóa” đó. Nói cách khách, chính công nghiệp nặng là nguồn sâu xa tạo ra tích lũy của toàn xã hội, cái lãi của công nghiệp nặng phải được tính theo hiệu quả kinh tế toàn xã hội. Ngoài ra, bản thân công nghiệp nặng cũng trực tiếp tạo ra tích lũy. Ở nước ta, từ hàng chục năm nay, nhất là trong vài năm gần đây cũng cho thấy một số các ngành như dầu khí, luyện kim… không những là nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước, mà theo đó còn là những nguồn tích lũy quan trọng nhất để công nghiệp hóa nước nhà. Dĩ nhiên, không thể xem nhẹ vai trò của những ngành công nghiệp nhẹ hay nông, lâm ngư nghiệp và dịch vụ trong vấn đề này. Những mặt hàng được phát triển đúng tiềm năng và lợi thế cũng có thể đóng góp to lớn cho nguồn tích lũy, chẳng hạn trong mấy năm nay các ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, da giày, giấy, chế biến nông lâm thủy sản, dịch vụ, du lịch… vẫn luôn có những đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà nước và theo đó cho tích lũy quốc gia, song tác dụng quan trọng nhất của nó phải kể đến tạo được nhiều việc làm cho người lao động. Nhà nước đóng vai trò quyết định tổ chức tích lũy và định hướng sử dụng tích lũy cho đầu tư phát triển có hiệu quả nhất. Một mặt, Nhà nước phải thực hiện cả việc thu ngân sách và phân phối chi ngân sách thật tốt. - 12 - Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa của Đảng Nguồn thu ngân sách phát triển bao giờ cũng là cơ sở để phát triển chi ngân sách, tăng khả năng tích lũy của Nhà nước dành cho đầu tư phát triển. Chi ngân sách tốt là phải quán triệt đường lối chính trị và kinh tế của Ðảng và Nhà nước, góp phần tích cực phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân. Mặt khác, Nhà nước giữa vai trò quyết định trong khuyến khích, định hướng cho các doanh nghiệp và dân cư trong việc phân phối tổng sản phẩm làm ra, cân bằng quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng, chú ý tiết kiệm tiêu dùng để đầu tư cho phát triển. Trải qua 20 năm đổi mới, xuất phát từ chỗ chưa có tích lũy, ngày nay chúng ta đã nâng mức tích lũy cho đầu từ phát triển của toàn xã hội lên 31% GDP.Ðây chính là một nguồn lực chủ yếu và quan trọng nhất để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà. Tiết kiệm vốn là một quy luật kinh tế - quy luật số 1 của sản xuất xã hội như Mác nói. Ðối với nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa thì tiết kiệm càng là quy luật thép.Tiết kiệm phải là một quốc sách hàng đầu để đầu tư cho phát triển kinh tế. Phải tiết kiệm trong sản xuất và tiết kiệm trong tiêu dùng, tiết kiệm sức người, sức của, đặc biệt sử dụng đất đai tài nguyên (một loại tư liệu sản xuất quý giá nhất nhưng lại không thể sinh sôi, nảy nở), một cách tiết kiệm và hiệu quả nhất như ông cha ta vẫn thường nói “tấc đất tấc vàng”. Người người tiết kiệm, nhà nhà tiết kiệm, cả nước tiết kiệm, vì hôm nay và một tương lai bền vững. Phải tính toán kỹ, thực hành tiết kiệm trong từng chuyến thăm nước ngoài, trong từng dự án, từng công trình, tránh những công trình có tính hình thức, kém hiệu quả thiết thực. Phải tránh tệ những điều như: phô trương hình thức, tốn kém nhiều tiền của mà hiệu quả thấp trong nhiều những hội nghị, nhiều kỳ họp, nhiều lễ hội… Cần phát động một phong trào thi đua yêu nước rộng lớn: cần kiệm để công nghiệp hóa, xây dựng nước nhà, mưu cầu hạnh - 13 - Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa của Đảng phúc cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy, làm cho công nghiệp hóa là một sự nghiệp cách mạng. Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.Nó đòi hỏi đường lối quan điểm và cả bước đi, cách làm đúng đắn.Thắng lợi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ quyết định thắng lợi của thời kỳ quá độ.Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa vừa mang tính nhân dân vừa mang tính Ðảng sâu sắc, là một sự nghiệp cách mạng rất vẻ vang của Ðảng, Nhà nước và nhân dân ta. Trước đó, từ đại hội X của Đảng đã chỉ rõ: Nước ta cần đẩy mạnh công nghiệp hóa. Và Công Nghiệp hóa gắn với Hiện Đại hóa. Nhưng trong thời đại ngày nay, khi mà mức sống vật chất và tinh thần cao.Thì việc hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức sẽ sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Những quan điểm này được hội nghị lần thứ bảy, Ban chấp hành Trung Ương khóa VII nêu ra và được phát triển, bổ sung qua các đại hội VIII, IX, X của Đảng. Dưới đây là khái quát những quan điểm cơ bản về đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa của Đảng ta hiện nay: Một là, CNH gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Chúng ta có lợi thế của các nước đi sau không cần phải trải qua tuần tự từ kinh tế nông nghiệp lên công nghiệp rồi mới sang kinh tế tri thức. Khi đó công nghiệp hóa được biểu hiện là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc, thay thế bởi công nghệ vận hành. Bên cạnh đó xu thế hội nhập và tác động của quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với đất nước. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã tác động sâu rộng tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. - 14 - Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa của Đảng Vì vây, để hiện đại hoá, các nước Tây Âu đã tiến hành công nghiệp hóa từ lâu.Đại hội X của Đảng xác định rất rõ mục tiêu công nghiệp hoá, phát triển bền vững lực lượng sản xuất, lực lượng quốc phòng-an ninh. Ở đại hội Đảng X đã nhận định: “khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Quan điểm công nghiệp hoá-hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức.” Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh đó, xu thế hội nhập và tác động của quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với đất nước ta. Trong bối cảnh đó, đất nước ta có thể rút ngắn thời gian khi biết lựa chọn con đường phát triển kết hợp CNH với HĐH và sử dụng ưu thế của một nước đến sau được sử dụng thành tựu của kinh tế tri thức của các nước khác trên thế giới. Hai là, CNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế. CNH nâng cao chất lượng cuộc sống, quy mô thế nào, công nghiệp hóa, tất yếu phải hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, những ngành kinh tế có tác động to lớn tới sự phát triển là những ngành dựa vào tri thức. Hạn chế đầu tư tràn lan, nhiều thành phần, trong đó thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Do đó,ở đâu công nghiệp hoá, hiện đại hóa được tiền hành trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,sai mục đích. HĐH đất nước, kém hiệu quả và lãng phí thất thoát còn ở thời kỳ đổi mới được thực hiện chủ yếu bằng cơ chế thị trường. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Thu hút công nghệ hiện đại. Bởi vì khi đầu tư vào lĩnh vực nào.HĐH nền kinh tế nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế. Ví dụ như: - 15 - Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa của Đảng công nghệ thông tin,công nghệ sản xuất, khai thác theo thị trường kinh tế tri thức. Hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Ở thời kỳ trước đổi mới phương thức phân bổ nguồn lực để CNH được thực hiện bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung.Phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, công nghiệp, công nghệ gì đều đòi hỏi phải tính toán cân nhắc kỹ càng, HĐH gắn với phát triển kinh tế thị trường không những khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực của nền kinh tế mà còn sử dụng chúng có hiệu quả để đẩy nhanh quá trình CNH, của mọi thành phần kinh tế, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến, công nghệ sinh học, dịch vụ được ứng dụng khoa học công nghệ cao, công nghiệp hóa – hiện đại hóa không phải chỉ là công việc của nhà nước mà là sự nghiệp của toàn dân Ba là: người lao động là yếu tố quan trọng nhất, hiện đại hoá, chịu sự cải tạo, bền vững. Thời kỳ đổi mới, các nguồn lực khác gắn kết chúng lại với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp cũng tác động vào quá trình công nghiệp hoá, các nguồn lực khác là những khách thể, lấy phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh, trí tuệ con người biểu hiện ở chỗ nó có khả năng không chỉ tái sinh mà còn tự sản sinh về mặt sinh học mà còn đổi mới không ngừng phát triển về chất trong con người xã hội. Tính vô tận, nếu biết chăm lo gìn giữ phát triển tài nguyên thiên nhiên cũng có hạn nên phải thực sự cân nhắc, suy xét khi sử dụng. Trong khi đó nguồn lực con người mà cốt lõi là trí tuệ lại là nguồn lực vô tận, Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật thể hoá. Đó là cơ sở làm cho năng lực và nhận thức hoạt động thực tiễn của con người phát triển như một quá trình vô tận, có thể bị cạn kiệt khi khai thác, bởi lẽ con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy. Để thực hiện được phụ thuộc vào chất lượng của nguồn - 16 - Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa của Đảng nhân lực. Trước hết các nguồn lực khác như vốn, khai thác của con người và nói đúng thì chúng đều phục vụ nhu cầu, ứng dụng khoa học công nghệ, có trí tuệ và ý chí biết lợi dụng, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, giới để tiêu thụ các sản phẩm của nước ta… Sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng khó phát triển. Thứ hai: Các nguồn lực khác là có hạn, bồi dưỡng và khai thác hợp lý, lợi ích của con người nên con người biết cách tác động và chi phối, chúng chỉ có tác dụng khi có sự tác động của các yếu tố con người, vị trí địa lý… còn tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng. Xây dựng CNXH ở Việt Nam thực chất là nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, hiện đại hoá kết hợp và phát triển công nghệ nội sinh nhất là công nghệ thông tin, nâng cao đời sống vật chất cũng như y tế, năng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung, con người là một trong hai yếu tố cần thiết của quá trình CNH. Bốn là: khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hoá. Khi định hướng phát triển HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức thì phát triển khoa học công nghệ là tất yếu và bức xúc phải đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công nghệ. Do đó việc phát triển giáo dục, bồi dưỡng tinh thần của nhân dân phải được đề cao thì thực hiện CNH-HĐH mới hiệu quả và bền vững. KHCN vai trò quyết định tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và phát triển kinh tế nói chung. Nước ta tiến lên CNXH từ nền kinh tế kém phát triển, áp dụng KHCN còn kém so với các nước trên thế giới, lại phát triển định hướng theo nền KTTT thì phát triển KHCN là tất yếu và bức xúc. Năm là: Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo - 17 - Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa của Đảng tồn đa dạng sinh học. Tiếp tục cơ cấu phân bố kinh tế thi hành chiến lược xóa đói- giảm nghèo với các khu vực khó khăn. Đẩy mạnh và lan rộng CNH-HĐH ở những khu vực trọng điểm và lân cận nó. Mục đích của quá trình CNH là nâng cao năng suất lao động, Vì thế trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất,công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới, phải cải thiên lực lượng lao động rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các vùng… Sự phát triển nhanh hiệu quả và bền vững lao động song phải có mối quan hệ chặt chẽ với bảo vệ môi trường tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học: giảm chi phí sản xuất và không hại đến môi trường. Thì việc đẩy nhanh CNH mới thực sự bền vững. Nếu không có con người thì quá trình CNH không diễn ra, nếu không có bảo vệ môi trường tự nhiên, phát triển văn hóa thì CNH sẽ không vững bền. Nước ta tiến lên chủ nghĩa từ một nền kinh tế kém phát triển và tiềm lực khoa học,việcbảo tồn đa dạng sinh học, công nghệ còn ở trình độ thấp, sự tăng trưởng kinh tế nước ta đi liền với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. 1.3. Công nghiệp hóa- hiện đại hóa gắn liền với nền kinh tế tri thức Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế(OECD) và tổ chức APEC vào năm 2000 đưa ra định nghĩa: “Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra phải phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.” Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có sự tác động to lớn đên sự phát triển là những ngành dựa nhiều vào tri thức, dựa vào các thành tựu mới của khoa học và công nghệ. Đó là những ngành kinh tế mới dựa trên công nghệ cao như: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và cả những ngành kinh tế truyền thống như: nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ được ứng dụng khoa học công nghệ cao. Dù còn có những định nghĩa khác nhau, - 18 - Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa của Đảng song khi nói tới nền kinh tế tri thức có thể nhận diện thông qua những đặc trưng chủ yếu sau:Khác với nền kinh tế nông nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào tự nhiên, chủ thể chính là nông dân với phẩm chất cần cù, chịu khó trong việc sử dụng các công cụ thủ công “cày chìa vôi” để sản xuất; nền kinh tế công nghiệp, chủ thể là công nhân thành thạo trong thao tác các công cụ cơ khí, thì nền kinh tế tri thức với chủ thể là công nhân trí thức với phẩm chất sáng tạo trong sử dụng có hiệu quả tri thức và công nghệ cho phát triển kinh tế, quản lý xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái.Họat động chủ yếu nhất trong nền kinh tế tri thức là tạo ra tri thức, quảng bá tri thức và sử dụng tri thức, biến tri thức thành giá trị. Tri thức đã trở thành nguồn lực hàng đầu, mà giá trị của nó chiếm tỷ trọng cao, nhiều khi chiếm tỷ lệ tuyệt đối trong sản phẩm.Với nền kinh tế tri thức, nhân tài trí thức được coi trọng, quyền sở hữu trí tuệ trở thành yếu tố quan trọng. Tri thức trở thành hình thức cơ bản nhất của vốn, quan trọng hơn cả tài nguyên, sức lao động. Lực lượng sản xuất từ dựa vào tài nguyên thiên nhiên chuyển dần sang dựa chủ yếu vào năng lực trí tuệ của con người.Nền kinh tế tri thức phát huy tối đa năng lực sáng tạo của con người trong vận dụng tri thức và sáng tạo ra trí thức mới, biến tri thức thành của cải, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển con người và phát triển xã hội một cách nhanh chóng. Bởi vậy, vòng đời của một sản phẩm, một công nghệ từ lúc nảy sinh, phát triển, chín muồi đến tiêu vong ngày càng rút ngắn; trước đây vòng đời công nghệ tính bằng nhiều thập kỷ, ngày nay tính bằng năm, thậm chí tính bằng tháng. Tốc độ đổi mới công nghệ rất nhanh chóng. Vai trò của nền kinh tế tri thức Kinh tế tri thức mang lại những cơ hội và thách thức lớn trong sự phát triển của nhân loại, đóng vai trò mang ý nghĩa quan trọng đến việc phát triển xã hội ngày nay. Phát triển kinh tế tri thức là cơ hội để rút ngắn khoảng cách - 19 - Đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa của Đảng lạc hậu. Từ tri thức cho chúng ta những công nghệ kỹ thuật mới, các tư liệu lao động mới, hệ thống máy móc thông minh, tự động hóa. Quá trình đó sẽ giúp phát hiện và sáng tạo ra nhiều đối tượng lao động mới, những nguyên liệu mới, năng lượng mới v..v.manglạitạo ra nhiều giá trị sử dụng mới hơn, đáp ứng tốt hơnnhu cầu ngày càng cao của xã hội, giảm bớt việc khai thác các nguồn tài nguyên hiện hữu, mà trước đó ta đã quá lạm dụng và lệ thuộc. KTTT (kinh tế tri thức) là động lực thúc đẩy tiến trình xã hội hóa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, làm cho phân công lao động xã hội phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. KTTT được hình thành, phát triển trên cơ sở các ngành sản xuất sử dụng công nghệ cao.Từ đó mà tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển của toàn bộ nền kinh tế.Nó thúc đẩy công nghiệp phát triển nhanh thông qua các cuộc cách mạng, cách mạng xanh, cách mạng sinh học. KTTT thúc đẩy công nghiệp cần phát triển không ngừng,từ việc gia tăng hàm lượng sản phẩm khoa học – kỹ thuật, nâng cao giá trị sử dụng, giá trị trao đổi của sản phẩm công nghiệp là lợi thế phát triền kinh tế thông tin hướng đến một nền văn minh cao hơn. KTTT thúc đẩy trí nghiệp ở các ngành dịch vụ. Đặc biệt tri thức khoa học và công nghệ cùng với lao động kỹ thuật cao là thành phần quan trọng của lực lượng sản xuất. Trong nền KTTT việc làm thay đổi phương thức tổ chức và quản lý không chỉ trong các ngành đó mà còn tác động đến các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế, giúp đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cuộc sống, tiền tệ với nhiều hình thức phong phú, kiến thức lao động có trình độ cao được sử dụng nhiều.Cơ cấu kinh tế kỹ thuật thay đổi một cách sâu sắc.Nó thúc đẩy việc nâng cao đời sống xã hội. Do những thay đổi trong cơ cấu kinh tế. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức đó chính là hàm lượng tri thức. - 20 -
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan