Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đề tài đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn...

Tài liệu Đề tài đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn

.DOC
68
2145
94

Mô tả:

CHUYÊN ĐỀ HỘI THẢO ĐỀ TÀI: ĐẶC TRƯNG CỦA CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN NGƯỜI VIẾT: NGUYỄN THỊ LAN DUNG ĐƠN VỊ: TỔ VĂN – TRƯỜNG THPT CHUYÊN BIÊN HOÀ – TỈNH HÀ NAM A. PHẦN MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong lịch sử văn học nhân loại, có những hiện tượng văn học sinh ra rồi mất đi do những giá trị tự thân, nằm ngoài ý định chủ quan của con người. Song cũng có những hiện tượng văn học sinh ra là của một thời mà tồn tại mãi mãi với thời gian, một trong số những hiện tượng văn học đó là chủ nghĩa lãng mạn. Chủ nghĩa lãng mạn – thuật ngữ vừa để chỉ một trào lưu văn học, vừa để chỉ một phương pháp sáng tác - tồn tại trong nền văn học châu Âu từ cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX. Tuy ra đời trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt gắn với sự đổ vỡ niềm tin của con người vào cách mạng tư sản, song trào lưu lãng mạn đã vượt ra khỏi giới hạn tồn tại chật hẹp của nó để tạo nên tầm ảnh hưởng sâu rộng đến văn học của nhiều nước trên thế giới, trong đó có nền văn học Việt Nam. Ra đời sau chủ nghĩa lãng mạn châu Âu khoảng một thế kỷ, trào lưu văn học lãng mạn Việt Nam 1930-1945 vừa tiếp thu ảnh hưởng từ văn học lãng mạn Pháp vừa có nhiều cách tân đổi mới phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam và khuynh hướng tư tưởng thẩm mỹ của người Việt. Thơ mới lãng mạn và văn xuôi lãng mạn Tự lực văn đoàn là hai phong trào văn học lớn tạo nên diện mạo chủ yếu của chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam. Chủ nghĩa lãng mạn với tư cách là một trào lưu văn học lớn của thế giới xưa nay luôn được các nhà nghiên cứu quan tâm sâu sắc. Và mặc dầu còn không ít những ý kiến trái chiều, nhưng xét một cách toàn diện, không ai có thể phủ nhận được những đóng góp lớn lao của chủ nghĩa lãng mạn trong việc khẳng định và phát huy bản ngã, đề cao tự do cá nhân, giải phóng tư tưởng và tình cảm con người ra khỏi những luật lệ khắt khe, hà khắc, đề cao tưởng tượng, giải phóng quá trình sáng tạo, do đó tạo nên sự đa dạng trong phong cách nghệ thuật biểu hiện, làm cho văn học phát triển nở rộ chưa từng có. Đúng là hiện tượng “trăm hoa đua sắc”. Vì thế, chủ nghĩa lãng mạn luôn là một đề tài chưa bao giờ cũ, luôn có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với giới học thuật và luôn hứa hẹn về những khám phá mới mẻ, giàu giá trị. Trong chương trình Ngữ văn THPT, ở phần văn học nước ngoài, học sinh được học đoạn trích “Người cầm quyền khôi phục uy quyền”, trích trong tiểu thuyết “Những người khốn khổ” của V. Huy-gô, một “trái núi” lừng lững của văn học lãng mạn Pháp. Ở phần văn học Việt Nam, sau một khoảng thời gian văn chương lãng mạn 1 chỉ được “nhắc tới” như một cứ liệu cần thiết để so sánh nhằm làm nổi bật tính chất tiến bộ của văn chương hiện thực, tính chất tính cực của văn chương cách mạng, từ năm 1989 nhiều tác phẩm văn học lãng mạn được đưa vào dạy học trong nhà trường. Đến nay rất nhiều tác giả văn học lãng mạn được học trong chương trình như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Nguyễn Bính, Thạch Lam, Nguyễn Tuân, đủ thấy vị thế, vai trò lớn lao của văn học lãng mạn trong nhà trường… Người giáo viên sẽ không thể có những bài dạy tốt cho học sinh nếu không tìm hiểu, nghiên cứu thật kỹ những đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn. Như vậy, lý do dẫn chúng tôi đến đề tài “Đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn” vừa là niềm yêu thích, say mê với một hiện tượng văn học lớn của nhân loại, vừa xuất phát từ yêu cầu thực tế của công việc giảng dạy văn học trong nhà trường. II. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI: Tiến hành nghiên cứu đề tài này, chúng tôi nhằm đạt đến những mục đích sau đây: 1. Về lý luận: Nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn về chủ nghĩa lãng mạn, bước đầu có cái nhìn so sánh đối chiếu giữa văn học lãng mạn Việt Nam với văn học lãng mạn châu Âu (cụ thể là văn học lãng mạn Pháp), thấy sự học tập và tinh thần đổi mới, kế thừa và phát huy trong văn học lãng mạn Việt Nam so với văn học lãng mạn Pháp, từ đó đánh giá đúng về giá trị của văn học lãng mạn Việt Nam. 2. Về thực tiễn: Từ đề tài này, giáo viên vận dụng đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn vào việc hướng dẫn học sinh đọc hiểu tác phẩm văn học lãng mạn Việt Nam, lý giải các hiện tượng văn học lãng mạn một cách có cơ sở và thuyết phục, giúp học sinh nâng cao nhận thức về văn học lãng mạn, biết chỉ ra và phân tích đặc trưng của văn học lãng mạn trong từng tác phẩm cụ thể. 3. Về thái độ: Từ nhận thức đúng đắn và lòng say mê, trân trọng của mình đối với văn học lãng mạn, giáo viên giúp học sinh có một cái nhìn sự đánh giá đúng về giá trị của văn học lãng mạn, từ đó thêm yêu quý trân trọng những di sản tinh thần quy báu của văn học nước nhà và văn học thế giới, góp phần phát triển năng lực, bồi đắp nhân cách người học. III. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU Với đề tài “Đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn”, chúng tôi xác định đây là một vấn đề rất lớn đòi hỏi phải có sự tìm tòi nghiên cứu một cách toàn diện và công phu. Trong khuôn khổ của một chuyên luận, với một khoảng thời gian có hạn, chúng tôi không có tham vọng lý giải tường tận mọi vấn đề, mà trên cơ sở một cái nhìn tổng quan về văn học lãng mạn thế giới, sẽ đi sâu vào đặc trưng của trào lưu lãng mạn trong 2 văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945 với một số tác giả tác phẩm tiêu biểu. Thiết nghĩ việc làm này cũng hoàn toàn phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra đối với công tác giảng dạy trong nhà trường của người giáo viên. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thực hiện đề tài này, chúng tôi vận dụng phối kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau: 1. Phương pháp tổng hợp 2. Phương pháp phân tích 3. Phương pháp nghiên cứu tiểu sử tác giả 4. Phương pháp so sánh đối chiếu….. 3 B. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN I. Khái niệm chủ nghĩa lãng mạn: 1. Lãng mạn. Lãng mạn nguyên gốc là từ tiếng Pháp “romance”. Vào đầu thế kỷ XVIII, từ lãng mạn vốn được dùng để chỉ tất cả những gì hoang đường, kì lạ, khác thường chỉ thấy có trong sách chứ không có trong hiện thực. Vào khoảng giữa thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, lãng mạn trở thành một trào lưu văn học lớn ở châu Âu. Từ “romance” được dịch ra tiếng Hán là “lãng mạn”, từ khi xuất hiện cho đến nay, có nhiều cách định nghĩa về thuật ngữ này. Tuy nhiên, nương theo nghĩa chiết tự của từ “lãng mạn”, ta có thể hiểu: lãng là sóng nước, phóng túng; mạn là chỗ nước tràn ra, không có gì gò bó. Lãng mạn có nghĩa là sóng tràn bờ, chỉ sự phóng túng, tự do vượt lên trên mọi ràng buộc. Xung quanh từ lãng mạn có nhiều thuật ngữ khác nhau: tính chất lãng mạn, phương thức lãng mạn, hình thái lãng mạn, chủ nghĩa lãng mạn... 2. Chủ nghĩa lãng mạn. Theo nhà nghiên cứu mĩ học, triết học Hungari Lukacs, cho đến nay có đến 11.396 định nghĩa về chủ nghĩa lãng mạn. Nhìn vào con số trên đủ thấy chủ nghĩa lãng mạn từ khi xuất hiện đã gây nhiều quan tâm, tranh cãi cho các nhà nghiên cứu, lý luận phê bình ở nhiều nước, điển hình như ở Nga, ở Pháp... Ở Nga, nhà thơ Puskin ghi nhận những tranh cãi nóng hổi về chủ nghĩa lãng mạn; tranh cãi thì nhiều mà làm sáng tỏ vấn để chẳng được bao nhiêu. Trong một bức thư gửi bạn ngày 25/3/1825, Puskin còn viết: “Tôi nhận thấy rằng tất cả chúng ta đều quan niệm rất mơ hồ về chủ nghĩa lãng mạn”. Biêlinxki trong bài: “Văn học Nga” (1841) thì phát biểu: “Chủ nghĩa lãng mạn, đó là thế giới nội tâm của con người, thế giới của tâm hồn và trái tim”. Ở Pháp, cuộc tranh cãi về chủ nghĩa lãng mạn còn náo động hơn xung quanh vở kịch “Héc-na-ni” của V.Huygô (“trận chiến Héc-na-ni”). V.Huygô, người được coi như chủ súy của trường phái lãng mạn thì quan niệm: “Chủ nghĩa lãng mạn là chủ nghĩa tự do trong văn học”. Riêng ở Việt Nam, tranh luận về chủ nghĩa lãng mạn xoay quanh vấn đề thơ cũ và thơ mới, văn xuôi lãng mạn hay văn xuôi hiện thực rất sôi nổi. Như vậy, việc xác định một khái niệm chính xác tuyệt đối về chủ nghĩa lãng mạn là không đơn giản. Tuy nhiên, có thể hiểu: Chủ nghĩa lãng mạn là một thuật ngữ chỉ một trong những trào lưu văn hóa lớn nhất ở Âu – Mĩ vào cuối thế kỷ XVIII và 4 nửa đầu thế kỷ XIX, có ảnh hưởng và ý nghĩa lớn đối với sự phát triển văn học toàn thế giới (“Từ điển thuật ngữ văn học”). Chủ nghĩa lãng mạn hướng đến cái chủ quan, cái lý tưởng, vượt ra ngoài thực tại, khác với chủ nghĩa hiện thực gắn chặt với đời sống. Tùy theo thái độ phản ứng lại đối với thực tại đời sống và cách tìm lối thoát của các nghệ sĩ, người ta chia chủ nghĩa lãng mạn thành hai khuynh hướng: lãng mạn tích cực và lãng mạn tiêu cực. II. Cơ sở ra đời của chủ nghĩa lãng mạn. Không còn nghi ngờ gì nữa, chủ nghĩa lãng mạn là một trào lưu văn hóa, một hiện tượng nghệ thuật quan trọng nhất của thế kỷ XIX ở châu Âu, nhưng xét trong lĩnh vực văn học, chủ nghĩa lãng mạn thể hiện rõ nét nhất ở Pháp, nơi có nền văn học phát triển vô cùng rực rỡ, được M.Gorki đánh giá là “nền văn học chủ đạo của châu Âu”. Vậy đâu là cơ sở ra đời của chủ nghĩa lãng mạn ở Pháp? 1. Cơ sở xã hội. Trước cuộc cách mạng Pháp 1789, xã hội Pháp phân hóa làm ba đẳng cấp tu sĩ, quý tộc, bình dân nên xảy ra tình trạng bất bình đẳng sâu sắc, bất hợp lý cả về cơ cấu kinh tế, xã hội, văn hóa tinh thần, chính trị, giáo dục... Triều đình Lui XVI của Pháp sống xa xỉ, phung phí dẫn đến khủng hoảng tài chính rồi khủng hoảng chính trị trầm trọng. Cuộc cách mạng tư sản Pháp nổ ra năm 1789 với khẩu hiệu “Tự do – bình đẳng – bác ái” đã đánh đổ chế độ phong kiến, tạo nên một bước ngoặt vĩ đại không chỉ đối với Pháp mà còn đối với cả châu Âu, nhiều người đặt hi vọng vào một chế độ xã hội mới sẽ đem lại “tự do – bình đẳng – bác ái” cho họ, cải thiện bầu không khí nặng nề từ lâu bao phủ lên xã hội Pháp. Tuy nhiên, không lâu sau cuộc cách mạng tư sản, các tầng lớp nhân dân Pháp đã sớm phải thất vọng vì cách mạng Pháp không theo con đường “tự do – bình đẳng – bác ái” như khẩu hiệu đã đề ra và họ đã có những hành động chống đối. Cái mà họ chống đối không phải là lý tưởng cách mạng mà là thành quả thực tế của cuộc cách mạng không như họ mong muốn. F.Ăng-ghen đã nhận xét về giai đoạn này: “Vì những cơ cấu mới tưởng như hợp lý hơn so với trước kia, thì lại hoàn toàn không hợp lý... phương châm bác ái được thực hiện bằng những trò lừa bịp, đố kỵ trong cạnh tranh...”. Chính những điều trên đã dẫn đến hiện tượng phủ nhận thực tại sau cách mạng thể hiện qua nhiều thái độ, hành động khác nhau: thế lực quý tộc cũ nổi dậy, tầng lớp dân chủ cấp tiến vươn lên, xã hội Pháp lại phải chứng kiến một thời kỳ dài đầy biến động liên tiếp. Năm 1804 Napôlêông Bônapac làm cuộc chính biến, lên ngôi hoàng đế, lập nên Đế chế I tồn tại trong 10 năm (1804 – 1814). Sau đó tái lập chế độ phong kiến với triều đình nhà Buôcbông (1815 – 1830); chế độ quân chủ tư sản của Lui Philip I (1830 – 1848). 5 Đây chính là những tiều đề lịch sử dẫn đến sự ra đời của văn học lãng mạn Pháp. Cac Mac nói: “Chủ nghĩa lãng mạn là sự phản ứng đầu tiên đối với cách mạng Pháp và tư tưởng khai sáng gắn liền với cuộc cách mạng đó”. E. Faget cho rằng: “Chủ nghĩa lãng mạn là sự ghê tởm đối với thực tại và nguyện vọng muốn thoát ra khỏi thực tại đó”. 2. Cơ sở tư tưởng. Xét trên phạm vi rộng, có thể thấy sự hình thành chủ nghĩa lãng mạn ở châu Âu có quan hệ mật thiết với tư tưởng triết học ở châu Âu đương thời, đó là triết học duy tâm cổ điển Đức. Đây là một phong trào lãng mạn trong lĩnh vực triết học, với những đại biểu xuất sắc như: Kantơ, J.Fitch, với đặc trưng là đề cao tình cảm, tinh thần con người, đã cung cấp cơ sở lý luận cho chủ nghĩa lãng mạn trong văn học. Sự hình thành của chủ nghĩa lãng mạn cũng có cội nguồn từ kinh nghiệm lịch sử và đấu tranh trong bản thân văn học. Văn học cảm thương chủ nghĩa Anh thế kỷ XVIII yêu cầu giải phóng cá tính, chủ trương tự do trong tình cảm, quay trở lại tự nhiên thuần phác, đại biểu là Rutxô; phong trào cách tân với đại biểu là Gơt thì nhấn mạnh cá tính, sắc thái tình cảm mãnh liệt...Ngoài ra, chủ nghĩa cổ điển trước đó có khuynh hướng giáo điều lí tính khô cứng tạo thành những giới luật hà khắc đối với tự do biểu hiện tư tưởng của nhà văn, dẫn đến sự phản đối mạnh mẽ của một số nhà văn, điều này cũng góp phần thúc đẩy sự ra đời của chủ nghĩa lãng mạn. Xét trên phạm vi hẹp, riêng ở nước Pháp thế kỷ XVIII được coi là thế kỷ Ánh sáng, là thế kỷ mà văn chương Pháp đã dành trọn thời gian để hướng về mục tiêu khai sáng, đổi mới văn hóa tinh thần của nước Pháp. Đây là thế kỷ của văn chương triết học, văn chương chính luận và bút chiến, đặc biệt văn chương còn hướng về mục tiêu chống phong kiến, chống văn hóa trung cổ, cổ vũ cho một nền văn học mới có những mục tiêu nhân bản mới. Chủ nghĩa lãng mạn trong văn chương Pháp ảnh hưởng trực tiếp của chủ nghĩa xã hội không tưởng và các nguyên lý cơ bản của tư tưởng Ánh sáng, đó là: - Dựa trên nền tảng chính là nguyên lý tự do. - Chống định kiến, chống tinh thần tiên nghiệm, không dùng một nguyên lý duy nhất để giải thích hiện tượng. - Tách rời niềm tin tôn giáo khỏi tri thức con người. - Thích thực nghiệm, cổ vũ tìm tòi kiến thức. Dựa trên sự chi phối của những trào lưu, những luồng tư tưởng đó, chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Pháp lại phân chia ra hai khuynh hướng: lãng mạn tiêu cực và lãng mạn tích cực. Hai khuynh hướng này có mối liên hệ phức tạp, đan xen và có sự chuyển hóa lẫn nhau. 6 III. Quá trình phát triển của chủ nghĩa lãng mạn. Thật ra, chủ nghĩa lãng mạn khởi đi từ Anh và Đức từ khoảng năm 1795, có mặt đồng thời ở hầu hết lĩnh vực nghệ thuật như văn học, hội họa, điêu khắc, âm nhạc... Nhưng chủ nghĩa lãng mạn thể hiện rõ nét nhất trong văn học Pháp. Văn học lãng mạn Pháp phản ánh tình hình đấu tranh giai cấp trong khoảng thời gian giữa hai cuộc cách mạng, cách mạng năm 1789 và cách mạng năm 1848. Sự vận động và phát triển của chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Pháp thể hiện qua đặc điểm và thành tựu trong sáng tác của những nhà văn, nhà thơ lãng mạn hết sức điển hình, thuộc hai khuynh hướng lãng mạn tiêu cực và lãng mạn tích cực, trong đó khuynh hướng lãng mạn tiêu cực xuất hiện trước. 1. Khởi đầu là khuynh hướng lãng mạn tiêu cực, gồm hầu hết tác phẩm được xuất bản trước những năm 30 của thế kỉ XIX. 1.1. Bà Đờ Xtan (1776 – 1817) là người góp phần định hướng cho nền văn học mới về mặt lí luận. Bà đã khẳng định ưu thế của xúc cảm trong văn học, mở ra chân trời của sự giải phóng văn học khỏi những quy phạm của chủ nghĩa cổ điển. Bà đã mở rộng ý niệm về cái đẹp. Hai tiểu thuyết lãng mạn của bà là “Đenphin” (1802) và “Côrin hay là Italia”(1807) là những tác phẩm có nội dung tình cảm cao thượng và chất trữ tình sống động. Nhận xét, đánh giá về bà Đờ Xtan, trong một bức thư gửi cho nhà văn Đức Gớt, Sile đã viết: “Không có gì là vay mượn, sai lạc và yếu đuối ở bà Đờ Xtan. Bà là tinh thần Pháp đầy trí tuệ và thuần khiết. Bà muốn soi sáng, thâm nhập, đo lường tất cả. Bà không chấp nhận một điều gì tối tăm và tắc tị. Bà kinh sợ chủ nghĩa thần bí và sự mê tín...”. 1.2. Satôbriăng (1768 – 1848), là nhà văn tiêu biểu của khuynh hướng lãng mạn tiêu cực ở Pháp. Ông xuất thân từ dòng dõi quý tộc từng gia nhập quân bảo hoàng chống lại cách mạng, có xu hướng chính trị bảo thủ, không tin vào sự tiến hóa của lịch sử nhân loại, như các nhà tư tưởng Ánh sáng. Nhiều tác phẩm của ông bảo vệ những tàn tích của chế độ phong kiến và hồi phục cảm hứng tín ngưỡng như “Atala” (1801), “Rơnê” (1802), “Thần lực sáng tạo của đạo Gia tô” (1802), “Những người tử vì đạo” (1809). Ông biểu hiện căn bệnh của thời đại, nỗi buồn nản do bao niềm hi vọng tan vỡ của một thế hệ quý tộc và tiểu tư sản bảo thủ. Satôbriăng là nhà văn lãng mạn có ảnh hưởng rộng rãi ở Pháp và châu Âu đầu thế kỷ XIX khi khai thác sâu sắc cái tôi cô đơn qua các hình tượng sống động và những trang văn xuôi đổi mới, lưu loát và đầy chất thơ. 1.3. Lamactin (1790 – 1869) là một nhà thơ tiêu biểu của chủ nghĩa lãng mạn Pháp, là tác giả của những tập thơ trữ tình nổi tiếng như “Trầm tư”, “Trầm tư mới”, “Những hài hòa”... Thơ ông thể hiện nhiều tâm trạng khác nhau trong tình yêu: nỗi đau đớn trước cái chết của người yêu, nỗi đơn độc, nỗi nhớ khôn nguôi, niềm tin tôn giáo... Có thể nói, Lamactin là người khai phá một giọng thi ca mới, là nhà thơ trữ tình 7 xuất sắc khi nói về thiên nhiên gắn với tâm tình con người, khi nói về sự gặp gỡ giữa những tâm hồn đồng điệu. 1.4. Vinhi (1797 – 1863), nhà thơ thường hướng về thời đại cổ xưa để tìm đề tài cho tác phẩm. Chính vì phản ứng với thắng lợi của cách mạng và không bằng lòng với chế độ Buôcbông mà ông đã đi tìm những nhân vật trong quá khứ để thể hiện sự hoài nghi và bi quan. Nhân vật của ông hoặc ngã xuống, hoặc đứng bơ vơ với thiên tài của mình hoặc đơn độc trong tình yêu. Vinhi khẳng định một thứ triết lý thất vọng khi ông ca ngợi sự nhẫn nhục và sự yêu thương, hoặc nói về chủ nghĩa hư vô, chủ nghĩa khắc kỉ trong những tác phẩm “Cái chết của con sói”, “Sự nổi giận của Xămxông”, “Đỉnh núi Ôliviê”. Từ những năm 40, Vinhi viết một số tác phẩm có ý nghĩa tiến bộ hơn thể hiện niềm tin tưởng vào lí trí của con người sẽ thắng được tất cả, vì thế ở Vinhi có sự giao thoa của hai khuynh hướng lãng mạn tiêu cực và lãng mạn tích cực. Từ những năm 20, khi các nhà văn lãng mạn tiêu cực nói lên số phận của tầng lớp quý tộc Pháp bị cách mạng tước bỏ đặc quyền chính trị và kinh tế thì đã xuất hiện những nhà văn lãng mạn tích cực với tư tưởng xã hội và nghệ thuật tiến bộ. Họ công kích sự khắt khe của chủ nghĩa cổ điển, đòi hỏi biểu hiện tự do cá nhân, muốn mở rộng chân trời nghệ thuật, lên án chủ nghĩa thần bí và thơ văn hoài cổ của các nhà văn lãng mạn tiêu cực, chống lại khuynh hướng chỉ nhìn “mặt tội lỗi, thấp kém” của xã hội, đề ra nhiệm vụ văn học cần tìm tòi “cái đẹp và điều tốt lành” trong cuộc sống. Năm 1826, V.Huygô đứng ra thành lập Tao đàn quy tụ phần lớn những nhà văn lãng mạn tiến bộ ưu tú gắn bó với cuộc đấu tranh chính trị và xã hội đương thời; đưa ra nguyên tắc cho trường phái của mình, trong đó khẳng định sự tự do tuyệt đối trong sáng tác. 2. Tiếp đến là sự xuất hiện khuynh hướng lãng mạn tích cực, bao gồm hầu hết tác phẩm xuất bản sau những năm 30 của thế kỷ XIX. 2.1. Huygô (1802 – 1885), là nhà văn lãng mạn tiến bộ ưu tú của nước Pháp. Huygô được coi là hiện thân của chủ nghĩa lãng mạn. Ông xuất hiện như một ngôi sao mọc sớm và lặn rất muộn ở chân trời của thế kỉ XIX. Ngay từ đầu, thiên tài ấy đã tự khẳng định mình như chủ súy của trường phái lãng mạn một cách mãnh liệt và cường tráng. Cho tới khi chủ nghĩa lãng mạn đã qua thời vàng son của nó thì bản thân Huygô vẫn làm mờ nhạt tài năng của nhiều “chủ nghĩa” đang nở ra và tàn đi rất mau chóng ở cuối thế kỷ, đến nỗi họ phải than rằng “cây sồi già xanh ngắt cho đến lúc chết” ấy đã làm cớm cả một vùng bao quanh. Trong hơn 60 năm sáng tác, ông để lại hơn 20 vở kịch, 10 tiểu thuyết lớn và truyện vừa, 15 tập thơ gồm 153.873 câu thơ, hàng trăm bài chính luận, lí luận văn chương, hàng nghìn bức thư tình là những áng văn hay và vài ba nghìn tranh vẽ. Sự phong phú về sáng tác của Huygô có nguồn gốc từ sự liên hệ chặt chẽ của nhà văn với đời sống, sự tham gia trực tiếp vào các phong trào chính trị văn hóa tiến bộ. Nội dung sáng tác của Huygô rất phong phú. Trước hết nói về thơ. 8 Những tập thơ đầu đã rung lên niềm yêu thương với quá khứ xa xăm hoặc những miền đất lạ. Những tập thơ trữ tình xuất bản sau những năm 30 mở rộng suy tưởng về lẽ sống, tình đồng loại, nỗi đau khổ và sức mạnh của nhân dân. Những tập thơ chiến đấu và hùng ca từ những năm 50 vươn đến tầm khái quát xã hội, phân biệt nước Pháp của nhân dân lao động nghèo khổ và nước Pháp của bọn giàu sang quyền quý. Có thể nói, tình yêu thương con người khốn khổ bị đọa đày như được gieo mầm khắp các tập thơ để kết đọng tạo thành rung động âm vang qua các hình tượng lớn trong tiểu thuyết và kịch. Thơ đi vào tiểu thuyết, kịch dựa vào thơ. Sự phối hợp trữ tình giữa các yếu tố nghệ thuật đó đã giao hòa tình thương cảm giữa tác phẩm và người đọc, gây ấn tượng mạnh mẽ về tấm lòng nhân đạo bao la của Huygô. Qua những tập thơ, vở kịch, nhất là những bộ tiểu thuyết để đời như “Những người khốn khổ”, “Nhà thờ đức bà Pari”, Huygô gieo vào đó một niềm tin rằng: lòng thương yêu tuyệt đối có khả năng tiêu diệt điều ác và mang lại hạnh phúc trong tương lai cho số phận những người khốn khổ. Những rung động đầy chất thơ được nâng lên sự suy tưởng có tính chất triết lý đó giải quyết vấn đề xóa bỏ nỗi đau khổ của nhân loại trong thời kỳ hiện đại. 2.2. Gioocgiơ Xăng (1804 – 1876). Sáng tác của bà viết về đề tài tự do yêu đương, nhằm bênh vực quyền sống của người phụ nữ, quyền bình đẳng nam nữ trong hôn nhân và gia đình. Bà lên án những định kiến xã hội, những nguyên tắc cổ hủ của giới thượng lưu đã trói buộc người phụ nữ. Bà tiếp thu lí thuyết của chủ nghĩa xã hội không tưởng, bà tham gia các hoạt động chính trị. Các tiểu thuyết của bà thời kỳ này chuyển từ đề tài cá nhân sang đề tài xã hội, thể hiện nhiệt tình đấu tranh vì lợi ích của nhân dân, mô tả những phẩm chất tốt đẹp và cuộc đấu tranh chống áp bức bất công của người lao động. Tuy nhiên, nhà văn lãng mạn G.Xăng vẫn mơ ước hòa giải những xung đột giai cấp bằng tình yêu thương. Trong “Thư gửi Flôbe” bà viết: “Cuộc sống của chúng ta là để yêu thương và không yêu nữa có nghĩa là không sống nữa mà thôi”. 2.3. Anfrê đơ Muyxê (1810 – 1857). Ông làm thơ, viết văn, viết kịch nhưng trước hết là một nhà thơ. Ông xa lánh lối thơ thần bí, sùng đạo của chủ nghĩa lãng mạn phản động, mạnh dạn phá vỡ những quy tắc của thơ ca cổ điển. Ông phủ nhận nghệ thuật trừu tượng của các nhà thơ cổ điển mới, thấy trong thơ ca cần có sự tuôn trào chân thực của cảm xúc. Ông từ bỏ việc mô tả vẻ đẹp rực rỡ bên ngoài để đi sâu vào vực thẳm của con tim. Ông muốn “nhà thơ không viết một chữ nào nếu toàn thân không rung động”. Ông đi tìm lẽ sống trong tình yêu, một tình yêu mang sắc thái một lý tưởng tự do có tính chất mơ hồ. Là một nhà văn lãng mạn tiến bộ với “trái tim hào hiệp”, ông căm ghét chế độ chuyên chế và “say mê tự do”. Suốt đời Muyxê đã đi tìm lý tưởng và hạnh phúc chân chính nhưng không hề thành đạt. Tác phẩm thơ, truyện, kịch của ông đã phản ánh trung thực tấn bi kịch của tâm hồn, là những áng văn sinh 9 động và sâu sắc chứng minh căn bệnh của thời đại. Tác phẩm của Muyxê đã có những điểm gặp gỡ nội dung sáng tác của các nhà văn hiện thực giữa thế kỷ XIX khi ông biểu hiện và tố cáo hiện thực theo phong cách của ông, qua lăng kính một “nhà thơ của tình yêu và đau khổ”. Như vậy, có thể nói, văn học lãng mạn Pháp ra đời và phát triển trên cơ sở những biến động lịch sử lớn từ cuối XVIII và nửa đầu XIX, dưới ảnh hưởng của tư tưởng lãng mạn trong triết học, văn học của các nước châu Âu như Đức, Anh. Sự vận động, phát triển của chủ nghĩa lãng mạn cho thấy sự song hành giữa lý luận phê bình và sáng tác, sự đan xen khá phức tạp của hai khuynh hướng lãng mạn tích cực và tiêu cực nhằm phản ánh một hiện thực cuộc đấu tranh quyết liệt và phức tạp trong 30 năm đầu thế kỷ XIX ở Pháp. Cũng giống như văn học lãng mạn châu Âu, văn học lãng mạn Pháp cũng thoát khỏi quy tắc ngặt nghèo của truyền thống văn học cũ, đề cao tưởng tượng và cảm xúc chủ quan của người viết, cách tân loại thể... Song vẫn có những đặc điểm riêng: ít tính chất tư tưởng, triết lí phức tạp như văn học lãng mạn Đức, ít khơi sâu vào các nguồn văn học dân gian như ở nhiều nước, ít tính chất anh hùng ca như văn học lãng mạn Nga và Tây Ban Nha. Đặc sắc của văn học lãng mạn Pháp là khuynh hướng lãng mạn tiến bộ chiếm ưu thế tồn tại khá lâu với nội dung phong phú; tính chất trữ tình xuyên suốt trong thơ, kịch, tiểu thuyết; giữa văn học lãng mạn và nghệ thuật lãng mạn như hội họa, âm nhạc luôn tồn tại sự ảnh hưởng qua lại... 10 CHƯƠNG II ĐẶC TRƯNG CỦA CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN TRONG VĂN HỌC THẾ GIỚI Vì chủ nghĩa lãng mạn vừa là một trào lưu văn học nghệ thuật, vừa là một phương pháp sáng tác văn học nên thiết nghĩ, để làm rõ đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn như một trào lưu văn học, cần tìm hiểu cụ thể về nó trước hết như một phương pháp sáng tác với những nguyên tắc sáng tác riêng. Mỗi trào lưu, trường phái văn học ngay từ khi hình thành đã phải chú ý đến phương pháp sáng tác riêng của mình. Cuộc đấu tranh giữa các trào lưu, trường phái văn học không nằm ngoài cuộc đấu tranh phân biệt cách tiếp cận đối tượng thẩm mỹ và tư tưởng thẩm mỹ khác nhau, mà đối tượng và tư tưởng thẩm mỹ khác nhau lại biểu hiện kiểu sáng tác khác nhau, do đó, có các phương pháp sáng tác khác nhau. Cơ sở đó cho phép khẳng định rằng, phương pháp sáng tác là vấn đề sống còn của mỗi trào lưu, trường phái văn học. Không xây dựng được một phương pháp sáng tác riêng, coi như không có trào lưu, trường phái sáng tác riêng. Như vậy là phương pháp sáng tác đánh dấu sự có mặt, sự phát triển, vị thế của trào lưu, trường phái văn học trong nền văn học một dân tộc hay toàn nhân loại. Theo đó, phương pháp lãng mạn có những nguyên tắc sáng tác riêng của nó. Cuốn “Lí luận văn học” do Hà Minh Đức chủ biên cho rằng phương pháp lãng mạn có ba nguyên tắc sáng tác. Nguyên tắc thứ nhất: Chối từ thực tại. Xuất phát từ thái độ “nguyền của thực tại”, “tuyên bố mối thâm thù vĩnh viễn không đội trời chung với thực tại” (Biêlinxki), các nghệ sĩ lãng mạn tự cho mình đứng lên trên hoàn cảnh. Vì vậy, khi xây dựng hình tượng, họ thường ít chú ý đến yêu cầu của khách quan mà chủ yếu dựa vào ý muốn chủ quan. Các chi tiết cụ thể, chân thực, lịch sử đều bị đẩy xuống bình diện thứ yếu, các nhân vật thường được khoác cho vầng hào quang đầy tính chất huyền thoại. Nguyên tắc thứ hai: Tự do bay lượn trong nghệ thuật. Các nghệ sĩ lãng mạn chủ trương “nghệ thuật vị nghệ thuật”, nghệ thuật “không đi giầy đỏ, đội mũ đỏ”(nghệ thuật không liên quan gì đến chính trị) mà đặt lên hàng đầu vấn đề “tự do cá nhân”, “tự do sáng tác”. Họ chối từ “đơn đặt hàng của xã hội” mà chỉ chấp nhận “đơn đặt hàng của trái tim”. V.Huygô - chủ súy của trào lưu lãng mạn đã khẳng định chủ nghĩa lãng mạn là “chủ nghĩa tự do trong văn học” (Tựa “Héc-na-ni”– 1930). Nguyên tắc chứ ba: Điển hình hóa tâm trạng. Khác với chủ nghĩa hiện thực coi hiện thực trực tiếp là đối tượng của nghệ thuật, chủ nghĩa lãng mạn lấy “cái tôi nội cảm” của người nghệ sĩ làm thước đo. Vì thế nghệ thuật với họ không phải là “tấm gương phản chiếu” cuộc đời mà là phương tiện 11 bộc lộ tâm trạng. Họ không chủ trương tìm mối liên hệ biện chứng giữa tính cách và hoàn cảnh mà miêu tả tùy thuộc vào tâm trạng, cảm hứng của mình. Nhân vật lãng mạn thường chỉ rõ ở gương mặt tâm trạng, còn gương mặt thực tế thì rất mờ nhạt. Những nguyên tắc sáng tác trên có mặt và chi phối tác phẩm cụ thể của những nghệ sĩ lãng mạn, tạo nên những đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn, khiến cho chủ nghĩa lãng mạn vượt qua giới hạn tồn tại chật hẹp của một quốc gia và sự hạn chế của hoàn cảnh lịch sử mà nó ra đời, trở thành một hiện tượng văn học “độc nhất vô nhị” trên thế giới. Nói đến đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn là nói đến cái riêng, cái đặc thù, cái chỉ tồn tại trong bản thân chủ nghĩa lãng mạn, chứ không tồn tại trong những hiện tượng văn học khác. Bởi vậy, nếu nói đặc điểm thì cần chỉ ra đầy đủ, nhưng đặc trưng thì chỉ là những gì điển hình nhất, bản chất nhất, mà thôi... Xưa nay, nghiên cứu về đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn, có nhiều quan điểm khác nhau. Theo chúng tôi, về chủ nghĩa lãng mạn nên tập trung vào những đặc trưng cơ bản sau: I. Đặc trưng về nội dung 1. Sắc thái chủ quan sâu sắc, cảm xúc đậm đặc. Bản chất của sáng tạo nghệ thuật là mang tính chủ quan, tuy nhiên sắc thái chủ quan biểu hiện trong từng trào lưu, phương pháp sáng tác thì không giống nhau. Nếu chủ nghĩa cổ điển đề cao lý trí, coi thường yếu tố cảm xúc, khẳng định lý trí là “ngọn nguồn duy nhất của sự trong sáng và giá trị”, chủ nghĩa hiện thực coi trọng tính chân xác, quy luật của đời sống đến mức nhà văn phải cố gắng “đóng cũi sắt tình cảm” của mình, thì chủ nghĩa lãng mạn lại mang sắc thái chủ quan và yếu tố cảm xúc vô cùng đậm đặc. Không phải văn học lãng mạn không quan tâm gì đến hiện thực cuộc sống, nói cho đúng thì tâm trạng lãng mạn trước hết cũng bắt nguồn từ đời sống, từ thái độ nuối tiếc quá khứ vàng son và bất mãn, bất lực trước hiện tại. Các nhà văn lãng mạn tiêu cực vốn xuất thân từ tầng lớp quý tộc thì phản ánh ý thức hệ của giai cấp tư sản bị cách mạng tư sản tước đoạt quyền lợi và đẩy ra khỏi đời sống chính trị. Các nhà văn lãng mạn tích cực vốn đang tràn đầy ước mơ về một tương lai tốt đẹp thì cũng sớm thất vọng về những thành quả của cách mạng vì những gì mà họ nhận được toàn là ngang trái, bất như ý... Tuy nhiên, mục đích của chủ nghĩa lãng mạn không phải là phản ánh hiện thực mà thể hiện tình cảm chủ quan của người nghệ sĩ. Khi những chuẩn mực cộng đồng trong chủ nghĩa cổ điển vừa mới sụp đổ thì cũng là lúc cái tôi lãng mạn được khẳng định và thăng hoa. Có lẽ vì vậy nên các nhà nghiên cứu văn học lãng mạn đã đúng khi cho rằng “Trên ý nghĩa bản chất nhất, hẹp nhất, chủ nghĩa lãng mạn chính là thế giới 12 nội tâm chủ quan của con nguồi, là cuộc sống bí mật của tâm hồn anh ta” (Biêlinxki) và “Cái nổi bật nhất, đặc trưng bản chất nhất của chủ nghĩa lãng mạn là tính chủ quan” (Chu Quang Tiềm). Đặc trưng này của chủ nghĩa lãng mạn thể hiện rõ trong việc xây dựng lên hình ảnh của nhân vật trữ tình buồn và cô đơn. Sống trong chế độ xã hội với những bất ổn, bất công, con người tỏ ra bất lực khi không thể hành động để thay đổi dòng chảy lịch sử, cũng lại không thể hòa hợp được với xã hội ấy. Họ thường có thái độ bất định, dễ bi quan, tuyệt vọng. Ở họ có nỗi buồn vô cớ, họ thích dòng nước mắt, cho rằng cái đẹp chính là giọt lệ của con người. Họ thường tìm đến những đề tài khác nhau để miêu tả, nhưng không phải để tìm quên, để cho vơi nỗi sầu mà đó chính là những nẻo đường đưa họ tìm đến và ẩn sâu trong nỗi sầu của mình. Vì thế, trên những trang văn lãng mạn, ta thường bắt gặp hình ảnh một nhân vật trữ tình, cái tôi buồn và cô đơn. Cái buồn, sự cô đơn thường gợi cho người ta liên tưởng đến sự ốm yếu. Có lẽ bởi vậy Gớt đã gọi “cổ điển là khỏe mạnh, còn lãng mạn là ốm yếu” chăng ? Để thoát khỏi thực tại, nghệ sĩ lãng mạn đào sâu vào cái tôi cô đơn. Trên hành trình đó, họ tìm đến tình yêu như một tất yếu. Bởi lẽ “làm sao sống được mà không yêu, không nhớ không thương một kẻ nào”. Tình yêu là nơi con người có thể biểu hiện rõ nhất cái tôi cá nhân. Song tình yêu trong văn học lãng mạn thường là tình yêu dang dở, thứ tình không dễ gì đơm hoa kết trái bởi những rào cản của định kiến, lề lối và đôi khi tan nát bởi nguyên nhân thật vu vơ. Tình yêu vì thế đi liền với nỗi đau, với bi kịch. Trong tiểu thuyết “Atala” và “Rơ nê”, Satôbriăng miêu tả tình yêu vừa day dứt vừa đau khổ của Atala khi vừa yêu Sacta vừa muốn giữ trọn lời thế hiến dâng cuộc đời cho Chúa (“Atala”); và chàng Rơ nê khi thì đắm chìm trong nỗi u sầu triền miên, khi thì lao vào mối tình mù quáng với Amêli để cuối cùng đưa người tình vào nhà tu và bản thân thì cô đơn lang thang giữa rừng hoang và thác dữ ở Bắc Mĩ (“Rơ nê”). Còn Lamactin, sau khi người tình là Juyli chết vì bệnh, mối tình sâu sắc vừa nảy nở đã vội chấm dứt, đã viết những tập thơ trữ tình nổi tiếng “Trầm tư”, “Trầm tư mới”... thể hiện những cung bậc cảm xúc qua các thời kỳ khác nhau: nỗi đau đớn trước cái chết của người yêu (“Bên hồ”, “Sự bất tử”), nỗi đơn độc khi còn lại “một mình”, nỗi nhớ khôn nguôi khi nhớ về “chiều kỉ niệm”... Ngay cả trong tiểu thuyết “Nhà thờ Đức bà Pari” của nhà văn lãng mạn tiến bộ V. Huygô, mối tình của Cazimôđô với Exmêranđa mãnh liệt là thế mà cuối cùng cũng rơi vào hư vô. Không thể tìm thấy hạnh phúc ở trần gian, họ chỉ có thế gặp nhau dưới nấm mồ. Ngoài tình yêu, nhà văn lãng mạn cũng tìm đến thiên nhiên. Thiên nhiên cũng là một đề tài lớn của văn học lãng mạn. Về với thiên nhiên, người ta quên đi bộ mặt xã hội, quên đi những phiền nhiễu của thế gian. Nhà thơ lãng mạn thích trầm tư, trở về với nội tâm mà thiên nhiên như một tấm gương để anh ta dễ soi rọi. Chủ nghĩa lãng 13 mạn đề cao cảnh sắc tráng lệ của đại tự nhiên, lấy đại tự nhiên làm đối tượng biểu hiện chủ yếu, đó là những cảnh núi cao hùng vĩ, biển rộng mênh mông, phong cảnh điền viên thuần phác, yên tĩnh. Đúng là “trời đất tự nhiên này phải đợi đến chủ nghĩa lãng mạn thế kỷ XIX mới có được sự khai thác phong phú và chi tiết”. Đêm tối cũng là đề tài phổ biến của nhiều nhà thơ lãng mạn. Vì đêm là người bạn trầm tư yên tĩnh để nhà thơ bộc bạch nỗi lòng của mình. V. Huygô đối diện với “Đêm đại dương” để suy tưởng về những người thủy thủ, thuyền trưởng đã chết. A. Muyxê có một chùm thơ về “Đêm”: “Đêm tháng Năm”, “Đêm tháng Tám”, “Đêm tháng Mười”. Trong “Đêm”, A.Muyxê vừa bộc lộ sự đau khổ, vừa ánh lên lòng yêu đời, ý thức trách nhiệm với cuộc đời, thậm chí “Đêm” còn làm cho nhà thơ trải nghiệm cảm giác mình sẽ lớn lên trong đau khổ. Với chùm thơ “Đêm”, Muyxê được đánh giá “là một nhà thơ, gần như là một người duy nhất trên thế giới đã biết, bằng tiếng Pháp, thể hiện lại các âm thanh rất con người của tiếng nấc” (Lui Aragông). Nghệ sĩ lãng mạn cũng thường hoài niệm về quá khứ và thể hiện tín ngưỡng tôn giáo, điển hình là trường hợp Satôbriăng. Ông ca ngợi đạo Gia tô: “Trong tất cả những tôn giáo đã tồn tại thì đạo Gia tô là thơ mộng nhất, nhân đạo nhất, hòa hợp nhất với tự do, nghệ thuật văn chương; tất cả thế giới đều cần đến nó, từ công việc nông trang cho đến những khoa học trừu tượng, từ những nhà cứu tế cho kẻ khốn cùng đến những cung điện do Mikelănggiơ xây dựng và Raphaen trang hoàng...”. Một số bài thơ của Lamactin như “Niềm tin”, “Tuần lễ thánh”, “Chúa”, “Lời nguyện cầu”... cũng thể hiện niềm tin tôn giáo mỗi khi con người bị rơi xuống vực thẳm của sự đau khổ. Tôn giáo không đơn thuần chỉ là một tín ngưỡng mà nhiều khi còn trở thành cứu cánh của cả cuộc đời. 2. Tinh thần vươn lên trên thực tại, hướng về lý tưởng Rất khác so với tinh thần chú trọng hiện thực, nhìn thẳng vào sự thật, trung thành với hiện thực của chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa lãng mạn luôn truy tìm lý tưởng với tinh thần vượt lên trên thực tại, dùng lý tưởng chủ quan thay thế hiện thực khách quan. Silơ cho rằng: chủ nghĩa lãng mạn “lấy lý tưởng đẹp đẽ để thay thế hiện thực thiếu thốn”. Còn nữ sĩ G.Xăng thì “cảm thấy tất yếu phải dựa theo hi vọng của tôi đối với nhân loại, dựa theo cái mà tôi tin là nhân loại nên có để viết về nó”. Đối thoại với nhà văn hiện thực, một lần nữa nữ văn sĩ khẳng định: “Ông muốn miêu tả con người như mắt ông nhìn thấy nó, còn tôi cố miêu tả con người như tôi muốn thế, như tôi muốn nó phải trở thành”. Như vậy, nếu cần tìm một hiện thực trong tác phẩm lãng mạn, vẫn có, chỉ có điều hiện thực đó mang tính đặc thù, đó là hiện thực của tưởng tượng, của mơ ước, của thế giới chủ quan chứ không phải hiện thực như nó vốn có ngoài cuộc sống. Nó vượt ra ngoài, vượt lên trên cuộc sống bình thường vì đó là một cuộc sống lý tưởng. 14 Tất nhiên, diện mạo của thế giới mộng tưởng trong văn học lãng mạn cũng khá phong phú, không thuần nhất. Ở nhà văn lãng mạn tiêu cực, đó là một cuộc sống từ thời cổ xưa, điển hình như Vinhi trong các tác phẩm “Môizơ”, “Ê loa”, “Xanhmac”, “Stenlê”, “Sattơctơn”, “Đaphnê” đã hướng về thời cổ xưa, mô tả số phận của những nhà quý tộc trẻ thời Risơliơ hoặc các bậc tiên tri trong kinh thánh. Còn ở những người lãng mạn tích cực thì họ không hòa hoãn, thỏa hiệp với thực tại nên họ mong muốn thiết lập nên môi trường xã hội lý tưởng đảm bảo hạnh phúc của con người. G.Xăng mong muốn xây dựng nên một xã hội mà trong đó xung đột giai cấp được hòa giải bằng tình thương yêu. Trong sáng tác của mình bà thường miêu tả cuộc sống nơi đồng quê bình lặng, với những người nông dân chất phác, hồn nhiên trong sáng cùng những chuyện tình mơ mộng, thủy chung, đó chính là “lí tưởng về sự ấm cúng và chất thơ” của cuộc sống bình dị. Bà lảng tránh vấn đề xung đột giai cấp ở nông thôn và cách giải quyết vấn đề đó bằng bạo lực cách mạng. Sáng tác của V. Huygô có lẽ là điển hình hơn cả trong việc xây dựng nên một hiện thực trong mơ ước, trong tưởng tượng, nhất là trong bộ tiểu thuyết “Những người khốn khổ”. Tác phẩm được đánh giá như môt “trái núi” lừng lững giữa văn đàn Pháp và thế giới, không chỉ bởi một dung lượng đồ sộ, tầm vóc sử thi mà còn bởi nhà văn đã gieo vào đó những vấn đề có ý nghĩa tiến bộ, nhân văn với toàn nhân loại cho đến ngày nay - vấn đề tình thương yêu. Nhưng tại thời điểm tác phẩm ra đời, đó vẫn là những điều xa vời mà con người chưa thể đạt tới. Vì thế, nó vẫn lấp lánh trong vòng hào quang của lý tưởng. Được viết khi trào lưu hiện thực chủ nghĩa đang dần thay thế cho trào lưu lãng mạn, bộ tiểu thuyết lãng mạn kiêm hiện thực này không thiếu những phần phủ nhận xã hội, những chi tiết hiện thực miêu tả cuộc sống lầm than của những kiếp người “dưới đáy”, song phần chủ yếu vẫn là khẳng định thế giới lý tưởng của nhà văn. Trong thế giới lý tưởng đó, Huygô dùng tình yêu thương để hòa giải các xung đột, nâng đỡ những người khốn khổ. Hình tượng trung tâm tỏa sáng nhất tạo nên linh hồn của “Những người khốn khổ”, mang thông điệp của Huygô chính là Giăng Van Giăng. Cũng là người khốn khổ từng phạm tội, nhưng chính nhờ có “ánh sáng của đôi chân nến bạc” hay chính là sự bao dung, tình thương của Đức giám mục Myrien, Giăng Van Giăng đã được cảm hóa, trở thành người lương thiện; hơn thế còn giống như một vị thánh, đem “phép màu” đến cho cuộc sống của con người với tinh thần xả thân vì điều thiện, vị tha đến mức quên mình. Cả thế giới “những người khốn khổ” nhận được tình thương yêu của Giăng Van Giăng, nhất là Phăngtin và Côzet. Vì mẹ con Côzet, Giăng Van Giăng hết lần này đến lần khác hi sinh cho đến lúc chết. Vì Phăngtin, ông đi tìm và chuộc Côzet khỏi tay Tênacđiê. Vì hạnh phúc của Côzet, ông không quản ngại nguy hiểm, lao ra cứu Phơbuyt... Giăng Van Giăng đã sống một cuộc đời đầy khổ ải, gian 15 truân nhưng là cuộc đời đầy ý nghĩa được dệt nên bằng bao nhiêu vẻ đẹp và đức thiện, cho đến chết vẫn âm thầm lặng lẽ hiến trọn vẻ đẹp và đức thiện đó. Trong tác phẩm “Nhà thờ đức bà Pari”, Huygô đã tô đậm cái ngoại lệ để biểu hiện lý tưởng. Ông đã vẽ ra hình ảnh của nàng Exmêranđa – một thiếu nữ Bôhêmiêng đột ngột và huyền bí xuất hiện như một thiên thần đi giữa những khuôn mặt cau có. Cazimôđô dù mang đủ mọi tật nguyền: gù, thọt, chột nhưng vẫn tỏa ánh hào quang lấp lánh bên trong, đó là một tình yêu nồng nàn, say đắm bất chấp cả cái chết. Tất nhiên, trong sáng tác của V.Huygô, thế giới được vẽ lên dù lý tưởng cũng không hoàn toàn thoát ly hiện thực. Đây đó trong tác phẩm, người ta vẫn nghe thấy những tiếng rên xiết vì đau khổ của những con người sống “dưới đáy” cùng của xã hội. Điều đó chứng tỏ V.Huygô, xét về cái nhìn xã hội vẫn đầy tính hiện thực, ông chỉ lãng mạn trong việc đưa ra giải pháp cải tạo, điều hòa xung đột trong hiện thực mà thôi. Hay nói đúng hơn, điều lý tưởng mà Huygô mơ ước trong tác phẩm vượt lên trên thời đại sống của ông, là một viễn cảnh tương lai mà cho đến ngày nay nhân loại tiến bộ vẫn đang trên hành trình đạt đến nó. II. Đặc trưng về nghệ thuật biểu hiện Tưởng tượng mãnh liệt, thủ pháp đối lập, khoa trương đặc biệt, tình tiết vượt lên trên hiện thực... là những nghệ thuật biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa lãng mạn. Không nói đến những tác phẩm có thiên hướng chạy theo hình thức, xem thường yếu tố nội dung, đại đa số tác phẩm lãng mạn rất phong phú, đa dạng về thủ pháp biểu hiện. Điều này dễ khiến cho tác phẩm lãng mạn trở nên có sức hấp dẫn đặc biệt với độc giả. 1.Tưởng tượng là một trong những yêu cầu không thể thiếu trong năng lực, phẩm chất nhà văn, là cơ sở để tổ chức sắp xếp, nhào nặn nên tác phẩm. Nhưng ở văn học lãng mạn, hơn đâu hết, càng cần phải có sự tưởng tượng mãnh liệt vì muốn xây dựng nên một thế giới lý tưởng, không có trong thực tại, nghệ sĩ lãng mạn phải dùng tưởng tượng phong phú để hình dung và mô tả. Tưởng tượng giúp nhà văn lãng mạn hướng đến những không gian vượt ra ngoài sự tồn tại của mình, nơi mà chưa bao giờ, không bao giờ có thể đặt chân đến. Đó là những quá khứ đã lùi xa, là thế giới của đường xa xứ lạ, thế giới của những điều quái dị, siêu nhiên, của Thượng đế, quỷ Xatăng, Thiên đường và Địa ngục... Nhà văn lãng mạn thỏa sức phiêu lưu trong trường tưởng tượng của mình để tự tách mình ra khỏi thực tại tầm thường, thỏa mãn cái tôi đang bị “tổn thương” sâu sắc... 2. Để làm được điều đó, đương nhiên nhà văn lãng mạn phải dùng đến những tình tiết phi thường, thủ pháp khoa trương để hỗ trợ và cụ thể hóa tưởng tượng. Tình tiết phi thường là những tình tiết vừa khác bình thường, vừa vượt lên trên cái bình thường. Nếu “cái hàng ngày” là chất liệu chính để xây dựng hình tượng điển hình của 16 chủ nghĩa hiện thực thì tình tiết phi thường chính là chất liệu chủ yếu để nhà văn lãng mạn xây dựng nên những hình tượng lãng mạn và nhào nặn hiện thực lý tưởng, hiện thực của ước mơ. Xuất phát từ quan niệm “cái bình thường là cái chết của nghệ thuật”, Huygô cũng giống như nhiều nhà văn lãng mạn khác, tạo ra những cái ngoại lệ, tuyệt đối, cực đoan rồi phóng đại thêm lên để biểu hiện một cuộc sống lý tưởng, những con người lý tưởng như mình mong muốn. Ví như để tạo ra nhân vật lý tưởng Giăng Van Giăng thể hiện mơ ước về một xã hội tốt đẹp, Huygô đã sáng tạo ra những chi tiết phi thường về nhân vật từ ngoại hình, sức khỏe, hành động cho đến tính cách. Tất cả đều lấp lánh hào quang của lý tưởng, vượt lên rất xa so với những gì có thực. Khi xây dựng các nhân vật tiêu cực, bút pháp ấy vẫn nhất quán, chỉ có điều, thay vì đồng nhất hóa cái phi thường với các lý tưởng thì cái ngoại cỡ đã được đẩy lên đến cực đoan, các ngoại cỡ đã bị đồng nhất hóa với cái kỳ quặc. Nhân vật Giave trong “Những người khốn khổ” của Huygô là một loại nhân vật như thế: “Cha hắn vượt ngục, hắn cũng bắt, mẹ hắn phạm pháp hắn cũng cứ tố cáo. Hắn làm công việc ấy một cách đắc ý như người ta làm việc thiện”. 3. Đối lập cũng là một thủ pháp nghệ thuật quen thuộc và đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn. Xét từ cội nguồn, chủ nghĩa lãng mạn hình thành là do sự đối lập giữa cái tôi nghệ sĩ với thực tế xã hội. Vì thế, đối lập trước hết có thể hiểu là tâm thế của người nghệ sĩ trước thực tại, và sau đó biểu hiện cụ thể trong tác phẩm ở những cấp độ khác nhau. Thứ nhất, đó là sự đối lập giữa nhân vật lãng mạn với hoàn cảnh sống. Trong nhiều sáng tác của Vinhi người ta thấy những nhân vật tài năng xuất chúng của ông thường không thể hòa hợp với môi trường sống, kết cục là họ hoặc ngã xuống như Xanhmac, hoặc đứng bơ vơ với thiên tài của mình như Môizơ, hoặc đơn độc trong tình thương, tình yêu như Siva, Xămxông... Nhân vật của Vinhi mang theo những hoài nghi và bi quan của chính ông về cuộc đời nên cảm thấy con người xung quanh thì bàng quan hay thù nghịch, thiên nhiên thì hoang vắng lạnh lùng; và nếu có Chúa tồn tại thì Chúa “câm, mù, điếc”. Hay trong tác phẩm “Tâm sự của một đứa con thời đại” của A.Muyxê, nhân vật Ôctavơ tiêu biểu cho một thế hệ thanh niên, sinh ra và lớn lên sau cách mạng 1789 chỉ thấy một thế giới hoang tàn và có bao nhiêu người khác cùng đau khổ như mình. Chàng nghi ngờ tất cả và muốn gào lên trước sự trống rỗng của cuộc đời. Đáng tiếc là con người ý thức sâu sắc về tệ nạn của xã hội, đối lập mình với hoàn cảnh, căm ghét hoàn cảnh thối nát đó cuối cùng lại thỏa hiệp với hoàn cảnh, bị hoàn cảnh nhấn chìm. Thứ hai, đó là sự đối lập giữa các nhân vật đại diện cho các tầng lớp, biểu thị những lý tưởng xã hội khác nhau, mang những tính cách khác nhau. Sự đối lập giữa 17 Giăng Van Giăng với Giave là sự đối lập giữa thiện và ác, ánh sáng và bóng tối, cao cả và thấp hèn. Găng Van Giăng suốt đời làm điều thiện, theo tiếng gọi của lương tri còn Giave suốt đời truy tìm để tiêu diệt Giăng Van Giăng, tiêu diệt cái thiện cho bằng được. Cách giải quyết mâu thuẫn này giữa hai nhân vật của tác giả cũng là bằng tình thương yêu, một tư tưởng nhất quán trong toàn bộ tác phẩm. Dù luôn bị Giave truy đuổi như một con mồi, Giăng Van Giăng không thù hận mà đã cứu sống viên thanh tra khỏi tay những người cách mạng để cho hắn đi. Khi Giave vẫn muốn bắt Giăng Van Giăng, ông đã thuyết phục Giave cho mình thời gian để trả Mariuyt (người yêu Côzet) về gia đình rồi sẽ quay trở lại để cho hắn bắt. Chính lòng tốt của Giăng Van Giăng đã đặt Giave vào một tình trạng vô cùng khó xử. Hắn bị kẹt giữa niềm tin vào luật pháp và niềm tin vào lòng tốt của con người. Không thể giải quyết tình trạng bế tắc đó, Giave đã nhảy xuống sông Xen tự vẫn. Thứ ba, đó là sự đối lập trong bản thân nhân vật. Điển hình nhất cho loại đối lập này trong nhân vật Cazimôđô. Người kéo chuông nhà thờ Đức Bà gây ám ảnh người đọc bởi một ngoại hình vô cùng xấu xí. Cazimôđô mang đủ mọi tật nguyền: thọt, chột, gù, giống như một con quỷ trong một lễ hội hóa trang. Nhưng cũng chính Cazimôđô lại gây xúc động cực độ trong lòng người đọc ở vẻ đẹp tâm hồn, ở tình yêu chân thành, nồng nàn, mãng liệt dành cho Exmêranđa. Dụng công của Huygô khi tạo ra sự đối lập ngoại hình với tính cách nhân vật là vừa ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn tình yêu, vừa khắc sâu bi kịch của Cazimôđô. Thứ tư, liên quan đến thủ pháp đối lập, cũng cần nói thêm đôi điều về cái nghịch dị (grôtexcơ) trong văn học lãng mạn, tập trung chủ yếu ở một số sáng tác của Huygô. Nghịch dị (hay grôtexcơ) là một “kiểu tổ chức hình tượng nghệ thuật dựa vào huyễn tưởng, tiếng cười, sự phóng đại, lối kết hợp và tương phản một cách kỳ quặc cái huyễn hoặc với cái thực, cái đẹp với cái xấu, cái bi với cái hài, cái giống như thực với cái biếm họa...” (“Từ điển thuật ngữ Văn học”). Trong tiểu thuyết “Nhà thờ Đức bà Pari” của Huygô, sự đan chéo những yếu tố bi hài, cái đẹp và cái dị dạng đã mang lại cho câu chuyện tính chất grôtexcơ. Mỗi nhân vật là một sự hài hước bi đát. Pie Granhgoa là sự thất bại của ảo mộng trước nhu cầu vặt vãnh của cuộc sống; Cazimôđô cũng là một loại “đom đóm yêu một vì tinh tú”, sự thiếu hài hòa của anh chẳng những khiến người đàn bà mà cả những con người trần thế này chẳng thể chấp nhận được; Frôlô là sự không thể điều hòa giữa thèm khát và khổ hạnh; Phơbuyt là sự đối lập giữa vẻ đẹp bên ngoài và sự xấu xa trống rỗng bên trong. Và hơn hết là cái kết thúc của thiên tình sử vừa bi đát vừa hài hước: bên cạnh đám cưới của Phơbuyt là “đám cưới’ của Cazimôđô và Exmêranđa (bộ xương Cazimôđô ôm hôn bộ xương Exmêranđa), điều đó đã “nhấn mạnh tình trạng chưa thể giải quyết của những đối kháng, những tương phản, nhất là về thẩm mỹ và đạo đức” mà Huygô muốn đặt ra qua tác phẩm. 18 Tóm lại tất cả những đặc trưng trên của chủ nghĩa lãng mạn trong văn học châu Âu chứng tỏ: chủ nghĩa lãng mạn trước hết là sản phẩm của một thời đại lịch sử cụ thể (thế kỷ XIX ở châu Âu, ở Pháp) nhưng hơn thế, đây còn là một hiện tượng văn học, văn hóa lớn của thế giới. Từ Pháp, những đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn có tầm ảnh hưởng rộng rãi đến văn học của nhiều quốc gia, trong đó có văn học Việt Nam. Văn học Pháp do sự giao lưu văn hóa đã chảy vào nước ta như một nguồn suối ảnh hưởng trực tiếp đến sự ra đời của trào lưu lãng mạn trong văn học Việt Nam. Tất nhiên, với khả năng đồng hóa, chiếm lĩnh những tinh hoa văn hóa nước ngoài cộng với khả năng “tạo tác”, những nghệ sĩ lãng mạn Việt Nam đã tạo ra một trào lưu văn học lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945 với những đặc trưng rất dân tộc, thể hiện tiếng nói của một bộ phận không nhỏ những trí thức dân tộc trong hoàn cảnh bế tắc lầm than của đất nước, tuyệt nhiên không phải một thứ “con lai” mà thực sự là khởi đầu xuất sắc cho quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam, đưa văn học Việt Nam tiến những bước dài trên con đường hội nhập quốc tế. 19 CHƯƠNG III TRÀO LƯU LÃNG MẠN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 I. Hoàn cảnh ra đời, quá trình phát triển của trào lưu lãng mạn trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 1. Hoàn cảnh ra đời 1.1. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng, mở đầu cuộc xâm lược nước ta. Sau khi bình định xong nước ta về mặt quân sự, chúng ráo riết tiến hành liên tiếp các cuộc khai thác thuộc địa nhằm bóc lột về kinh tế. Điều này đã dẫn đến sự thay đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong cơ cấu xã hội Việt Nam và ý thức hệ tư tưởng của con người. Văn hóa Pháp, văn hóa châu Âu theo bước chân bọn xâm lược đã ảnh hưởng vào Việt Nam, trong đó hạt nhân của nó là tư tưởng đề cao tự do cá nhân đã có tác động không nhỏ tới cảm xúc, suy nghĩ của người trí thức. Về mặt nghệ thuật, chủ nghĩa lãng mạn phương Tây (cùng một số trào lưu khác sau đó như tượng trưng, siêu thực) xuất hiện từ một thế kỷ trước đó đã để lại dấu ấn rõ nét và tạo nên một trào lưu nghệ thuật mới trong văn chương, hội họa, âm nhạc Việt Nam, trong đó mạnh mẽ nhất vẫn là ở lĩnh vực văn chương kể từ đầu thập niên 1930 trở đi. 1.2. Sau ngày 17/6/1930, Nguyễn Thái Học và 12 yếu nhân của Việt Nam Quốc dân đảng lên đoạn đầu đài ở Yên Bái, Pháp đẩy mạnh việc đàn áp khủng bố, bắt bớ tù đày các nhà ái quốc, dập tắt khởi nghĩa. Các phong trào yêu nước cách mạng tạm thời lắng xuống, rút vào hoạt động bí mật. Cuộc khủng bố quy mô toàn quốc những năm 1930 đã gây một không khí hoang mang, lo sợ trong các tầng lớp thanh niên trí thức. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 từ “mẫu quốc” Pháp tràn về Đông Dương thuộc địa như một thiên tai, cuộc sống của mọi tầng lớp nhân dân ngày càng trở nên khó khăn. Điều này càng làm tăng thêm bi quan cho bầu không khí u ám buồn thảm vốn có. 1.3. Trong bối cảnh đó, những người trí thức ấp ủ tinh thần dân tộc mang tâm trạng chán nản, muốn thoát ly thực tại, xa lánh đời sống chính trị. Lại sẵn ảnh hưởng của tư tưởng tự do cá nhân, họ tạo ra những tác phẩm văn chương với nội dung và mục đích thoát ly thực tại, đào sâu vào thế giới của “cái tôi nội cảm”. Những tác phẩm này được gọi là văn học lãng mạn. Như vậy, sự ra đời của trào lưu văn chương lãng mạn ở Việt Nam giai đoạn 1930 -1945 có tiền đề từ thực tế xã hội cùng nhu cầu bức thiết giải phóng cá nhân, giải quyết được tình trạng bế tắc của giới trí thức trong bối cảnh xã hội bi quan đó. Con đường làm văn học nghệ thuật bằng chủ nghĩa lãng mạn là lối thoát trong sạch, là nơi trú ẩn tương đối an toàn có thể gửi gắm tâm sự, cũng là phương cách để bày tỏ lòng yêu nước. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan