Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ (đề tài cấp bộ) nghiên cứu đa dạng sinh học thực vật rừng thông ba lá (pinus kes...

Tài liệu (đề tài cấp bộ) nghiên cứu đa dạng sinh học thực vật rừng thông ba lá (pinus kesiya) mọc tự nhiên ở lâm đồng và vùng lân cận

.PDF
101
459
119

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT BÁO CÁO ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG SINH HỌC THỰC VẬT RỪNG THÔNG BA LÁ (PINUS KESIYA) MỌC TỰ NHIÊN Ở LÂM ĐỒNG VÀ VÙNG LÂN CẬN MÃ ĐỀ TÀI B 2009 – 14 – 30 CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI: ThS. NGUYỄN DUY CHÍNH NHỮNG NGƯỜI THỰC HIỆN: -TRẦN VĂN TIẾN, Trung tâm Nghiên cứu Lâm Sinh Lâm Đồng -HUỲNH THỊ NGỌC ÁNH, Trường Đại học Phú Yên -VƯƠNG THÚC LAN, Trường Đại học Đà Lạt -NGUYỄN VĂN NGỌC, Trường Đại học Đà Lạt -HUỲNH THỊ BÌNH, Trường Đại học Đà Lạt 1 TÓM TẮT Sử dụng phương pháp ô xếp chồng để xác định diện tích thích hợp của ô tiêu chuẩn đủ để nghiên cứu đa dạng sinh học ở kiểu rừng thông ba lá mọc tự nhiên ở Lâm Đồng và vùng lân cận.Các ô xếp chồng có kích thước: 10m x 10m, 15m x 15m, 20m x 20m, 25m x 25m, 30m x 30m, 35mx 35m, 40m x 40m. Ô tiêu chuẩn được xác định với kính thước 35m x 35m lá thích hợp và thực tế nhất cho các nghiên cứu đa dạng sinh học thực vật, đặc biệt là ứng với rừng thông ba lá (Pinus kesiya) mọc tự nhiên ở Lâm Đồng và các vùng lân cận trên các đai cao độ từ 800m đến 2000m. Trong các nghiên cứu của chúng tôi, tổng số ô tiêu chuẩn được thực hiện là 20 ô, mỗi ô tiêu chuẩn đều được ghi nhận tọa độ địa lý (vĩ độ, kinh độ), độ cao, độ dốc, hướng dốc, thành phần loài, dạng sống, số lượng cá thể và chỉ số đa dạng Margalef. Từ các kết quả đó chúng ta có được chỉ số đặc trưng chung về đa dạng sinh học (chỉ số trung bình), thành phần loài và đa dạng dạng sống của kiểu rừng này. Chỉ số Margalef trung bình (DMarg) được chỉ ra là 3,76. Thành phần loài khá giàu và đa dạng, bao gồm 244 loài thuộc 179 chi, 68 họ của 4 ngành thực vật mạch (Lycopodiphyta, Poplypodiophyta, Pinophyta. Magnoliophya). Có 8 loài được ghi trong sách đỏ Việt Nam. Có 8 dạng sống trong đó: Megaphanerophytes (0,82) Microphanerophytes (9,01) Nanophanerophytes (18,44), Chamaephytes (27,46), Therophytes (27,05), Lianophanerophytes (6,15), Cryptophytes (6,65), Epiphytes (4,51). Từ khóa: Ô xếp chồng, ô tiêu chuẩn, đa dạng sinh học, thông ba lá, chỉ số Margalef, thành phần loài, dạng sống, Lâm Đồng. 2 SUMMANY The paper present a method of using superposed plots to identify the most suitable area of perquadrates for the research into the biodiversity of the natural three – leaved Pine forests distributed among Lam Dong and its subareas. The sizes of the superposed plots are: 10m x 10m, 15m x 15m, 20m x 20m, 25m x 25m, 30m x 30m, 35m x 35m, 40m x 40m. The 35m x 35m sized perquadrates are suggeted to be the most appropriate and most pratical for researchs of plant biodiversity, especially thoes of the three – leaved pine forests (Pinus kesiya) naturally grown in Lam Dong and the its subareas with the altitude from 800m to 2000m. In our researches, the total number of perquadrates is 20. Each perquadrate has a record of its own indices including: geological co-ordinate (latitude and longitude), alttitude, gradient, klinogeotropicsm, species composition, life form, number of individuals, Margalef index. From the results we have specific index of biodiversity for natural three-leaved pine forests, species composition and diversity of the life form in the forests. The everage Margalef index (DMarg) is 3,76.The species composition is rather rich and diverse, including 244 species, 179 genera,68 families of 4 vascular plant phyta (Lycopodiophyta, Polypodiophyta, Pinophyta, Magnoliophyta). There are 8 species which have been recorded in Red Data Book of Viet Nam. There are 8 life forms, including: Megaphanerophytes (0,82%), Microphanerophytes (9,01%), Nanophanerophytes (18,44%), Chamaephytes (27,46%), Therophytes (27,05%), Lianophanerophytes (6,15%). Cryptophytes (6,56), Epiphytes (4,51%). KEY WORDS: Superposed plot, Perquadrate, Biodiversity, Margalef Index, Three – leaved pine forest, Species composition, Life form, Lam Dong. 3 MỞ ĐẤU Ngày nay đa dạng sinh học đã trở thành mối quan tâm lớn của con người trên khắp hành tinh.Ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về đa dạng sinh học ở các cấp độ khác nhau. Những nghiên cứu về đa dạng di truyền của Nguyễn Hoàng Nghĩa…, Những nghiên cứu về đa dạng loài của Nguyễn Tiến Bân, Nguyễn Nghĩa Thìn…, Những nghiên cứu về đa dạng hệ sinh thái của Thái Văn Trừng và cả những công trình đồ sộ của Phạm Hoàng Hộ. Tất cả đã chứng tỏ Việt Nam là nước đa dạng về sinh vật. Sự giàu có về sinh vật đó được tàng chứa trong các kiểu thảm thực vật khác nhau. Lâm Đồng là tỉnh miền núi với nhiều kiểu địa hình ở các đai cao độ khác nhau, có các kiểu thảm thực vật khác nhau trong đó kiểu rừng thưa cây lá kim của loài thông ba lá (Pinus kesiya) là điển hình nhất cho thảm thực vật nơi đây. Rừng thông ba lá ở Lâm Đồng có khoảng 192,320 ha, trong đó khoảng 148.000 ha là rừng thông mọc tự nhiên ở các đai cao độ từ 800 m đến 2.000m. Số công trình nghiên cứu có liên quan đến đa dạnh sinh học rừng thông ở đây còn ít và nhìn chung chưa đủ để phản ánh đa dạng thực vật của kiểu rừng này. Để có được kết quả về đa dạng thực vật của rừng thông, cần thiết lập các ô tiêu chuẩn. Song kích thước lớn vừa đủ của ô là bao nhiêu thì thích hợp, thì đủ phản ánh tính đa dạng sinh học của kiểu rừng này. Đó là vấn đề cần đặt ra khi ta phải nghiên cứu ở các địa hình chia cắt mạnh, có độ dốc lớn. Đồng thời cần thiết lập nhiều ô trên nhiều cao độ để kết quả nghiên cứu phản ánh khái quát nhất đa dạng sinh học thực vật của kiểu rừng thông ba lá ở Lâm Đồng. 4 PHẦN 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU I. SƠ LƯỢC VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN CỦA LÂM ĐỒNG 1. Vị trí địa lý. Lâm Đồng là tỉnh miền núi nằm ở phía Nam Tây Nguyên, là đầu nguồn của 4 hệ thống sông lớn: Sông Đồng Nai (Đồng Nai) Sê – rê – pok (Đắc Lắk) Sông Lũy (Bình Thuận) Sông Cái (Ninh Thuận) Lâm Đồng có vị trí địa lý như sau: Phía Bắc giáp tỉnh Đắk Lắk Phía Tây Bắc giáp tỉnh Đắk Nông Phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Đồng Nai và tỉnh Bình Phước Phía Nam giáp tỉnh Bình Thuận Phía Đông giáp tỉnh Ninh Thuận và Khánh Hòa Lâm Đồng nằm giữa các tọa độ địa lý: Từ 11012/47// đến 12019/01// vĩ độ Bắc Từ 107016/23// đến 108042/11// kinh độ Đông Theo niên giám thống kê năm 2005 của tỉnh Lâm Đồng thì diện tích toàn tỉnh là 977.219 ha, chiếm khoảng 2,9% diện tích cả nước. 2. Địa hình địa thế. Địa hình là một hình thể phản ánh yếu tố địa chất và quá trình địa mạo, do đó gắn liền với nguồn gốc địa chất và tuổi khu vực, địa hình tỉnh Lâm Đồng nhìn chung thuộc dạng vùng núi, từ núi thấp, núi trung bình đến núi cao. Độ cao núi thay đổi từ 200m đến 2.200m. Địa hình Lâm Đồng nghiêng dần từ hướng Đông Bắc xuống hướng Tây Nam. Như vậy đặc điểm nổi bật của địa hình Lâm Đồng là nghiêng, tạo nên sự phân bậc rõ ràng, tạo nên các đai đội cao khác nhau với rất nhiều đỉnh núi cao như Bidoup (2.287m), Langbiang (2.167m), Chư You Kao (2.006m), M’Neun Ro (1996m), Be Nom Dan Seng (1.931m), Braion (1.874m), Quan Du (1.805m), Chư Yên Du (1.784m), M’ Neun Pautar (1.664m), M’Neun Lamleo (1.623m). Trong mối quan hệ với địa chất địa mạo, có thể phân chia địa hình của tỉnh Lâm Đồng ra các dạng sau: 5 + Địa hình thung lũng: Gồm các bề mặt tương đối bằng phẳng, ít dốc, có nguồn gốc tích tụ thung lũng giữa núi hoặc các bồi tích sông suối hiện đại. Đất ở đây tùy thuộc vào nguồn gốc mẫu thổ và mức độ bảo hòa nước mà được xếp vào các loại đất phù sa, dốc tụ hoặc đất gley và hầu hết có khả năng thích hợp cao cho sự phát triển của nhiều loại cây dạng hòa thảo, cây một năm hay cây tái sinh chồi lâu năm. + Địa hình đồi núi thấp đến trung bình: Đây là kiểu địa hình có các dãi đồi núi ít dốc, thường thì dốc có độ dốc nhỏ dưới 200 và có độ cao nhỏ dưới 800m đến 1.000m. Ở dạng địa hình này phần nhiều là các đồi núi có nguồn gốc phun trào bazan với nền đất nâu đỏ hoặc nâu vàng trên đá mẹ bazan. + Địa hình núi cao: Đây là kiểu địa hình ở các khu vực núi có độ cao trên 800m, thường có độ dốc mạnh trên 200, là kiểu địa hình chia cắt mạnh. Chủ yếu là các khu vực có nguồn gốc xâm nhập JuraCreta (Granit, Dacit hoặc Andezit), hay các trầm tích Mesozoi (phiến sa, phiến sét). Ở dạng địa hình này phổ biến là các loại đất vàng đỏ, đỏ vàng hay đất xám trên các đá magma acit trung tính hoặc đá phiến. Đất ở đây phần lớn là có tầng mỏng. Chính do có độ dốc lớn, có nhiều vùng độ dốc trên 300, lại có tầng đất mỏng, cho nên ở địa hình núi cao chỉ thích hợp cho cây trồng lâm nghiệp, cây gỗ và phần lớn diện tích ở đây có rừng che phủ. 3. Khí hậu thủy văn. Tỉnh Lâm Đồng có chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa. Tuy nhiên như phần trên đã đề cập, tỉnh Lâm Đồng có diện tích lớn, được chia thành nhiều kiểu địa hình với các đai độ cao rất chênh lệch nhau từ 100 đến 2.200m. Ở đây có 2 Cao Nguyên lớn là Cao nguyên Langbiang và Cao nguyên Di Linh – Bảo Lộc. Cao nguyên Langbiang hay còn gọi là Bình Sơn Langbiang được bao bọc bởi các dãy núi hình cánh cung về phía Tây, Bắc và Đông có độ cao khoảng 2.000m. Cao nguyên này có dạng thung lũng và thấp dần về phía Nam. Còn Cao nguyên Di Linh – Bảo Lộc có dạng thung lũng cổ trải trên diện tích rộng lớn với độ cao trung bình từ 800 đến 1.000m, xen lẫn là một số dãy núi cao như Braian. Chính do địa hình ở từng đai cao độ vốn đã bị chia cắt rất mạnh bởi các khối núi lớn, nhỏ, Lâm Đồng lại có nhiều đai độ cao, với độ chênh lệch độ cao lớn, cho nên tuy nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nhưng chế độ khí hậu bao gồm chế độ bức xạ, chế độ nhiệt độ, chế độ ẩm độ và lượng mưa, số ngày mưa, lượng bốc hơi, số giờ nắng… là không đồng nhất. a) Chế độ bức xạ Bức xạ tổng cộng ở Bảo Lộc là 128,0 kcal/cm2/năm. Trong khi đó bức xạ tổng cộng ở Liên Khương là 139,9 kcal/cm2/năm. 6 b) Nhiệt độ không khí Nhiệt độ không khí trung bình năm ở Đà Lạt là 17,90C. Trong khi đó nhiệt độ trung bình năm ở Bảo Lộc là 21,90C, ở Liên Khương là 21,20C. Nhiệt độ tối cao ở Bảo Lộc là 33,50C, còn ở Đà Lạt là 29,40C. Nhiệt độ tối thấp ở Đà Lạt là 4,90C, còn ở Bảo Lộc là 5,50C. Nhìn chung nhiệt độ chênh lệch nhau giữa các tháng ở từng vùng là không nhiều, nhưng chênh lệch nhiệt độ ngày đêm lại cao, đặc biệt là ở Cao nguyên Langbiang, chế độ nhiệt cũng thuận lợi cho sự phát triển của nhiều loại thực vật, đặc biệt chế độ nhiệt ở 2 Cao nguyên: Cao nguyên Di Linh – Bảo Lộc và Cao nguyên Langbiang rất phù hợp cho sự phát triển các loài cây lá kim, trong đó có loài thông ba lá (Pinus Kesiya). c) Chế độ mưa Lượng mưa trung bình năm ở Đa Tẻh là 3.790mm, ở Bảo Lộc là 2.722mm, ở Di Linh là 1.721mm, ở Đà Lạt là 1 1.821mm, ở Lạc Dương là 1.811mm. Số ngày mưa trung bình ở Bảo Lộc là 191 ngày, ở Liên Khương là 160 ngày, còn ở Đà Lạt là 167 ngày. Nhìn chung chế độ mưa cho phép ở Lâm Đồng phát triển nhiều kiểu thảm thực vật của vùng mưa nhiệt đới. Số ngày mưa các tháng 7, 8, 9, dao động từ 25 - 28 ngày. Các tháng 1, 2 số ngày mưa vượt không quá 4 ngày, các tháng còn lại số ngày mưa trung bình vào khoảng 4 đến 20 ngày. Mùa mưa tập trung nhiều từ tháng 5 đến tháng 10. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4. Trong mùa khô, do ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc nên Lâm Đồng mưa rất ít, lượng mưa chỉ chiếm 10 – 15% lượng mưa cả năm. Chính đặc điểm này đã tạo điều kiện cho sự phát triển kiểu rừng thưa cây lá kim có loài thông ba lá (Pinus Kesiya) là ưu thế. d) Độ ẩm không khí Do đặc điểm về vị trí địa lý và địa hình mà độ ẩm ở các vùng khác nhau trong tỉnh Lâm Đồng khác nhau. Độ ẩm tương đối của không khí vào mùa mưa khá cao (80 – 90%), vào các tháng 6, tháng 7, tháng 8 và tháng 9 độ ẩm không khí là lớn nhất (90%). Các tháng mùa khô độ ẩm không khí khoảng 65 – 75% ở Đà Lạt, 70 – 78% ở Liên Khương. e) Ánh sáng Ánh sáng là một trong các yếu tố sinh thái ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động sống, quy định phân bố của các loài thực vật. Chế độ chiếu sáng cũng khác nhau ở các vùng khác nhau ở Lâm Đồng. 7 Số giờ nắng trong năm tính trung bình cho vùng Bảo Lộc là 1.988 giờ. Trong khi đó ở Đà Lạt là 1.868 giờ, còn ở Liên Khương là 2.268 giờ. Số ngày có sương mù ở Bảo Lộc là 85 ngày, ở Liên Khương là 30 ngày. Lâm đồng là nơi có ngày ngắn, vào các tháng khác nhau cũng có thời gian chiếu sáng là khác nhau. Từ tháng 4 đến tháng 9 thời gian chiếu sáng trung bình trong ngày là 9 – 10 giờ, các tháng khác thời gian chiếu sáng là 10 – 12 giờ. Nhìn chung chế độ chiếu sáng phù hợp cho việc phát triển thảm rừng thông ba lá là loài cây ưa sáng. f) Sông suối và thủy văn Nằm trong khu vực địa hình núi cao chia cắt mạnh và có lượng mưa lớn, nên mạng lưới sông suối ở Lâm Đồng khá phong phú. Số lượng sông suối có chiều dài vượt trên 10km trong phạm vi toàn tỉnh lên tới gần 60km. Trong đó có một số sông, suối lớn như sông Đồng Nai, sông Đa Nhim, sông Đạ Dâng, sông Đạ Tam, sông Đại Nga, sông Đạ Tẻh, sông Tamat, suối Katch, suối Đanian, suối Đa Nhau, suối Đa Plaite… Mật độ lưới sông suối thay đổi khoảng 0,28 – 1,1km chiều dài/km2 với diện tích theo thống kê khoảng 15.500ha. Sông suối Lâm Đồng nhìn chung có bậc thềm sông hẹp, sườn dốc, nhiều thác ghềnh, dòng chảy mạnh và phân bố không đều trong năm. Modul dòng chảy toàn năm dao động từ 18 – 20/s/km2, vào mùa mưa lũ thường từ tháng 7 đến tháng 11, lưu lượng ở một số sông suối chính ứng với tần suất 1% lên đến 1.000 – 5.000m3/s, gây lũ lụt nghiêm trọng. Trong khi đó vào mùa kiệt, từ tháng 1 đến tháng 3, modul dòng chảy kiệt chỉ đạt 0,25 đến 9,1/s/km2, hạn chế đến khả năng cung cấp nước cho thực vật. Lượng dòng chảy trung bình mỗi năm ở mỗi khu vực tùy thuộc vào lưu vực, lượng mưa, địa hình và địa chất, có sự khác biệt rõ rệt. Vùng Bảo Lộc – Đạ Hoai 39 – 40/s/ km2 Vùng Đà Lạt – Đức Trọng 23 – 28/s/ km2 Vùng Đơn Dương 23 – 24/s/ km2 Lượng dòng chảy kiệt do còn phù thuộc vào mức độ độ che phủ của thảm thực vật. Lượng dòng chảy sẽ ảnh hưởng đến tình hình xói mòn. Lâm Đồng là một tỉnh miền núi, có địa hình khá phức tạp, địa hình nhiều nơi chia cắt mạnh, độ dốc lớn, vì vậy đất dễ bị xói mòn, rửa trôi, nhất là các vùng không có rừng che phủ. Hiện tượng xói mòn phổ biến là xói mòn khe, rãnh trên diện tích hẹp. 8 Lũ lụt thường xảy ra vùng hạ lưu sông Đồng Nai gây úng lâu dài cho các vùng Cát Tiên, Đạ Hoai, Đạ Tẻh, nơi có địa hình rất thấp trũng. 4. Thổ nhưỡng Tỉnh Lâm Đồng có diện tích 977.219 ha với 8 nhóm đất như sau: + Nhóm đất phù sa (Flavisols) Đây là nhóm đất được tạo nên do sự bồi lắng của sông suối. Tính chất đất thay đổi phụ thuộc vào sản phẩm phong hóa của mẫu chất tạo thành đất ở vùng thượng nguồn của từng lưu vực, thời gian và điều kiện bồi lắng. Nhóm đất này gồm: Đất phù sa chua, đất phù sa giàu mùn, đất phù sa glây. + Nhóm đất glây (Gleysols) Nhóm đất này được hình thành ở vùng địa hình trũng, mực nước ngầm nông, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình khử đất. Đất co màu xanh, có nguồn gốc thủy thành. Nhóm này gồm đất glây đọng nước nhân tác, đất glây có tầng sỏi sạn nông, đất glây giàu mùn, đất glây có tầng mặt giàu mùn. + Nhóm đất mới biến đổi (Cambisols) Nhóm đất này được hình thành trong điều kiện rửa trôi, feralit hóa, gley hóa đang ở mức độ thấp của các quá trình đó. Nhóm đất này gồm: Đất mới biến đổi đọng nước tự nhiên, đất mới biến đổi chung đất mới biến đổi giàu mùn, đất mới biến đỏi tầng mỏng đọng nước. + Nhóm đất đen (Lavisols) Nhóm đất này được hình thành do quá trình rửa trôi tích lũy sét. Nhóm đất này gồm: Đất đen giàu mùn, đất đen chua, đất đen glây có tầng đỏ vàng loan lổ. + Nhóm đất đỏ Bazalt (Ferralsols) Đây là nhóm đất chiếm diện tích lớn ở Lâm Đồng. Nhóm đất này được hình thành do phong hóa khoáng sét, hình thành các khoáng hoạt tính thấp, không có khả năng phong hóa tiếp như Kaolinit, tích lũy các oxit Fe, Al… Nhóm đất này gồm: Đất đỏ chua giàu mùn, đất đỏ chua nghèo bazơ, đất đỏ chua tầng mặt giàu mùn, đất đỏ sỏi sạn sâu, đất đỏ sỏi sạn nông. 9 + Nhóm đất xám (Acrsols) Đây là nhóm đất lớn nhất, chiếm đến 2/3 diện tích đất toàn tỉnh Lâm Đồng, phân bố ở hầu hết các huyện trong tỉnh, từ địa hình núi cao đến địa hình gò đồi thấp trũng và thung lũng, trên các loại đá mẹ. Nhóm đất này gồm nhiều loại đất như: Đất xám đỏ vàng, đất xám có tầng thảm mục, đất xám giàu mùn tích Al, đất xám glây, đất xám nghèo bazơ, đất xám rất chua đỏ vàng, đất xám tầng mặt giàu mùn, đất xám tầng mỏng. + Nhóm đất mùn trên núi cao (Alisols) Nhóm đất này gặp trên núi cao trên 2.000m vì vậy diện tích nhỏ. Với đặc trưng được hình thành trong điều kiện nhiệt độ thấp, độ ẩm cao quanh năm. + Nhóm đất bị xói mòn mạnh (Leptosols) Nhóm đất này đặc trưng là độ dày tầng đất rất mỏng, đất mịn, chủ yếu ở vùng gò đồi, diện tích rất nhỏ. 5. Đất rừng và rừng Tổng diện tích tự nhiên tỉnh Lâm Đồng từ 1.017.260 ha vào năm 1992, nay điều chỉnh còn 977.219 ha (Theo niên giám thống kê năm 2005 của tỉnh Lâm Đồng). Như vậy diện tích giảm 40.041 ha, nguyên nhân là do thực hiện chỉ thị 364/CP ngày 06/01/1991 của Chính phủ và Công văn số 341/TCCP – ĐP ngày 03/10/1996 của Ban tổ chức chính phủ về việc công nhận hồ sơ bản đồ địa giới hành chính các cấp tỉnh Lâm Đồng, theo đó đã điều chỉnh một số diện tích đất sang cho tỉnh Đắk Lắk, tỉnh Ninh Thuận, tỉnh Bình Thuận. Diện tích đất có rừng của tỉnh Lâm Đồng là 607.280 ha, trong đó diện tích rừng tự nhiên là 557.857ha và diện tích rừng trồng là 49.423 ha. Như trên đã đề cập, do điều kiện tự nhiên, đặc điểm về địa hình phong phú, chế độ khí hậu, thủy văn đa hình thể đã cho phép ở Lâm Đồng phát triển nhiều kiểu thảm thực vật khác nhau với nhiều kiểu rừng khác nhau: Rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới. Theo Richard thì những vùng lãnh thổ nằm ở vành đai nhiệt đới thường có lượng mưa cao, và khi lượng mưa vượt quá giới hạn 1.500mm trong năm, sẽ cho phép các thực vật phát triển mạnh và tạo ra kiểu rừng mưa nhiệt đới. Ở phần trên đã đề cập, tất cả các vùng ở Lâm Đồng đều có lượng mưa lớn, vượt xa giới hạn này, thường thì từ 1.800mm đến 2.400mm năm. Vả lại đều thuộc đai vĩ độ 110 vĩ Bắc. Vì vậy kiểu rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới gặp phổ biến ở Lâm Đồng, ở tất các đai độ cao, ở tất cả các địa phương (các huyện) đều có sự che phủ của kiểu rừng này. 10 Rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới với các đặc trưng rất đa dạng về thành phần loài, rất đa dạng về dạng sống, cấu trúc phân tầng gồm nhiều tầng. Về thành phần loài trong một quần xã có đến vài trăm loài thực vật, thuộc về vài chục họ của nhiều ngành thực vật như: Bryophyta, Lycopodiophyta, Equisetophyta, Polypodiophyta, Gymnospermae, Angiospermae. Các loài cây có thể chỉ gặp ở các vùng thấp hay núi vừa như các loài thuộc họ dầu (Dipterocarpaceae), họ Bằng Lăng (Lythraceae). Hay nhiều loài chỉ gặp phân bố ở các đai cao, như các loài họ Đỗ Quyên (Ericaceae), họ Chè (Theaceae) hay các loài họ Dẻ (Fagaceae), các loài họ Long Não (Lauraceae). Về cấu trúc quần xã thực vật của kiểu rừng này thường có cấu trúc 5 tầng: - Tầng gỗ lớn (A1): Như Trăm (Syzigium), Bời lời (Litsea), Dẻ (Lithocarpus, Quercus, Castanopsis), Côm (Elaeocarpus)… - Tầng gỗ nhỏ (A2): Gỗ Tăm (Ostoides), Mã nạng (Marcaranga), Thị rừng (Diospyros), Ficus, Fagaceae,… - Tầng gỗ nhỏ (A3): Một số loài thuộc Rubiaceae, một số loài thuộc Myrtaceae, Melastomataceae, Ericaceae, Theaceae,… - Tầng cây bụi (B): Gồm nhiều loài thực vật của cả lớp Magnoliopsida lớp Liliopsida như: Cau chuột (Pinanga), Mây (Calamus), một số loài cây họ cây Cà phê (Rubiaceae), họ Quả nổ (Acanthaceae), họ Nhân sâm (Araliaceae), loài đu đủ rừng (Thevesia Palmata)… - Tầng cỏ (C): Với đặc trưng là thưa thớt, tầng này không phủ kín bề mặt, độ che phủ khoảng 10%. Tuy nhiên các loài cây cũng khá đa dạng như: Quyến bá Selaginella thuộc ngành Lycopodiophyta, Rêu tóc trắng Leucobrium thuộc ngành Bryophyta, các Dương xỉ chi Pteris, Adiantum, Antrophyum, Crypsinus thuộc ngành Polypodiophyta, nhiều loại thuộc magnoliophyta. Bên cạnh đó, đan xen với các loài cây và các tầng, có tầng dây leo thuộc một số họ thực vật như Cucurbitaceae, Vitaceae… Ở kiếu rừng thường xanh mưa mùa nhiệt đới này còn được đặc trưng bởi các hiện tượng : hiện tượng cây có bạnh vè như cây Sôloan (slonea) , cây Côm (Elaeocarpur) thuộc họ Elaeocarpaceae, một số loài họ Đào lộn hột Anacardiaceae… hiện tượng bóp cổ cũng rất phổ biến ở kiển rừng này. Rừng kín thường xanh hỗn giao cây lá rộng, lá kim. Kiểu rừng kín thường xanh hỗn giao cây lá rộng, lá kim mưa mùa nhiệt đới phát triển trên núi cao thường gặp trong các rừng trên núi cao, có đai độ cao cao trên 1000m, càng lên 11 các đai núi cao kiểu này càng thường gặp. Đặc biệt là các vùng núi cao trên 1.600m, mà điển hình là ở vườn quốc gia Bidoup - Núi Bà. Ở vườn quốc gia Bidoup - Núi Bà đầu tiên phải kể đến kiểu rừng hỗn giao giữa các loại cây hạt trần là thông hai lá giẹp (Đucampopinur krempfii) thuộc họ Pinaceae, loài thông năm lá (Pinus dalatensis) rồi kế đến loài Pơmu (Fokienia hodginsii), loài Hồng Tùng (Đacridium Pierei) và một số loài cây lá kim khác hỗn giao với cây lá rộng. Đây là những kiểu rừng nguyên sinh rất đặc biệt, rất có ý nghĩa về môi trường, được trải trên địa hình núi và núi cao rộng lớn, là đầu nguồn của nhiều dòng chảy, nhiều con sông quan trọng. Rừng kín thường xanh với rừng hỗn giao cây gỗ và rừng tre nứa. Đây là kiểu rừng thứ sinh do các loài tren nứa xâm lấn rừng gỗ, thường thì kiển rừng này phân bố nhiều ở vùng thấp, nơi ẩm, ven suối. Ở kiểu rừng này cây gỗ có thể mọc rải rác tạo thành tầng riêng, tầng kia là tre nứa. Kiểu rừng này gặp nhiều ở Đạ Hoai, Đạ Tẻh, Cát Tiên, Lâm Hà, Di Linh… Rừng tre nứa thuần loại Rừng tre nứa thần loại phân bố nơi ẩm, ven suối, chủ yếu gặp ở các vùng có đai độ cao dưới 1000m, tập trung ở Bảo Lộc, Di Linh, Đạ Haoai, Đạ Tẻh, Cát Tiên. Rừng thưa cây lá kim ưa sáng chịa hạn Điển hình của kiểu rừng cây lá kim ưa sang chịu hạn ở Lâm Đồng là kiểu rưng thông ba lá (Pinus kesiya). Rừng thông ba lá phân bố rộng trên các kiểu địa hình khác nhau, ở các đai cao độ khác nhau từ 800m đến 2.000m. Kiểu rừng thông ba lá đã tạo nên nét đặc trưng cho kiểu thảm thực vật ở Lâm Đồng, có thể nói Lâm Đồng là thủ đô của loài thông ba lá ở Việt Nam. So với kiểu rừng kín thường xanh thì kiểu rừng thông ba lá có thành phần loài không phong phú bằng, ở kiểu rừng thông ba lá chỉ có trên 200 loài, thuộc vài chục họ thực vật. Về cấu trúc phân tầng ở kiểu rừng này cũng đơn giản hơn kiểu rừng kín thường xanh cây lá rộng, rừng thông ba lá chỉ có 3 tầng. Tầng gỗ lớn chỉ có loài thông 3 lá là ưu thế. Tầng gỗ nhỏ có vài chục loài thuộc một số họ thực vật như: Cáp mộc hình sao (Craibiodendrom stellatum), Nem lá liễu (Vaccinium iteophyllum), Đỗ Quyên hoa trắng (Pierris ovalifolia) thuộc họ Ericaceae. Loài thân tán (Aporusa serrata), Sóc Dalton (Glochidion daltonii), Me rừng (Phyllanthus embrica) thuộc họ Euphorbiacea. Loài Quercus serrata, Quercus lanata, Quercus setulosa, Lithocarpus dealbathus thuộc họ Fagaceae. Loài quản hoa (Helicia) họ Proteaceae. Loài dâu rượu (Myrica esculenta) họ Myricaceae… 12 Tầng cỏ bụi có trên 200 loài của hàng loạt họ thực của cả lớp Liliopsida, Magnoliopsida của ngành Magnoliophyta, và của các ngành Lycopodiophyta, Polypodiophyta Pinophyta. Như các loài Mua lông (Melastoma saigonensis), các loài của họ Asteraceae, Fabaceae, Poaceae… Bên cạnh kiểu rừng thưa cây lá kim của loài thông ba lá (Pinus kesiya) chiếm diện tích lớn, phân bố rộng rãi ở Lâm Đồng, còn gặp kiểu rừng thông hai lá (Pinus merkusii) với diện tích không lớn. Thông hai lá còn có thể hỗn giao với loài dầu Trà ben (Dipterocarpus obtusifolius) thuộc họ Dipterocarpaceae tạo nên kiểu rừng thưa hỗn hợp giao cây lá rộng lá kim. Rừng trồng Kiểu rừng ở Lâm Đồng có thể trồng nhiều một số loài cây gỗ như: Bạch Đàn, Trâm bông vàng, keo tai tượng, dầu. tuy nhiên phần lớn diện tích rừng trồng ở Lâm Đồng là rừng trồng loài thông ba lá. II. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ ĐA DẠNG THỰC VẬT RỪNG THÔNG BA LÁ Ở VIỆT NAM VÀ LÂM ĐỒNG. 1. Tình hình nghiên cứu đa dạng sinh học ở Việt Nam Việt Nam được coi là là nước có đa dạng sinh học cao, là một trong 10 trung tâm đa dạng sinh học quan trọng của thế giới và được thể hiện qua sự phong phú của nguồn gen, số lượng loài, các kiểu cảnh quan, hệ sinh thái và vùng địa lý sinh học. Từ ngàn xưa cho đến nay, đa dạng sinh học của Việt Nam đã và đang góp phần quan trọng không chỉ đối với sự tồn tại và phát triển của thế giới sinh vật mà cả với sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục của con người như: Cung cấp lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, nguồn nguyên liệu cho nhiều ngành công nghiệp. Bên cạnh giá trị kinh tế, đa dạng sinh học còn có giá trị sinh thái, môi trường lớn như: điều hòa nguồn nước, điều hòa khí hậu, chống ô nhiễm môi trường… Một giá trị quan trọng khác của đa dạng sinh học là giúp cho con người tạo nên những nét đẹp về đạo đức, giáo dục thẩm mỹ, nghỉ ngơi, dưỡng sức và tín ngưỡng của mình. Trải qua năm tháng, cùng với những biến cố của lịch sử về chính trị, kinh tế và xã hội, đa dạng sinh học của Việt Nam đã và đang bị suy thoái và sự suy thoái này đang diễn ra với tốc độ rất nhanh trong những năm gần đây. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự suy thoái đa dạng sinh học của Việt Nam, song nguyên nhân cơ bản nhất là mất rừng tự nhiên. Khai thác quá mức và nhận thức về vai trò, giá trị của đa dạng sinh học còn hạn chế. Cuối cùng, cội nguồn của mọi nguyên nhân suy thoái đa dạng sinh học là do mâu thuẫn giữa khả năng cung cấp tài nguyên sinh vật và nhu cầu sử dụng của con người. 13 Như vậy đa dạng sinh học là một trong những tài nguyên quý giá mà không thể lấy các giá trị khác thay thế được, đa dạng sinh học đã trở thành cơ sở cho sự tồn tại và phàt triển của con người và loài người. Nhận thức được giá trị tài nguyên thiên nhiên, thiên nhiên của đa dạng sinh học, loài người cũng nhận thức đến sự cần thiết phải bảo tồn đa dạng sinh học, tăng cường và phát triển nguồn tài nguyên đa dạng sinh học nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng của con người trong thời hiện đại. Để làm được chuyện đó khoa học về đa dạng sinh học càng ngày càng phát triển. Vậy thì cụm từ đa dạng sinh học, hay nói cách khác hơn là thuật ngữ “đa dạng sinh học” có khởi nguyên từ đâu. Nếu như trong phân loại học, loài là đơn vị cơ sở (cơ bản) của phân loại, thì trong nghiên cứu đa dạng sinh học, loài cũng được hiểu như đơn vị cơ sở là gốc gác cho mọi hoạt động nghiên cứu đa dạng sinh học. Các nhà phân loại học từ các thế kỷ trước, khắp các nơi trên thế giới đã tiến hành các hoạt động phân loại, tạo nên các hệ thống phân loại, phân chia và công bố các loài trong các hệ thực vật ở khắp các nước trên thế giới. Đến nay loài người đã có một hệ thống tri thức khổng lồ về các hệ sinh vật ở mọi nơi trên thế giới và riêng ở Việt Nam cũng vậy. Và chính các hệ thống tri thức về các hệ thực vật, hệ động vật, hệ sinh thái đã là tri thức về đa dạng sinh học. Nói như vậy khoa học về đa dạng sinh học đã có mầm móng và đã lấy khoa học phân loại làm nền móng. Ở Việt Nam, ngay từ những năm 1879 – 1899, Pierre đã viết cuốn “Thực vật chí rừng Nam Bộ với dung lượng 400 trang được xuất bản ở Pari”. Kế đó hàng loạt các tác giả người Pháp như Petelot, Poilane, Chevalier, Gagnepain… đã dày công nghiên cứu hệ thực vật Việt Nam từ những năm 1907 đến 1937 và cho ra đời bộ “Thực vật chí đại cương Đông Dương” gồm 7 tập, được xuất bản ở Pari do H.Lecomte chủ biên. Trong bộ “Thực vật chí đại cương Đông Dương” có rất nhiều loài thực vật bậc cao thuộc hàng loạt các họ thực vật được mô tả kỹ lưỡng. Bộ sách ra đời cùng các bảo tàng thực vật lưu trữ các mẫu vật thu thập ở Lâm Đồng đã trở thành nền tảng cho những công cuộc nghiên cứu thực vật ở Việt Nam cho các tác giả về sau đó, chủ yếu là các tác giả người Việt Nam. Các bảo tàng hiện vẫn lưu trữ các mẫu vật đó, đã trở thành kho tư liệu quý giá như: Bảo tàng thực vật thành phố Hồ Chí Minh – 85 Trần Quốc Toản, Phòng Bách thảo thực vật thuộc Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là trường Đại học Bách khoa tự nhiên thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội). Sau này, từ năm 1960 đến 2001, hàng loạt các tác giả khác đã tiếp tục nghiên cứu và bổ sung các họ chưa được “Thực vật chí đại cương Đông Dương” đề cập. Các tác giả đó đã cho ra các tập khác nhau trong bộ “Hệ thực vật Cambốt, Lào và Việt Nam” do A.Aubreville 14 và J.Leroy, Ph.Morat là chủ biên, trong đó đề cập, bổ sung hàng loạt các loài, các họ thực vật cho hệ thực vật Việt Nam. Những năm từ 1969 đến 1976 dưới sự chủ biên của Lê Khả Kế, nhiều nhà nghiên cứu thực vật như Võ Văn Chi, Phan Nguyên Hồng, Lê Khả Kế… đã công bố 7 tập bộ “Cây cỏ thường thấy ở Việt Nam”. Trong khi đó từ năm 1970 đến 1972 Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã công bố bộ “Cây cỏ miền Nam Việt Nam” gồm 2 tập. Sau này Giáo sư Phạm Hoàng Hộ lại công bố tiếp 3 tập của bộ “Cây cỏ Việt Nam” vào năm 1991 – 1993 tại Montreal. Đến năm 1999 – 2000 nhà xuất bản trẻ thành phố Hồ Chí Minh đã tái bản bộ “Cây cỏ Việt Nam” của Giáo sư Phạm Hoàng Hộ. Đây là bộ sách đồ sộ, được nhiều người nghiên cứu thực vật cả các lĩnh vực liên quan đến thực vật tra cứu một cách rộng rãi và thường xuyên trong bộ “Cây cỏ Việt Nam”; hầu hết các họ thực vật bậc cao của các ngành: Psilophyta, Lycopodiophyta, Equisetophyta, Polypodiophyta, Pinophyta, Magnoliophyta được tác giả đề cập. Trong đó từng loài được mô tả có kèm theo hình vẽ và nhiều thông tin liên quan đến loài mà tác giả đã dày công tập hợp qua quá trình lâu dài trong các nghiên cứu của ông, trong các thu thập tri thức bản địa, trong các thu thập tri thức của nhân loại. Theo Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, Việt Nam là nước có hệ thực vật phong phú vào bậc hàng đầu của thế giới với khoảng 12.000 loài thực vật. Trong số các loài thực vật đó, rất nhiều loài được chỉ ra có phân bố ở Lâm Đồng, hay phân bố ở địa danh nào đó thuộc Lâm Đồng, như phân bố ở Đà Lạt, phân bố ở Bảo Lộc, ở Di linh, Đơn Dương hay phân bố ở Langbiang… Cũng tromg số đó có loài tác giả chỉ ra phân bố trong kiểu rừng thông. Ví dụ: Craibiodendron henryi w.w.sm.var.bidoupensis Smitin.&Pham Hoang Phân bố: Lâm Đồng 2.000m Craibiodendron stellatum (Pierre) w.w.sm. là loài cáp mộc hình sao Phân bố: Vùng núi cao, Đà Lạt, Langbiang. Hay loài chân voi mềm (Elephantopus mollis H.B.K.) Phân bố: Rừng thưa, rừng thông, dựa lộ, thông thường I – XII. Lá non được ăn chứa chất đè nén ung thu, bạch huyết, ức chế vi khuẩn, trị bệnh phổi. Đồng thời tác giả cũng chỉ ra tên đồng nghĩa của loài, ví dụ: Elephantopus mollis H.B.K. (E.bodinieri gagn. E.tomentosus Kosternon L..) Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu hệ thực vật rừng thông ba lá (Pinus kesiya) tuy là một hệ thống thật vật phức tạp, không thật quá giàu loài và với cấu trúc rừng khá đơn giản, song cũng cần rất nhiều tra cứu tư liệu, kể cả những tư liệu không viết khái quát cho hệ thực vật Việt Nam mà mang tính chuyên đề như: Bộ “Cây gỗ rừng Việt Nam” của Viện điều 15 tra quy hoạch rừng gồm 7 tập, hay cuốn sách “Cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” của Đỗ Tất Lợi, hay cuốn “Dược điển cây thuốc Việt Nam” của Võ Văn Chi, là những tài liệu cũng rất hữu ích cho tra cứu, cho so sánh khi gặp những Taxon khó định loại. Lại có những nguồn tài liệu rất gần với những nghiên cứu của chúng tôi như “Danh lục thực vật Tây Nguyên” do Nguyễn Tiến Bàn chủ biên, với sự tham gia của nhiều tác giả cho các ngành, các họ như Phan Kế Lộc, Trần Đình Lý, Nguyễn Tiến Hiệp, Nguyễn Thị Đỏ, Lê Kim Biên… Các loài thuộc các họ thực vật khác nhau được dẫn ra dưới tên gọi khoa học, tên địa phương và nơi phân bố được chỉ rõ ở nhiều địa phương ở Tây Nguyên và Lâm Đồng, chỉ rõ đến các địa danh cụ thể các xã hay ở một ngọn núi nào đó mà các tác giả đã dày công nghiên cứu, thu thập mẫu vật trong một số năm. Để hoàn thiện chính xác về danh pháp của các loài thực vật không thể không nhắc đến tài liệu tra cứu dưới nhan đề “Danh lục các loài thực vật Việt Nam” gồm 3 tập. Tập 1 do Trung tâm nghiên cứu tài nguyên và môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội biên tập, nhà xuất bản nông nghiệp Hà Nội năm 2001. Các tập tiếp theo (tập 2, tập 3) do Giáo sư Nguyễn Tiến Bân là chủ biên soạn. Bộ sách đã đưa ra tên gọi thực vật có uy tín ở Việt Nam tham gia biên soạn. Bộ sách đã đưa ra tên gọi các loài thực vật thật chính xác, bao gồm tên gọi của cả thực vật bậc thập, thực vật bậc cao bao gồm tất cả các ngành ở Việt Nam. Trên đây đã đề cập đến ý nghĩa loài cũng được hiểu như đơn vị cơ bản trong nghiên cứu đa dạng sinh học. Bởi vậy trong nghiên cứu đa dạng sinh học các nguồn tài liệu khác nhau về hệ thực vật, về phân loại thực vật, nói rộng ra là về sinh vật là không thể thiếu khi đề cập, khi thực hiện những nghiên cứu về đa dạng sinh học. Khi mà khoa học kỹ thuật cùng mọi đời sống khác nhau của nhân loại phát triển đến nhựng đỉnh cao như ngày nay chúng ta đang hàng ngày, hàng giờ chứng kiến, thì cũng là lúc hàng loạt các hệ sinh thái trên hành tinh bị phá hủy, bị suy thoái. Hàng loạt các loài sinh vật bị tuyệt chủng, và số đông trong số rất nhiều loài đó đang đứng trên bở bị đe dọa tuyệt chủng. Khi đó thuật ngữ “Đa dạng sinh học” và khoa học về đa dạng sinh học cũng đồng thời ra đời và ngày càng nở hoa kết trái. Từ đó có cả hệ thống các công trình, các nguồn tài liệu về đa dạng sinh học ra đời, đáp ứng các nhu cầu nghiên cứu, nhu cầu bảo tồn đa dạng sinh học ở quy mô thế giới, ở quy mô quốc gia, vùng miền đều có khá đầy đủ. Ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều tài liệu, sách tra cứu và cả những cuốn cẩm nang về đa dạng sinh học. Có thể khái quát rằng ở cả ba cấp độ trong nghiên cứu đa dạng sinh học đuề được thể hiện. Ở cấp độ phân tử đã có những tài liệu đề cập đến từ khái niệm, đến các nội dung cần nghiên cứu các phương pháp nghiên cứu.Điều này được thể hiện trong cuốn “Cẩm nang 16 nghiên cứu đa dạng sinh vật” do nhà xuất bản Nông nghiệp phát hành năm 1997. Hay trong cuốn “Các phương pháp nghiên cứu thực vật” cũng do tác giả Nguyễn Nghĩa Thìn được nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội phát hành. Cũng ở cấp độ phân tử, tức là những nghiên cứu đa dạng về di truyền, càng những năm gần đây càng có thêm những công trình nghiên cứu công bố trên tạp chí của một số tác giả, mà điển hình nhất cho hoạt động này là tác giả Nguyễn Hoàng Nghĩa. Chẳng hạn như: Phân tích đa dạng di truyền loài Giổi xương (Michelia velutina Candolle, Magnoliaceae – Họ Mộc Lan) cho hệ thực vật Việt Nam của Nguyễn Hoàng Nghĩa trong tạp chí khoa học Lâm nghiệp số 3 năm 2009. Hay, phân tích đa dạng di truyền hệ gen nhân của loài Mỡ Hải Nam, trong tạp chí khoa học Lâm nghiệp số 2 năm 2009 của các tác giả Nguyễn Hoàng Nghĩa, Trần Thanh Trăng, Đỗ Tiến Phát, Nguyễn Văn Phượng, Lê Văn Sơn, Chu Hoàng Hà. Hay, trong cuốn “Bảo tồn tài nguyên di truyền thực vật rừng” tác giả Nguyễn Hoàng Nghĩa đã đề cập đến các khái niệm về bảo tồn tài nguyên di truyền, lý do, mục tiêu cần bảo tồn, nguyên nhân mất mát đa dạng di truyền, các hình thức bảo tồn, định hướng nghiên cứu, các số liệu cơ bản ở 10 vườn quốc gia và các loài cấp bảo tồn về tài nguyên di truyền. Ở cấp độ cơ thể tức những nghiên cứu về đa dạng loài, đã có hàng loạt các công trình nghiên cứu, các tài liệu hướng dẫn nghiên cứu. Có thể nói các hoạt động trong nghiên cứu đa dạng sinh học về đa dạng loài là nở rộ nhất Việt Nam? Từ những tài liệu mang tính chất học thuật, các hệ thống lý thuyết, lý luận về đa dạng sinh học, đến những công trình, những bài báo cáo công bố của nhiều tác giả, dưới nhiều góc độ, nhiều mức độ, nhiều cách thể hiện khác nhau về nghiên cứu đa dạng loài. Đã có nhiều tài liệu mang đầy đủ tính học thuật, lý luận về đa dạng sinh học của một số tác giả như Phạm Bình Quyền trong cuốn “Đa dạng sinh học”. Trong đó Phạm Bình Quyền đã đề cập đến hàng loạt những vấn đề, những khái niệm, những thuật ngữ được dùng trong nghiên cứu đa dạng sinh học như: đa dạng sinh học là gì, định lượng đa dạng sinh học, sự phân bố của đa dạng sinh học, sự tuyệt chủng của các loài, nguyên nhân suy thoái đa dạng sinh học và bảo vệ đa dạng sinh học ở Việt Nam… Hay trong cuốn “Cẩm nang nghiên cứu đa dạng sinh vật” Nguyễn Nghĩa Thìn còn nêu nên những phuông pháp nghiên cứu đa dạng loài sau khi đã tập hợp các nguồn tư liệu từ các nước và cả những tổ chức bảo tồn thiên nhiên, hoạt động xung quanh lĩnh vực đa dạng sinh học (IVCN), và cả những thành quả của các tác giả Việt Nam. Bên cạnh các tài liệu dưới hình thức công bố là các tập sách, còn rất nhiều những công bố dưới dạng các bài viết đăng tải trong các tạp chí khác nhau như: Tạp chí sinh học, tạp chí khoa học lâm nghiệp, các tác giả đã đề cập đến đa dạng loài ở các khu vực khác nhau ở Việt 17 Nam. Chẳng hạn như những nghiên cứu về hệ thực vật vườn quốc gia Xuân Sơn của Vũ Xuân Phương trong tạp chí sinh học. hay những nghiên cứu về thành phần loài cây thân gỗ trên hệ sinh thái gò đồi thuộc thuộc huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh Của Đặng Văn Sơn đăng trên tạp chí khoa gọc Lâm nghiệp. Hay các tác giả Nguyễn Duy Chính, Nông Văn Tiếp, Trần Vân Tiến với nghiên cứu thành phần loài cây gỗ phân bố ở Nam Cam Ly, thuộc Cao nguyên Lâm Viên, Lâm Đồng đăng trên tạp chí sinh học. hay những công bố về đa dạng loài cho hệ thực vật Việt Nam của tác giả người Việt và tác giả nước ngoài công bố trên tạp chí nước ngoài như những nghiên cứu và bài bóa cáo của Nguyễn Nghĩa Thìn và D. Harder về đa dạng sinh học của hệ thực vật vùng núi cao Fansipan ở Việt Nam. Ở cấp độ quần thể trong nghiên cứu đa dạng sinh học là đa dạng hệ sinh thái, phải kể đến công trình “Thảm thực vật rừng Việt Nam” cùa Thái Văn Tường với việc phân loại thành các kiểu thảm thực vật và các ưu hợp thực vật trên đất rừng Việt Nam. Trong đó tác giả đã phân chia một cách kỹ lưỡng các kiểu thảm thực vật, dựa trên cơ sở kiến thức sinh thái chắc chắn, kết hợp với quá trình khảo cứu thực đại rất công phu, cộng với sự tổng hợp từ rất nhiều nghiên cứu về sinh thái học thảm thực vật của nhiều tác giả cả trong nước và nước ngoài như: Maurand, Schmid, Schenell, Lương Quy, Vũ Đức Minh, Lý Văn hội… Ở mỗi kiểu thảm thực vật tác giả cũng đề cập đến cấu trúc phân tầng, đến thành phần loài, đến dạng sống… Về dạng sống (hay kiểu sinh hoạt) theo cách phân loại của Raunkiaer, tác giả Thái Văn Trừng đã tạm dùng hệ thống dạng sống của Raunkiaer, một hệ thống hiện nay thông dụng trên thế giới để tiện cho việc so sánh với phổ dạng sống tiêu chuẩn. Vả lại cách chia theo kích thước chiều cao đã là phù hợp với kích thước dạng sống của. Ngoài ra Raunkiaer cũng dùng cả trạng mùa và hiện tượng chồi có bao hay không có bao để chia thêm các dạng phụ trong dạng sống của các cây có chồi trên đất cùng với các dạng đặc biệt. Dạng sống của cây có chồi trên đất tức dạng sống mà trong mùa không thuận lợi cho sự sinh trưởng (mùa tuyết ở vùng ôn đới, vùng hàn đới hay mùa khô hạn ở vùng nhiệt đới), cây không có đủ nước sinh lý để dinh dưỡng bình thường, chồi ngọn của cây ở cao trên mặt đất. Raunkiaer căn cứ vào chiều cao của cây để chia thành bốn dạng chủ yếu. - Megaphanerophytes (Mega), cây to có chồi trên mặt đất, trên 30m. - Mesophanerophytes (Meso), cây vừa có chồi trên mặt đất, từ 8 đến 30m. - Microphanerophytes (Micro), cây nhỏ có chồi trên mặt đất, từ 2 đến 8m. - Nanophanerophytes (Nano), cây thấp có chồi trên mặt đất, dưới 2m. Raunkiaer gộp những cây gỗ có chiều cao trên 8m vào hai dạng trên, tức Megaphanerophytes và Mesophanerophytes vào làm một dạng (có khi là như vậy). 18 Ngoài bốn dạng của cây có chồi trên mặt đất gặp được phổ biến tại khắp các vùng trên trái đất, sau này Raunkiaer còn tìm thấy các dạng sống ở các vùng nhiệt đới ẩm và khô hạn như sau: - Lianes phanerophytes (Liano): Cây có chồi trên mặt đất leo quấn. Đây là một dạng sống rất phổ biến trong rừng cẩm nhiệt đới. Dạng cây leo có thể là thân cỏ hay thân gỗ, song dù là thân gỗ cũng không đủ chất gỗ, nên phải dựa vào những cây khác để vượt lên tầng lớp thích hợp với điều kiện sinh thái của chúng. - Epiphytes phanerophytes (Epi): là dạng sống của những cây có chồi trên đất sống nhờ và sống bám vào cây khác, rất phổ biến trong rừng ẩm nhiệt đới. Dạng này có thề là thân cỏ hay thân gỗ. Những loài cây này không mọc từ đất lên, mà mọc ngay trên thân những cây gỗ to, cây gỗ nhỏ. Trong dạng này, có loài phụ sinh than gỗ, dần dần phát triển lên rất to, ôm lấy thân cây chủ và như sợi dây thòng lọng thắt ghét lại, có thể làm cho cây chủ chết dần. những “cây bóp cổ” trong rừng ẩm nhiệt đới là những loài cây điển hình cho dạng này. - Phanerophytes herbaces (Her): Là dạng sống của các loài cây có chồi trên đất thân cỏ, tức dạng sống mà thân không có chất gỗ. Trong mùa không thuận lợi, chồi ngọn vẫn ở cao trên mặt đất chứ không chết ngang mặt đất như dạng sống có chồi ngang mặt đất. Ví dụ các loài cây tre, cây sẹ, cây chuối, cây cọ không thân và cả những loài cây quyết không thân, không héo chết trong màu không thuận lợi đều thuộc về dạng sống này. - Phanerophytes suculents (Suc.): Là dạng sống của các loài cây có chồi trên mặt đất thân mọng. Dạng sống này thường thấy ở các vùng khô hạn tại Nam Mỹ, Châu Phi. Ví dụ như các loài cây xương rồng, lưỡng long… Sau này Raunkiaer còn dùng thêm yếu tố trạng mùa để phân ra mười hai dạng sống phụ cho bốn dạng lớn của các loài cây có chồi trên mặt đất (Phanerophytes): - SMgo: Cây to có chồi trên đất, thường xanh, không bao. - SMeo: Cây vừa có chồi trên đất, thường xanh, không bao. - SMio: Cây nhỏ có chồi trên đất, thường xanh, không bao. - SNao: Cây thấp có chồi trên đất, thường xanh, không bao. - SMgC: Cây to có chồi trên đất, thường xanh, có bao. - SMeC: Cây vừa có chồi trên đất, thường xanh, có bao. - SMiC: Cây nhỏ có chồi trên đất, thường xanh, có bao. - SNaC: Cây thấp có chồi trên đất, thường xanh, có bao. - DMgC: Cây to có chồi trên đất, rụng lá, có bao. - DMeC: Cây vừa có chồi trên đất, rụng lá, có bao. 19 - DMiC: Cây nhỏ có chồi trên đất, rụng lá, có bao. - DNaC: Cây thấp có chồi trên đất, rụng lá, có bao. Trong khi đó, khi tổng kết các dạng có chồi trên đất vùng nhiệt đới Nam Mỹ thì Cain cho rằng chỉ có sáu kiểu sau đây: MM – (Mega và Mesophanerophytes) MI – (Microphanerophytes) Ns – (Nanophanerophytes) Ep – (Epiphytes phanerophytes) Hp – (Phanerophytes herbaces) Dạng thứ hai là dạng có chồi ngang đất (Chamephytes), dạng sống này trong mùa không thuận lợi, bộ phận trên đất sẽ héo chết, đến chỗ mặt đất một chút, hay ở ngang mặt đất. Dạng sống thứ ba là dạng có chồi mặt đất (hemicryptophytes), tức là dạng sống mà trong mùa không thuận lợi, bộ phận trên đất chết cả. Dạng này thường được tuyết bao phủ trong mùa không thuận lợi. Dạng sống thứ tư là dạng có chồi dưới đất (Crytophytes), tức là dạng sống mà trong mùa không thuận lợi các bộ phận trên đất đều chết. Chồi bén vào những bộ phận nằm dưới đất như củ hay giò. Sau đó Raunkiaer tính phần trăm tỷ lệ các dạng sống. Đó là cơ sở để so sánh các phổ dạng sống ở các vùng khác nhau trên trái đất. Các tác giả nghiên cứu đa dạng sinh học ở Việt Nam cũng dùng thang đánh giá dạng sống dựa trên thang của Raunkiaer. Như Nguyễn Nghĩa Thìn đã nêu ra trong cuốn “Các phương pháp nghiên cứu thực vật” gồm các thang phân chia dạng sống như sau: - Cây chời trên to (Megaphanerophytes): Là các cây gỗ cao từ 25m trở lên như: Sâng, Chò chỉ, Chò xanh, Lim. - Cây chồi trên nhỡ (Mesophanerophytes) gồm nhũng cây gỗ từ 8 – 25m như các loài Gội, Sung, Máu chó, Trường. - Cây chồi nhỏ (Microphanerophytes) gồm những cây gỗ nhỏ cao từ 2 – 8m như các cây Chòi mòi, Dâu da, Ngái, Mận, Đào. - Cây chồi trên lùn (Nanophanerophytes) gồm những cây bụi lùn và lửa bụi, cây hóa gỗ, như các loài thuộc họ Cà phê, Thầu dầu, Ô Rô, Gai dưới tán rừng hay các loài như Bồng bồng, Hoa hồng, Nhài. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan