Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kinh doanh - Tiếp thị Thương mại điện tử đề tài cảm hứng thiên nhiên trong sáng tác của trần nhân tông và huyền quang dướ...

Tài liệu đề tài cảm hứng thiên nhiên trong sáng tác của trần nhân tông và huyền quang dưới góc nhìn so sánh

.PDF
130
338
75

Mô tả:

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan: Những nội dung được trình bày trong luận văn là nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Đoàn Thị Thu Vân. Mọi tham khảo và trích dẫn sử dụng trong luận văn đều ghi nguồn gốc cụ thể (tên tác giả, tên công trình, thời gian công bố). Mọi sao chép không hợp lệ, vi phạm quy chế đào tạo, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Học viên Đinh Thị Đào LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, tập thể thầy cô khoa Ngữ Văn, phòng Sau đại học Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu tại trường. Nhân đây, tôi cũng gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã luôn quan tâm, động viên và chia sẻ với tôi những khó khăn. Đặc biệt, xin gửi lời tri ân sâu sắc nhất tới PGS. TS. Đoàn Thị Thu Vân, người thầy đã tận tâm hướng dẫn và góp ý cho tôi để hoàn thiện luận văn này. Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2015 Học viên Đinh Thị Đào MỤC LỤC Trang bìa phụ Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................... 3 3. Mục đích nghiên cứu .............................................................................................. 12 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 12 5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 13 6. Đóng góp của luận văn ........................................................................................... 13 7. Cấu trúc luận văn .................................................................................................... 14 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .................................................. 15 1.1. Giới thuyết khái niệm .......................................................................................... 15 1.1.1. Cảm hứng ...................................................................................................... 15 1.1.2. Cảm hứng về thiên nhiên .............................................................................. 18 1.2. Trần Nhân Tông và Huyền Quang – Con người, cuộc đời và thơ ca .................. 22 1.2.1. Trần Nhân Tông ............................................................................................ 22 1.2.2. Huyền Quang ................................................................................................ 26 Chương 2. CẢM HỨNG THIÊN NHIÊN TRONG SÁNG TÁC CỦA TRẦN NHÂN TÔNG VÀ HUYỀN QUANG.......................................... 31 2.1. Cảm hứng thiên nhiên trong thơ ca thời Lý - Trần ........................................ 31 2.2. Cảm hứng thiên nhiên trong sáng tác của Trần Nhân Tông ......................... 39 2.2.1. Thiên nhiên trong sáng và u tịch ................................................................... 39 2.2.2. Thiên nhiên hòa trộn giữa thực và hư, thực và mộng ................................... 50 2.2.3. Thiên nhiên khai ngộ tâm hồn người ............................................................ 58 2.3. Cảm hứng thiên nhiên trong sáng tác của Huyền Quang .............................. 65 2.3.1. Thiên nhiên thơ mộng, khoáng đạt và thanh thoát........................................ 65 2.3.2. Thiên nhiên hòa nhập không phân biệt với chủ thể trong trạng thái “quên” 79 2.3.3. Thiên nhiên chan chứa tình người ................................................................ 84 Chương 3. TƯƠNG ĐỒNG VÀ DỊ BIỆT TRONG CẢM HỨNG THIÊN NHIÊN Ở SÁNG TÁC CỦA TRẦN NHÂN TÔNG VÀ HUYỀN QUANG ...................................................................................... 93 3.1. Những nét tương đồng ....................................................................................... 93 3.2. Những nét dị biệt.............................................................................................. 108 KẾT LUẬN .............................................................................................. 118 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 120 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trần Nhân Tông và Huyền Quang được biết đến là hai nhà Thiền học lớn của dân tộc. Trần Nhân Tông trước hết là một vị vua tài ba, người đã lãnh đạo quân dân nhà Trần hai lần đánh bại vó ngựa hung bạo của giặc Nguyên Mông. Trần Nhân Tông còn là người nổi tiếng khoan hòa nhân ái và thương dân hết mực. Dưới sự lãnh đạo của Trần Nhân Tông, triều đại nhà Trần ngày càng ổn định và có những bước phát triển đáng kể. Sau khi đất nước đã ổn định, đời sống nhân dân được ấm no, Trần Nhân Tông truyền ngôi lại cho con trai là Trần Anh Tông và kể từ đây, cuộc đời của Trần Nhân Tông gắn với nghiệp tu hành. Người chuyên tâm vào nghiên cứu Phật học, đi thuyết pháp ở nhiều nơi và đã sáng lập ra dòng thiền Trúc Lâm. Mặc dù không xuất thân từ hoàng tộc như Trần Nhân Tông song Huyền Quang cũng được biết đến là một người “sinh ra vì đạo” với nguồn gốc xuất thân và cuộc đời nhuốm màu huyền thoại. Ông là người kế tục Trần Nhân Tông và Pháp Loa, trở thành vị tổ thứ ba của dòng thiền Trúc Lâm. Có thể nói, ngoài sự nghiệp hoằng dương phật pháp, xây dựng và phát triển dòng thiền Trúc Lâm thành một dòng Thiền riêng của Việt Nam, những bậc cao tăng ấy còn đóng góp vào kho tàng văn học dân tộc những tác phẩm đặc sắc, có giá trị nghệ thuật cao. Điều đó cho thấy, bên cạnh một thiền sư, cả hai cùng được biết đến là những nhà thơ tài hoa. Tuy nhiên, những tác phẩm văn học của họ vẫn chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Điều này có thể thấy qua số lượng các công trình nghiên cứu về Trần Nhân Tông, Huyền Quang với tư cách là nhà vua, thiền sư nhiều hơn các công trình nghiên cứu chuyên biệt về tác phẩm của họ. Hơn nữa, khi nghiên cứu về trước tác của Trần Nhân Tông và Huyền Quang, giới nghiên cứu thường nhấn mạnh đến tính triết lý, giáo huấn của các 2 tác phẩm mà ít ai nhấn mạnh đến chất trữ tình. Có lẽ vì cho rằng, những thiền sư dù có cảm xúc trước những vang động của đời nhưng tất cả đều được lọc qua lăng kính của thiền, dưới cái nhìn thiền nên cảm xúc không phải là của một con người bình thường nữa mà là cảm xúc của một người đã thấu hiểu lẽ sắc không, vượt lên trên tất cả những xúc cảm bình thường. Nhưng một điều cần thấy rằng trước khi trở thành một nhà sư, các vị ấy cũng là một con người, cũng có những xúc cảm của con người. Vậy nên, trong các tác phẩm của Trần Nhân Tông và Huyền Quang, bên cạnh con người thiền sư, chúng ta còn thấy bóng dáng của con người bình thường, con người thi sĩ, con người với những rung cảm trước cuộc đời. Đó là những xúc cảm khi xuân về trên mấy khóm hoa của Trần Nhân Tông hay tình thương của một Huyền Quang trước cảnh tên tướng giặc trong lao tù hoài vọng cố hương… Một điểm nữa cần chú ý là trong di sản thơ của Trần Nhân Tông và Huyền Quang, những vần thơ viết về thiên nhiên có thể coi như những viên ngọc quý trong kho tàng thơ ca dân tộc. Nếu trộn lẫn các thi phẩm của hai thiền sư vào những bài thơ về thiên nhiên của những nhà thơ đích thực thì thật khó để mà phân biệt được đâu là thơ của thiền sư bởi giữa chúng dường như chỉ có một đường biên thật mỏng manh mà nếu không thật tinh tế thì khó có thể phát hiện được. Dù vậy, cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống thơ viết về thiên nhiên của Trần Nhân Tông hay của Huyền Quang và cũng chưa có một công trình nào đi vào so sánh những vần thơ viết về thiên nhiên của hai tác giả này. Thời gian cứ vận hành theo quy luật của nó và kéo theo đó thời đại thịnh trị của dân tộc- thời đại Lý - Trần ngày càng lùi xa. Đó là một quy luật của tự nhiên và tất nhiên, con người không thể níu kéo được. Nhưng những gì là tinh hoa của thời đại ấy sẽ trường tồn cùng dân tộc, sống mãi với thời gian 3 qua những trang văn lưu lại cho đời. Vì vậy, việc nghiên cứu di sản thơ của Trần Nhân Tông và Huyền Quang sẽ góp phần vào việc bảo tồn những di sản văn hóa của dân tộc, làm sống dậy hào khí một thời. Nó sẽ nhắc nhở thế hệ cháu con niềm tự hào về một dân tộc đã sản sinh ra những người con vĩ đại như thế - những con người như Trần Nhân Tông, Huyền Quang. Đó là những lý do để chúng tôi lựa chọn đề tài Cảm hứng thiên nhiên trong sáng tác của Trần Nhân Tông và Huyền Quang dưới góc nhìn so sánh. Chúng tôi mong rằng sẽ góp một phần nhỏ bé vào hành trình tìm hiểu con người và tư tưởng của hai vị sư tổ dòng thiền Trúc Lâm 2. Lịch sử vấn đề Đến nay, theo tư liệu văn học, có thể khẳng định rằng Cảm hứng thiên nhiên trong sáng tác của Trần Nhân Tông và Huyền Quang dưới góc nhìn so sánh chưa được đề cập đến trong một công trình nghiên cứu cụ thể nào. Tất nhiên, xoay quanh cuộc đời và sự nghiệp của Huyền Quang và Trần Nhân Tông đã có không ít công trình nghiên cứu thuộc ngành Lịch sử, Văn học, Phật học. Tuy nhiên vì tính chất của chuyên ngành, chúng tôi chỉ khái quát những công trình, những bài viết khai thác dưới góc độ văn học hoặc ít nhiều có liên quan đến văn học. Dưới đây có thể kể đến những công trình, những bài viết nghiên cứu tiêu biểu nhất. 2.1. Lịch sử nghiên cứu Trần Nhân Tông Trần Nhân Tông là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học bởi ông không chỉ là một vị vua sáng - người đã có công lớn trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, một thiền giả xuất sắc - tác giả của nhiều công trình nghiên cứu Phật học mà còn là một nhà thơ lớn. Tuy nhiên, theo sự tìm hiểu của chúng tôi, ở góc độ là một thi sĩ, Trần Nhân Tông chưa được 4 quan tâm đúng mức bởi số lượng công trình, bài nghiên cứu về Trần Nhân Tông còn khá ít và nhỏ lẻ. Dưới đây là một số công trình, bài nghiên cứu mà chúng tôi khảo sát được. Trước hết cần phải nhắc đến cuốn Toàn tập Trần Nhân Tông của Lê Mạnh Thát (2000). Cuốn sách là một công trình nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Trần Nhân Tông từ khi còn trẻ, gánh vác những công việc trọng đại của dân tộc đến khi ông xuất gia tu hành trên núi Yên Tử và lãnh đạo Thiền phái Trúc Lâm. Trong công trình này, học giả Lê Mạnh Thát cũng dành một phần để khai thác sự nghiệp văn chương của nhà vua, thiền sư thi sĩ Trần Nhân Tông. Đáng chú ý là ngoài di sản thơ chữ Hán, hai bài phú Nôm, tác giả còn sưu tầm được khá đầy đủ những bài giảng, văn thư ngoại giao, văn xuôi… của Trần Nhân Tông. Tiếp theo, có thể kể đến cuốn Thiền học đời Trần của Viện nghiên cứu Phật giáo (1995). Cuốn sách tập hợp bốn bài nghiên cứu về Trần Nhân Tông. Các bài viết này chủ yếu khai thác dưới góc độ Thiền học. Có ba trong tổng số bốn bài viết trình bày về xuất thân và quá trình dẫn dắt thiền phái Trúc Lâm của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông. Trong số các bài viết ấy, không thể bỏ qua bài viết của thiền sư Thích Thanh Từ Thiền Trúc Lâm qua văn thơ Hán. Thông qua việc phân tích bốn bài thơ đặc sắc, tác giả đã cho người đọc cái nhìn cơ bản về con người, tâm hồn và tư tưởng Trần Nhân Tông. Tác giả khẳng định “Chỉ dẫn bao nhiêu bài thơ trên, chúng ta cũng đủ thấy Trúc Lâm hồn thơ bát ngát, ý thơ thâm trầm, tâm Thiền bàng bạc, khiến người đọc vừa hứng thú vừa thấy tâm hồn rộng mở thênh thang. Trúc Lâm nói lên tâm trạng mình đối cảnh sinh tình, mà tình đây là tình đạo” Nếu cuốn Thiền học đời Trần nhìn nhận Trần Nhân Tông với tư cách là một thiền giả thì cuốn Thơ Thiền Việt Nam- những vấn đề lịch sử và tư 5 tưởng nghệ thuật của nhà nghiên cứu Nguyễn Phạm Hùng còn khai thác dưới góc độ là một thi sĩ mà ông gọi là thi sĩ Thiền. Tác giải nhấn mạnh đạo và đời trong ông thật là “vô phân biệt” đều có đều không thông qua việc phân tích một bài thơ đặc sắc của Trần Nhân Tông - Thiên Trường vãn vọng. Trần Thị Băng Thanh trong Những nghĩ suy từ văn học trung đại đã tiến thêm một bước khi tìm hiểu về Trần Nhân Tông. Tác giả đã chỉ ra rằng núi Yên Tử vừa là nơi di dưỡng tinh thần vừa là nơi khơi nguồn cảm hứng cho những sáng tác của Trần Nhân Tông. Thiên nhiên tươi đẹp, thơ mộng trữ tình nơi đây đã hòa quyện với tâm hồn nhạy cảm tinh tế tạo nên những tác phẩm mà ở đó “Nhân Tông hiện ra hầu như trọn vẹn với tư cách nhà thơ”. Trong cách cảm nhận về thiên nhiên, thật khó để có thể phát hiện được đó là xúc cảm của một thiền sư. Chẳng hạn trong những cảm nhận của ông về hoa mai, nhà nghiên cứu Trần Thị Băng Thanh viết “Có biết bao nhà thơ phương Đông đã vịnh hoa mai nhưng Nhân Tông vẫn đến với hoa mai bằng những rung cảm riêng vừa thâm trầm tinh tế, vừa sắc sảo nồng nàn”. Bài nghiên cứu của Phạm Ngọc Lan - Trần Nhân Tông- cảm hứng Thiền trong thơ được in trong tạp chí Văn học số 4/ 1992 cũng là một trong những bài viết đáng chú ý. Chỉ với vẻn vẹn bốn trang viết nhưng người đọc đã có thể hình dung khá trọn vẹn về Trần Nhân Tông. Tác giả bài viết cũng khẳng định Trần Nhân Tông không chỉ là một vị vua sáng, một thiền sư lỗi lạc mà còn là một nhà thơ có phong cách. Thơ ông là sự kết hợp hài hòa con người thiền sư và con người thi nhân. Bài viết khai thác chất Thiền trong thơ Trần Nhân Tông, đặc biệt những bài thơ viết về thiên nhiên. Tác giả chỉ rõ đó là sự cảm nhận tinh tế, sâu lắng trước thiên nhiên. Thiên nhiên không ồn ào mà đạm bạc gắn với những đường nét nhẹ nhàng, gắn với cảnh lặng lẽ u tịch để qua đó gửi gắm ý niệm về cuộc đời của một cái Tâm đã đạt đạo… 6 Đáng chú ý hơn cả là công trình nghiên cứu mang tên Con người nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kì trung đại của tác giả Đoàn Thị Thu Vân (2007). Đi dọc chiều dài của lịch sử suốt năm thế kỉ, tác giả đã khám phá ra vẻ đẹp của con người ẩn sâu trong những áng thơ. Trên cơ sở so sánh, người viết đã phát hiện ra vẻ đẹp đặc trưng của con người mỗi thời đại. Nếu con người thời Lý với vẻ đẹp của minh triết, của trí tuệ thì con người thời Trần lại sáng ngời vẻ đẹp mẫn cảm của tâm linh còn con người thời Lê sơ lại nổi bật với vẻ đẹp của ý thức trách nhiệm, sự thanh cao của khí tiết kẻ sĩ. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả dành một chương để khai thác vẻ đẹp con người nhân văn thời Trần từ tâm hồn của các bậc đế vương, các bậc tướng lĩnh đến tâm hồn của những bậc cao tăng, những người trí thức. Trần Nhân Tông với những vần thơ viết về thiên nhiên có lẽ đã có sức hấp dẫn đặc biệt đối với nhà nghiên cứu Đoàn Thị Thu Vân. Tác giả đã dành một số lượng lớn trang viết (13 trang) cho ông trong khi đối với các tác giả văn học khác chỉ dưới 10 trang. Bài viết khai thác hai khía cạnh cơ bản: Nét đặc sắc trong thơ Trần Nhân Tông và tâm hồn Trần Nhân Tông qua thơ. Đi qua từng trang viết, người đọc sẽ nhận được những xúc cảm mới lạ mà không phải ngòi bút nghiên cứu nào cũng có được bởi lẽ tác giả đã chạm đến những ngóc ngách sâu kín nhất trong tâm hồn mỗi người. Với chất văn bàng bạc Thiền vị, bằng việc phân tích ba bài thơ tiêu biểu của Trần Nhân Tông, tác giả đã giúp người đọc khám phá thế giới tâm hồn phong phú, giàu xúc cảm của một ông vua thiền sư - thi sĩ. Qua bài viết này ta thấy rõ ràng Trần Nhân Tông hiện lên không chỉ là một nhà vua hay một thiền sư với những vần thơ đậm chất triết lý mà còn là một con người bình thường với những rung cảm rất trần thế mà bài thơ Xuân hiểu (Buổi sáng mùa xuân) là một ví dụ. Bài thơ được coi như một kiến trúc nhìn bề ngoài là một khối đơn giản nhưng càng đi càng phát hiện nhiều tầng lớp ý nghĩa, cảm xúc ở cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Có thể 7 nói, nếu ví bài thơ như một ẩn số mà người đọc luôn luôn tìm cách giải mã thì cách giải mã của bài viết này thật “tinh tế và nhạy bén” biết bao. Trên đây, chúng tôi đã tóm lược ngắn gọn nhất các công trình nghiên cứu về Trần Nhân Tông trên phương diện văn học. Ngoài ra, Trần Nhân Tông còn được nghiên cứu ở một số sách, bài báo khoa học, luận văn. Có thể kể đến: - Trần Thị Hồng Y (2003), Tìm hiểu thơ các vua thời thịnh Trần (Từ Trần Thái Tông đến Trần Minh Tông), Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh. - Trần Lý Trai (2008), Giá trị văn học trong tác phẩm của thiền phái Trúc Lâm, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh - Nguyễn Lang (1979), Việt Nam Phật giáo sử luận (tập 1), NXB Văn học Hà Nội. 2.2. Lịch sử nghiên cứu Huyền Quang Huyền Quang trước hết là một thiền sư lỗi lạc. Vậy nên với tư cách là một thiền giả, ông xuất hiện nhiều trong các công trình, bài viết nghiên cứu về thiền học. Còn với tư cách là một nhà thơ, số lượng bài nghiên cứu về Huyền Quang còn khá hạn chế và với quy mô nhỏ. Cho đến nay, cuốn sách được coi là đầy đủ nhất về Huyền Quang là cuốn Huyền Quang - cuộc đời, thơ và đạo do nhà nghiên cứu Trần Thị Băng Thanh chủ biên. Cuốn sách tập hợp nhiều bài viết đã cho người đọc một cái nhìn hệ thống về cuộc đời và sự nghiệp thơ ca của ông. Trong phần cuối của cuốn sách, tác giả đã liệt kê một thư mục khá đầy đủ các bài nghiên cứu, sưu tầm, đánh giá cùng các giai thoại xoay quanh cuộc đời của thiền sư. Điều này khá thuận tiện cho việc nghiên cứu về Huyền 8 Quang. Cuốn sách gồm ba phần. Ở phần một, các tác giả trình bày về nguồn gốc xuất thân, những giai thoại cùng những năm tháng hành đạo của Huyền Quang, những lời luận bàn về trước tác của Người. Phần hai đi vào giới thiệu các tác phẩm còn lại gồm tập thơ Ngọc tiên tập và bài phú Nôm Vịnh Vân Yên tự phú. Phần ba là tập hợp các tác phẩm viết về Huyền Quang, coi ông như là một nhân vật văn học. Với dung lượng gần 250 trang, cuốn sách tập trung vào phần giới thiệu thi phẩm đến người đọc. Có lẽ vì vậy mà phần viết về Huyền Quang thi nhân dường như cũng có phần hạn chế. Tác giả dành 25 trang để phân tích, đánh giá, bình luận về gia tài thơ của Huyền Quang. Trong đó, có hai bài nghiên cứu đáng chú ý: một của nhà nghiên cứu Trần Thị Băng Thanh và một của nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn. Với Ngọc tiên tập - Tiếng thơ nhiều hàm nghĩa thông qua khảo sát 25 bài thơ, tác giả Trần Thị Băng Thanh đã làm nổi bật những giá trị cơ bản của tập thơ và qua đó giúp người đọc hình dung được bức chân dung tinh thần của Huyền Quang. Bài viết của nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn về bài thơ Nôm duy nhất của ông “Vịnh Vân Yên tự phú” lại như một sự khai phá thế giới tâm hồn thi sĩ của thiền sư. Ở trong thế giới ấy, ta chỉ thấy một người nghệ sĩ với cuộc sống hòa mình vào thiên nhiên, tận hưởng trọn vẹn tất cả những điều kỳ diệu mà thiên nhiên ban tặng. Ở đó, ta không còn thấy dấu vết của cuộc sống trần tục nữa mà là cảnh Bụt, là cõi vô tâm… Với chỉ khoảng 9 trang viết nhưng tác giả Nguyễn Phạm Hùng trong cuốn Thơ Thiền Việt Nam- Những vấn đề lịch sử và tư tưởng nghệ thuật đã cho người đọc rõ hơn về một Huyền Quang thi sĩ. Người viết đã đi sâu vào khai thác di sản thơ để qua đó giải mã về con người và tư tưởng Huyền Quang. Tác giả khẳng định “…thơ của ông rất sâu kín, uẩn khúc không trực ngôn mà hàm ngôn, không kể tâm trạng mà mượn cảnh ngụ tình…”. Đó thực sự là những trang viết rất sâu sắc mà ở đó, tác giả cho thấy một Huyền Quang 9 với những tâm sự, những cảm xúc cá nhân và cả những suy tư trăn trở trước cuộc đời. Bài viết Huyền Quang- nhà sư thi sĩ của Nguyễn Phương Chi có thể coi là một trong những bài viết đầu tiên nghiên cứu Huyền Quang với khía cạnh một nhà thơ. Bài viết được đăng trên Tạp chí Văn học năm 1982 gây chú ý bởi chất văn mượt mà nhẹ nhàng mà sâu lắng, cách cảm nhận văn chương rất tinh tế, có những phát hiện thú vị. Dưới góc độ là người nghiên cứu những thi phẩm viết về thiên nhiên của Huyền Quang, chúng tôi coi đây là người đã đặt nền tảng cho công trình nghiên cứu của mình. Chỉ với khoảng một trang viết, tác giả đã phần nào giải mã được con người nhà thơ - một “cái tôi” chủ thể. Đối với Huyền Quang, thiên nhiên không chỉ như là cái nó vốn có mà “Thiên nhiên trở thành người bạn cởi mở, chân tình, là nơi nhà thơ có thể giãi bày tâm trạng, thổ lộ cảm xúc của mình không chút ngại ngần” Có lẽ là thiếu sót nếu không kể đến các bài nghiên cứu của các thiền sư về Huyền Quang thi sĩ. Có thể kể đến cuốn Thiền học đời Trần. Cuốn sách tập hợp 28 bài viết về các thiền sư đời Trần từ những người đặt nền móng như Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ đến những người có vai trò phát triển như Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang. Trong đó có bốn bài viết về thiền sư Huyền Quang. Những bài viết này tập trung xoay quanh những “điểm mờ” trong thân thế đồng thời cũng khẳng định giá trị văn học to lớn trong các sáng tác của ông. Ngoài ra cũng cần kể đến bài viết của thiền sư Thích Phước An Huyền Quang và con đường trầm lặng của mùa thu đăng trên Tạp chí Văn học số 4, năm 1992. Đoàn Thị Thu Vân khi viết Con người nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kì trung đại (2007) cũng dành một phần cuốn sách để khẳng định những nét đặc sắc trong thơ ca Huyền Quang- một tâm hồn nghệ sĩ chan chứa 10 tình đời. Tác giả khẳng định đây là một hiện tượng khá đặc biệt trong làng thơ Thiền đời Trần. Lướt theo những vần thơ về thiên nhiên của Huyền Quang, cùng nhà thơ đi ngao du sóng nước, cùng nghe tiếng sáo vi vu trên dòng sông ngập tràn ánh trăng, cùng thả hồn mình vào hoa cúc… mới thấy hết được một Huyền Quang với tâm hồn khoáng đạt, buông bỏ hết mọi trần tục, sống thanh nhàn thư thái- một tư chất rất nghệ sĩ. Tác giả nhận xét “Cảnh thiên nhiên trong thơ Huyền Quang bình dị đơn sơ nhưng để lại ấn tượng sâu sắc khó quên bởi được lọc qua tâm hồn nghệ sĩ nhạy bén và giàu rung cảm”. Tinh tế hơn, nhà nghiên cứu Đoàn Thị Thu Vân còn phát hiện ra những khoảnh khắc đặc biệt của thiền sư – Khoảnh khắc “quên”… Gần đây, Huyền Quang được đặc biệt quan tâm trong một luận văn Thạc sĩ mang tên Thơ ca Huyền Quang- con đường của Thiền và cái đẹp của Nguyễn Thị Hà An (2008). Tác giả đã đi sâu vào khai thác thế giới thơ ca Huyền Quang để khám phá ra ba con người dưới ba góc độ: một nhà Thiền học, một triết gia và một nhà thơ. Ngoài các công trình nghiên cứu trong nước, tác giả còn tham khảo thêm những công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài. Có thể nói, đây là một công trình được đầu tư khá kỹ và rất đáng đề tham khảo. Ngoài ra, thiền sư Huyền Quang còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều công trình cũng như bài báo khoa học khác. Có thể kể thêm các công trình đáng chú ý sau: - Nguyễn Kim Sơn (2009), “Sự đan xen các khuynh hướng thẩm mỹ trong thơ Huyền Quang (Nghiên cứu trường hợp sáu bài thơ vịnh cúc)”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (4), tr.75-89. 11 - Lê Từ Hiển (2005), “Basho, Huyền Quang- Sự gặp gỡ với mùa thu hay sự tương hợp về cảm thức thẩm mỹ”, Tạp chí văn học (7). Bao quát chung về thiền phái Trúc Lâm có thể kể đến những đóng góp của Trần Lý Trai (Thích Phước Đạt) trong luận án Tiến sĩ mang tên Giá trị văn học trong tác phẩm của thiền phái Trúc Lâm (2008). Luận án đã bao quát được những giá trị văn học cơ bản trong các tác phẩm của những tên tuổi nổi bật trong dòng thiền này như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Tung, Trần Nhân Tông, Huyền Quang… Theo đánh giá chủ quan của chúng tôi, đây là một công trình nghiên cứu công phu không chỉ có giá trị Phật học mà còn có giá trị lớn về văn học. Tác giả đã chỉ ra những tư tưởng thiền học đồng thời cũng làm rõ những cảm hứng chủ đạo, những giá trị nghệ thuật của các tác phẩm này. Trong công trình này, tác giả đã dành khoảng 7 trang viết về cảm hứng cõi thiên nhiên và thiên nhiên mà đề tài khai thác là thiên nhiên được nhìn qua lăng kính của những nhà thiền học, “thiên nhiên mang tính biểu tượng bởi một cảm quan Phật giáo Thiền tông”. Trên đây, chúng tôi đã khái quát lịch sử nghiên cứu về Trần Nhân Tông và Huyền Quang dưới góc độ văn học. Có thể khẳng định rằng, cảm hứng thiên nhiên trong sáng tác của Trần Nhân Tông và Huyền Quang dưới góc nhìn so sánh chưa được đề cập đến trong một công trình nghiên cứu cụ thể nào. Chính vì vậy, chúng tôi sẽ đi sâu về vấn đề trên để làm rõ cảm hứng thiên nhiên trong sáng tác của mỗi thiền sư đồng thời bước đầu so sánh chủ đề này trong thơ ca của họ nhằm khám phá tâm hồn Trần Nhân Tông, Huyền Quang qua thơ ca. 12 3. Mục đích nghiên cứu 3.1. Khảo sát những tác phẩm lấy cảm hứng từ thiên nhiên trong sự nghiệp thơ văn của Trần Nhân Tông và Huyền Quang 3.2. Khái quát và chỉ ra những nét đặc sắc trong cách cảm nhận về thiên nhiên của mỗi nhà thơ. 3.3. Chỉ ra những nét tương đồng và dị biệt trong cách cảm nhận thiên nhiên của Trần Nhân Tông và Huyền Quang. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng Luận văn tập trung nghiên cứu cảm hứng thiên nhiên trong sáng tác của Trần Nhân Tông và Huyền Quang, một trong những cảm hứng chính trong các sáng tác của hai tác giả này. Dĩ nhiên các phương diện khác của nội dung tư tưởng cũng như phương diện nghệ thuật vẫn được quan tâm ở mức độ là cơ sở để làm rõ vấn đề. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận văn thạc sĩ, chúng tôi chỉ tập trung khảo sát những sáng tác thơ và phú của hai tác giả này. Song song với đó, chúng tôi bước đầu so sánh cảm hứng thiên nhiên để chỉ ra nét tương đồng và dị biệt trong cách cảm nhận của mỗi tác giả. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu Cảm hứng thiên nhiên trong sáng tác của Trần Nhân Tông và Huyền Quang dưới góc nhìn so sánh dựa vào các bản dịch tiếng Việt của các văn bản dưới đây: - Thơ văn Lý - Trần (1989) (tập 2), quyển thượng, Viện văn học, Nxb Khoa học xã hội. 13 - Tổng tập văn học Việt Nam (2000) (tập 2), Trần Lê Sáng (chủ biên), Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong luận văn, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: - Phương pháp thống kê: chúng tôi tiến hành thống kê số lượng tác phẩm lấy cảm hứng thiên nhiên nhằm phục vụ cho việc tìm hiểu cảm hứng thiên nhiên trong các tác phẩm của họ. - Phương pháp phân tích tác phẩm văn học: đây là phương pháp được sử dụng chủ yếu khi khái quát, lí giải sự tương đồng và sự dị biệt trong cảm hứng thiên nhiên của hai tác giả. - Phương pháp so sánh: sử dụng phương pháp này so sánh, đối chiếu để chỉ ra những nét tương đồng và dị biệt trong cảm hứng thiên nhiên của hai tác giả. Đây là một trong những phương pháp nghiên cứu chính của luận văn. - Phương pháp hệ thống: phương pháp này giúp chúng tôi có cái nhìn khái quát về đề tài nghiên cứu. Ngoài các phương pháp trên, chúng tôi còn sử dụng thêm phương pháp liên ngành (vì đề tài liên quan đến Lịch sử, Triết học, Phật học). 6. Đóng góp của luận văn Luận văn tìm hiểu Trần Nhân Tông và Huyền Quang dưới góc độ là những thiền sư thi sĩ. Vì vậy, thông qua việc phân tích, so sánh di sản thơ của hai tác giả này, chúng tôi sẽ góp phần hiểu thêm về con người, tư tưởng của những nhân cách lớn Trần Nhân Tông, Huyền Quang. Luận văn cũng có thể 14 xem như tài liệu tham khảo tốt phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy về Trần Nhân Tông, Huyền Quang và thơ Thiền Lý - Trần. 7. Cấu trúc luận văn Ngoài các phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn có ba chương: Chương 1: Những vấn đề chung Ở chương này, chúng tôi trình bày về một số khái niệm có liên quan đến đề tài như cảm hứng, cảm hứng về thiên nhiên. Sau đó, chúng tôi khái quát những nét cơ bản nhất về cuộc đời, hành trạng và quá trình xuất gia của Trần Nhân Tông, Huyền Quang. Chương 2: Cảm hứng thiên nhiên trong sáng tác của Trần Nhân Tông và Huyền Quang Luận văn sẽ đi tìm hiểu những nét đặc sắc trong cảm hứng thiên nhiên của mỗi tác giả này trên cơ sở phân tích di sản thơ của họ. Chương 3: Tương đồng và dị biệt trong cảm hứng thiên nhiên ở sáng tác của Trần Nhân Tông và Huyền Quang Trên cơ sở của chương 1 và chương 2, chúng tôi sẽ chỉ ra những nét tương đồng và dị biệt trong cách cảm nhận của mỗi người, đồng thời chúng tôi bước đầu đưa ra những lý giải về sự tương đồng và khác biệt đó. 15 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Giới thuyết khái niệm 1.1.1. Cảm hứng Bất kì một công việc nào muốn thành công cũng hỏi sự đam mê và thích thú. Sáng tạo nghệ thuật cũng không là ngoại lệ. Thậm chí đó còn là công việc đòi hỏi nhiều hơn cả sự đam mê, thích thú. Không giống như các lĩnh vực hoạt động khác, hoạt động sáng tạo nghệ thuật thuộc lĩnh vực chuyên biệt. Nếu ví tác phẩm nghệ thuật như một ngôi nhà thì người nghệ sĩ được coi như một kiến trúc sư. Nhưng người kiến trúc sư có thể biến ngôi nhà trong trí óc của anh ta thành hiện thực nếu như anh ta có chất liệu. Còn với người nghệ sĩ - kiến trúc sư thì lại khác, chất liệu ngôn từ bao quanh anh ta nhưng nếu không có cảm hứng sáng tạo thì đó cũng chỉ là ngôi nhà trong tưởng tượng mà thôi. Như vậy, nét đặc biệt của những người làm nghệ thuật đó chính là những rung động trong tâm hồn. Chính những rung động đó mới tạo ra những tác phẩm nghệ thuật thực sự có giá trị… Cảm hứng là một khái niệm không còn xa lạ đối với những người nghệ sĩ bởi chính nó đã tạo nên phần hồn cho tác phẩm nghệ thuật. Dù có cố gượng ép, nhưng nếu không có cảm xúc thì người nghệ sĩ chỉ tạo ra những tác phẩm có xác mà không hồn. Ngô Thì Nhậm đã từng viết “Hãy xúc động cho ngọn bút có thần” có lẽ là vì thế. Vậy cảm hứng là gì? Từ xa xưa cho đến nay, có thể nói có bao nhiêu người nghiên cứu là có bấy nhiêu khái niệm nhưng tựu trung lại có thể hiểu cảm hứng hay cảm hứng chủ đạo là trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư tưởng xác định, một sự đánh giá nhất định, gây tác động đến cảm xúc của những người tiếp nhận tác phẩm. Bê-lin-xki coi cảm hứng chủ đạo là điều 16 kiện không thể thiếu của việc tạo ra những tác phẩm đích thực, bởi nó “biến sự chiếm lĩnh thuần túy trí óc đối với tư tưởng thành tình yêu đối với tư tưởng, một tình yêu mạnh mẽ, một khát vọng nhiệt thành” [9, tr.45]. Như vậy, khái niệm này dùng để chỉ trạng thái cảm xúc của người nghệ sĩ trước một hiện tượng trong đời sống mà hiện tượng này được coi như suối nguồn đam mê, thích thú, thôi thúc họ sáng tạo nghệ thuật. Chính giây phút xuất thần ấy, người nghệ sĩ được thăng hoa và tác phẩm là tinh hoa của trạng thái thăng hoa đó. Nói một cách hình tượng như Nguyễn Quýnh trong lời tựa tập Tây hộ mạn hứng của Ninh Tốn1 “Người như sông biển, chữ như nước, hứng thì như gió. Gió thổi tới sông biển cho nên nước lay động làm thành gợn, thành sóng, thành ba đào. Hứng chạm vào người ta cho nên như nổi dậy, không thể nín được sinh ra trong lòng, ngâm vịnh ngoài miệng, viết nên ở bút nghiên giấy mực”. Rõ ràng, nếu không có cảm hứng thì người nghệ sĩ sẽ chết trong chính họ. Vì vậy, bất kì người nghệ sĩ nào cũng đều nuôi dưỡng nguồn cảm hứng cho chính mình. Tuy nhiên cảm hứng của mỗi người là không giống nhau, nó tựa như nét tính cách của mỗi cá nhân trong cuộc đời này. Trở lại phong trào thơ Mới qua những vần thơ của Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính, ta thấy trên cái nền Tây phương ấy, mỗi người lại chọn cho mình một mảnh đất khác nhau. Hàn Mặc Tử rất thích trăng nên trong thơ Hàn là cả một vũ trụ trăng lung linh huyền ảo, nhiều sắc thái vừa buồn vừa vui, vừa tạo nên trạng thái thăng hoa nhưng cũng là sự đớn đau quằn quại. Còn với Chế Lan Viên, hình ảnh tháp Chàm đầy ma mị ám ảnh thế giới thơ ông mà ở đó, ta thấy đầy những đầu lâu, những yêu ma, hồn máu. Nguyễn Bính lại trở về với ngọn nguồn dân tộc với những vần thơ đậm chất dân gian, những thôn Đoài thôn Đông, những vườn cau vườn trầu…Tất cả những điều đó cho thấy, người 1 Ninh Tốn (1744-1795) sống thời Lê Trung Hưng, hiệu Mẫn Hiên, Chuyết Sơn thi sĩ, Song An cư sĩ.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan