1. Bản chất của chủ nghĩa tư bản là gì?
Chủ nghĩa tư bản là một hình thái kinh tế – xã hội của xã hội loài người, xuất hiện đầu tiên tại châu Âu phôi thai và phát triển từ trong lòng xã hội phong kiến châu Âu và chính thức được xác lập như một hình thái xã hội tại Anh và Hà Lan ở thế kỷ thứ 17. Sau cách mạng Pháp cuối thế kỷ 18 hình thái chính trị của "nhà nước tư bản chủ nghĩa" dần dần chiếm ưu thế hoàn toàn tại châu Âu và loại bỏ dần hình thái nhà nước của chế độ phong kiến, quý tộc. Và sau này hình thái chính trị – kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa lan ra khắp châu Âu và thế giới. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản (với tư cách một hình thái kinh tế) từ chủ nghĩa phong kiến không do một lý thuyết gia nào xây dựng. Tuy nhiên A.Smith là người có đóng góp to lớn nhất xây dựng một hệ thống lý luận tương đối hoàn chỉnh về chủ nghĩa tư bản tự do hay tự do kinh tế. Chủ nghĩa tư bản không đồng nhất với chủ nghĩa tự do dù nền tảng là kinh tế tư hữu, nói cách khác chủ nghĩa tư bản là một trong các hình thái kinh tế của sản xuất tư hữu, và đối lập với chủ nghĩa xã hội trên nền tảng sở hữu công cộng. Các chính sách an sinh xã hội trong nền kinh tế tư bản không phải là thành tố của chủ nghĩa tư bản, và cũng không phải biểu hiện đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Chính xác hơn là nó là một biểu hiện của một nền kinh tế được điều chỉnh ít nhiều bởi nhà nước.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ - ĐẠI HỌC HUẾ
KHOA QUỐC TẾ HỌC
BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: BẢN CHẤT CỦA CHỦ NGHĨA
TƯ BẢN LÀ GÌ? BẢN CHẤT ĐÓ CÓ
THAY ĐỔI TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN
NAY KHÔNG? VÌ SAO?
Giảng viên hướng dẫn : Cô Lê Thị Kim Phương
Sinh viên thực hiện
Mã sinh viên
: Trần Thị Thùy Trang
: 13F7061077
1. Bản chất của chủ nghĩa tư bản là gì?
Chủ nghĩa tư bản là một hình thái kinh tế – xã hội của xã hội loài
người, xuất hiện đầu tiên tại châu Âu phôi thai và phát triển từ trong lòng xã
hội phong kiến châu Âu và chính thức được xác lập như một hình thái xã hội
tại Anh và Hà Lan ở thế kỷ thứ 17. Sau cách mạng Pháp cuối thế kỷ 18 hình
thái chính trị của "nhà nước tư bản chủ nghĩa" dần dần chiếm ưu thế hoàn
toàn tại châu Âu và loại bỏ dần hình thái nhà nước của chế độ phong kiến,
quý tộc. Và sau này hình thái chính trị – kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa lan
ra khắp châu Âu và thế giới. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản (với tư cách
một hình thái kinh tế) từ chủ nghĩa phong kiến không do một lý thuyết gia nào
xây dựng. Tuy nhiên A.Smith là người có đóng góp to lớn nhất xây dựng một
hệ thống lý luận tương đối hoàn chỉnh về chủ nghĩa tư bản tự do hay tự do
kinh tế. Chủ nghĩa tư bản không đồng nhất với chủ nghĩa tự do dù nền tảng là
kinh tế tư hữu, nói cách khác chủ nghĩa tư bản là một trong các hình thái kinh
tế của sản xuất tư hữu, và đối lập với chủ nghĩa xã hội trên nền tảng sở hữu
công cộng. Các chính sách an sinh xã hội trong nền kinh tế tư bản không phải
là thành tố của chủ nghĩa tư bản, và cũng không phải biểu hiện đặc trưng của
chủ nghĩa xã hội. Chính xác hơn là nó là một biểu hiện của một nền kinh tế
được điều chỉnh ít nhiều bởi nhà nước.
Đặc điểm đặc trưng nhất của chủ nghĩa tư bản là nhìn nhận quyền sở
hữu tư nhân và quyền tự do sản xuất và kinh doanh được xã hội bảo vệ về mặt
luật pháp và được coi như một quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của con
người. Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa không loại trừ hình thức sở hữu
nhà nước và sở hữu toàn dân và đôi khi ở một số nước tại một số thời điểm tỷ
trọng của các hình thức sở hữu này chiếm không nhỏ (hay còn gọi là mô hình
kinh tế hỗn hợp), nhưng điều cơ bản phân biệt xã hội của chủ nghĩa tư bản với
xã hội đối lập với nó là xã hội cộng sản là trong xã hội tư bản chủ nghĩa
quyền tư hữu đối với phương tiện sản xuất được xã hội và pháp luật bảo vệ,
sự chuyển đổi quyền sở hữu phải thông qua giao dịch dân sự được pháp luật
và xã hội quy định. Còn chủ nghĩa cộng sản và phần lớn trường phái chủ
nghĩa xã hội công nhận quyền sở hữu tập thể và nhà nước đối với phương tiện
sản xuất.
Trong hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa các cá nhân dùng sở hữu tư
nhân để tự do kinh doanh bằng hình thức các công ty tư nhân để thu lợi nhuận
thông qua cạnh tranh trong các điều kiện của thị trường tự do: mọi sự phân
chia của cải đều thông qua quá trình mua bán của các thành phần tham gia
vào quá trình kinh tế. Các công ty tư nhân tạo thành thành phần kinh tế tư
nhân là thành phần kinh tế chủ yếu của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Có thể
nói các yếu tố quyền tư hữu, thành phần kinh tế tư nhân, kinh doanh tự do,
cạnh tranh, động lực lợi nhuận, tính tự định hướng tự tổ chức, thị trường lao
động, định hướng thị trường, bất bình đẳng trong phân phối của cải là các
khái niệm gắn liền với nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động
không công của công nhân làm thuê. Các nhà kinh tế học tư sản thường cho
rằng, mọi công cụ lao động, mọi tư liệu sản xuất đều là tư bản. Thực ra bản
thân tư liệu sản xuất không phải là tư bản, nó chỉ là yếu tố cơ bản của sản xuất
trong bất cứ xã hội nào. Tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản khi nó trở thành
tài sản của các nhà tư bản và được dùng để bóc lột lao động làm thuê. Khi chế
độ tư bản bị xoá bỏ thì tư liệu sản xuất không còn là tư bản nữa. Phần trên đã
định nghĩa tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Đó là một định nghĩa rất
chung về tư bản, nó bao trùm cả tư bản cổ xưa lẫn tư bản hiện đại. Nhưng sau
khi nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, có thể định nghĩa chính xác
tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm
thuê. Như vậy bản chất của tư bản là thể hiện quan hệ sản xuất xã hội mà
trong đó giai cấp tư sản chiếm đoạt giá trị thặng dư do giai cấp công nhân
sáng tạo ra.
1.1 Cơ chế bóc lột tư bản chủ nghĩa:
C.Mác đã vạch ra rằng, tư bản không hề phát minh ra lao động thặng
dư, rằng: "Nơi nào mà một bộ phận xã hội chiếm độc quyền về những tư liệu
sản xuất thì nơi đó người lao động, tự do hay không tự do, đều buộc phải
thêm vào thời gian lao động cần thiết để nuôi sống bản thân mình một số thời
gian lao động dôi ra dùng để sản xuất những tư liệu sinh hoạt cho người
chiếm hữu tư liệu sản xuất" (1). Quy luật kẻ chiếm hữu tư liệu sản xuất bóc
lột người lao động không có tư liệu sản xuất, được thực hiện dưới những hình
thức và cơ chế khác nhau trong những hình thái xã hội khác nhau.
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, giai cấp nô lệ bị lệ thuộc hoàn toàn về
thân thể vào giai cấp chủ nô, thì ngoài việc bị bóc lột lao động thặng dư, nô lệ
còn bị chiếm một phần lớn sản phẩm cần thiết của giai cấp nô lệ. Trong chế
độ phong kiến, giai cấp nông nô đã có một phần tự do về thân thể đối với giai
cấp địa chủ và chế độ bóc lột lao động thặng dư biểu hiện dưới hình thức bóc
lột địa tô, lao động thặng dư và lao động cần thiết được phân chia rõ ràng. Bởi
vậy, theo C. Mác cơ chế bóc lột thời phong kiến có nhiều tiến bộ hơn chiếm
hữu nô lệ.
Giai cấp tư sản bước lên vũ đài lịch sử cũng là giai cấp độc chiếm tư
nhân những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Khác với cơ chế bóc lột trong
hai hình thái kinh tế – xã hội trước chủ yếu dựa trên quan hệ hiện vật, cơ chế
bóc lột tư bản chủ nghĩa dựa trên quan hệ giá trị; nói cách khác là quan hệ
trao đổi những vật ngang giá (tức là tuân theo quy luật giá trị). Quan hệ này
che dấu sự bóc lột trong một cơ chế trao đổi với vẻ bề ngoài như là tự do và
bình đẳng, chính vì vậy mà các nhà kinh tế học trước C. Mác đã không thành
công trong việc lý giải bản chất bóc lột tư bản chủ nghĩa.
A. Smith và D. Ri-các-đô đã quan niệm một cách hời hợt, bề ngoài
rằng, mua bán giữa tư bản và công nhân hình như là mua bán lao động nên cả
hai ông đều gặp bế tắc trong việc lý giải một cách khoa học bản chất và nguồn
gốc của lợi nhuận. Chẳng hạn, nếu lao động là hàng hóa thì nó phải được kết
tinh vào vật, như vậy là công nhân bán hàng hóa chứ không bán lao động; lao
động được xác định là thước đo của mọi giá trị thì không thể tự lấy nó để đo
lường giá trị của bản thân nó. Mặt khác, nếu mua bán lao động mà trao đổi
ngang giá thì không còn cơ sở tồn tại của lợi nhuận, nhưng thực tế lợi nhuận
tồn tại một cách khách quan. Vậy, theo các cách giải thích đó, quy luật giá trị
mâu thuẫn với quy luật sản xuất ra lợi nhuận và ngược lại.
C. Mác đã phát hiện rằng, quan hệ mua bán giữa công nhân và tư bản
không phải là mua bán hàng hóa lao động mà là mua bán một loại hàng hóa
đặc biệt – hàng hóa sức lao động. Hàng hóa này có giá trị và giá trị sử dụng
khác với các hàng hóa thông thường. Giá trị của hàng hóa sức lao động là giá
trị những tư liệu sinh hoạt tối thiểu cần thiết để tái sản xuất sức lao động của
công nhân và bao hàm những yếu tố tinh thần, lịch sử và dân tộc… – Giá trị
sử dụng của hàng hóa này (tức là tiêu dùng nó trong quá trình sản xuất) có
khả năng tạo ra một lượng giá trị lớn hơn giá trị của chính nó là sức lao động.
Do đó dù nhà tư bản trả đủ giá trị sức lao động cho công nhân trên cơ sở trao
đổi ngang giá thì vẫn thu được phần giá trị dôi ra, biến thành lợi nhuận. Như
vậy, quy luật giá trị và quy luật sản xuất ra lợi nhuận không phủ định lẫn nhau
mà song song tồn tại: trao đổi giữa tư bản và công nhân tuân theo quy luật
ngang giá (quy luật giá trị sức lao động) nhưng nhà tư bản vẫn thu được phần
dôi ra ngoài giá trị sức lao động; phần dôi ra đó được C. Mác gọi là giá trị
thặng dư. Như vậy, bóc lột lao động thặng dư biểu hiện thành bóc lột giá trị
thặng dư là quy luậtbóc lột đặc thù của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
và là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất đó.
Tỷ số giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến hay tỷ số giữa lao động
thặng dư và lao động cần thiết là tỷ suất giá trị thặng dư; tỷ suất đó nói lên
mức độ bóc lột giai cấp công nhân. Giá trị thặng dư có biểu hiện bề ngoài là
một số tiền dôi ra ngoài tư bản ứng trước; số tiền đó có tên gọi là lợi nhuận.
Phạm trù lợi nhuận che dấu quan hệ bóc lột vì nó làm cho người ta dễ lầm
tưởng là con đẻ của tư bản ứng trước (c + v) chứ không phải là con đẻ của tư
bản khả biến (v).
Tổng số giá trị thặng dư bóc lột được phân chia thành các loại thu nhập
ăn bám trong xã hội tư bản: lợi nhuận công nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp,
lợi nhuận ngân hàng; nó còn được phân chia nhỏ hơn nữa thành lợi nhuận
doanh nghiệp, lợi tức cho vay v.v.. Quá trình phân chia đó tuân thủ theo quy
luật cạnh tranh bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận. Giá trị thặng dư còn phải
phân chia cho chủ sở hữu ruộng đất dưới hình thức địa tô. Như vậy, tổng số
giá trị thặng dư do toàn bộ giai cấp vô sản, công nhân tạo ra trong các ngành
sản xuất bị toàn bộ giai cấp tư bản và địa chủ phân chia nhau trong cuộc đấu
tranh không khoan nhượng.
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, đỉnh cao của nó là độc
quyền nhà nước là chủ nghĩa đế quốc, đã có nhiều biến đổi trong hình thức và
cơ chế bóc lột tư bản chủ nghĩa. Quy luật sản xuất giá trị thặng dư biểu hiện
thành quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân trong thời kỳ tự do cạnh tranh thì
nay, trong chủ nghĩa tư bản độc quyền, nó biểu hiện thành quy luậttỷ suất lợi
nhuận độc quyền cao; quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả sản xuất
trong thời kỳ tự do cạnh tranh nay biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền
với hệ thống giá bán độc quyền cao, giá mua độc quyền thấp do tư bản độc
quyền can thiệp và áp đặt v.v.. Những bộ phận cấu thành lợi nhuận độc quyền
cao là: lao động thặng dư, thậm chí một phần lao động cần thiết của công
nhân trong xí nghiệp độc quyền; một phần lao động thặng dư của các xí
nghiệp nhỏ và vừa do xí nghiệp độc quyền xén bớt thông qua hệ thống giá cả
độc quyền; lao động thặng dư, thậm chí một phần lao động cần thiết của nông
dân và thợ thủ công cũng bị bóc lột thông qua hệ thống giá cả độc quyền;
phần quan trọng là siêu lợi nhuận thuộc địa dựa trên sự bóc lột nặng nề lao
động thặng dư và một phần lao động cần thiết của nhân dân lao động ở những
nước thuộc địa hay phụ thuộc.
Cùng với sự phát triển của cách mạng khoa học – kỹ thuật và của chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, cơ chế bóc lột đã trở nên phức tạp và tinh
vi hơn (chủ nghĩa Taylo, chủ nghĩa Fayol, chủ nghĩa Ford, chủ nghĩa Ford
mới v.v., lần lượt xuất hiện để biện minh cho tính công bằng, sòng phẳng
trong quan hệ giữa tư bản với lao động). Trên thực tế trong chủ nghĩa tư bản
hiện đại, ngày càng có nhiều thủ đoạn và hình thức bòn rút lợi nhuận tinh vi
để không ít người còn lầm tưởng đến một thứ chủ nghĩa tư bản mới "nhân
văn" hơn trước đây, như "chủ nghĩa tư bản nhân dân", "xã hội tham dự"…
Điều không thể che dấu được đó là sự hình thành một tầng lớp tư sản ăn bám,
quý tộc, thực lợi, tài phiệt; sự thao túng có tính chất toàn cầu của các tập đoàn
xuyên quốc gia, tình trạng bất bình đẳng trong các quan hệ thương mại quốc
tế; sự xuất hiện của cái gọi là chủ nghĩa thực dân kinh tế; sự áp đặt chính sách
giữa Đông và Tây, giữa các nước giàu với các nước nghèo…
1.2 Đào sâu sự phân cực xã hội – hệ quả tất yếu của quy luật bóc
lột tư bản chủ nghĩa
Sự phân hóa xã hội thành giai cấp không lao động nhưng giàu có, đầy
quyền lực, thống trị, áp bức đa số người trong xã hội và giai cấp lao động sản
xuất ra của cải xã hội nhưng nghèo khổ, bị tước mọi quyền và bị áp bức là sản
phẩm tất yếu của mọi xã hội có chế độ người bóc lột người dựa trên chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất. Nhưng sự phân cực xã hội với hình thức biểu hiện
kinh tế của nó là sự phân hóa giàu – nghèo trong các xã hội nô lệ và phong
kiến, mặc dù các chế độ bóc lột siêu kinh tế này biểu hiện ra là dã man, tàn
bạo, nhưng là có hạn độ.
Trong chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa, sự phân cực xã hội là vô cùng
sâu sắc, sự phân hóa giàu nghèo được đẩy tới cực độ. Ở đây của cải ngày càng
tập trung vào một số nhỏ các cá nhân là những triệu phú và tỉ phú; ở cực đối
lập là những người sống dưới mức nghèo khổ ở các nước tư bản phát triển và
đông đảo những người cùng khổ, đói rét ở các nước tư bản đang phát triển.
Chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa đã sớm chớp lấy những thành tựu mới của
khoa học, kỹ thuật và công nghệ để không ngừng nâng cao năng suất lao động
xã hội, do đó năng suất lao động thặng dư cũng ngày càng tăng theo; cơ chế
bóc lột tư bản chủ nghĩa đã chuyển hướng sang dựa chủ yếu trên sự tăng năng
suất lao động. Cũng trên cơ sở kỹ thuật đã phát triển mà cơ chế bóc lột dựa
trên tăng cường độ lao động thái quá và kéo dài ngày lao động một cách che
dấu cũng phát triển. Của cải xã hội ngày càng được tạo ra nhiều, nhưng lại chỉ
tập trung vào một cực. Mặt khác, nội dung vật chất của chế độ bóc lột tư bản
chủ nghĩa là giá trị thặng dư mang hình thức giá trị trao đổi (tức là vàng bạc
hay tiền tệ); trong quan hệ bóc lột dựa trên hình thức giá trị trao đổi, lòng
thèm khát tăng lao động thặng dư và khát vọng làm giàu trên cơ sở đó được
đẩy tới cực độ. Sở dĩ như vậy là vì giá trị trao đổi với hình thức biểu hiện vật
chất của nó là vàng, tức tiền tệ, về mặt chất lượng có sức mạnh vô hạn (có
tiền là có tất cả), về mặt số lượng bao giờ cũng có hạn. Mâu thuẫn giữa chất
lượng có sức mạnh vô hạn và số lượng có hạn đó làm tăng lòng thèm khát vơ
vét được nhiều tiền. Do tất cả những điều kiện lịch sử và tình hình trên, quy
luật bóc lột tư bản chủ nghĩa đã đẩy sâu quá trình phân cực xã hội mà các xã
hội bóc lột trước kia không thể sánh kịp.
Đặc điểm của sản xuất tư bản chủ nghĩa còn là tái sản xuất mở rộng
nhằm mở rộng bóc lột và ngày càng tích tụ tập trung tư bản để cải tiến kỹ
thuật, tăng năng suất lao động làm cho giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội
với mục đích thu lợi nhuận cao hơn lợi nhuận trung bình và thắng trong cạnh
tranh. Do đó, tư bản tích lũy ngày càng giành đầu tư nhiều hơn vào việc hiện
đại hóa guồng máy sản xuất, làm cho kết cấu hữu cơ (c/v) của tư bản thay đổi
theo hướng: tư bản bất biến (c) tăng lên cả về giá trị tuyệt đối và tương đối
trong khi tư bản khả biến (v) tăng lên tuyệt đối, nhưng giảm tương đối do kỹ
thuật hiện đại vừa đắt tiền vừa làm giảm số lượng công nhân vận hành máy
móc. Quy luật kết cấu của tư bản thay đổi theo hướng tăng lên như vậy dẫn
đến giảm mức cầu về sức lao động trong khi số lượng của giai cấp công nhân
tăng lên cùng với sự phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Từ đó dẫn đến
nạn nhân khẩu thừa tương đối hay nạn thất nghiệp và hình thành đội quân
công nghiệp trù bị.
Tích tụ, tập trung tư bản trong quá trình tích lũy cũng đưa đến kết quả
một số ít nhà tư bản tước đoạt của số đông nhà tư bản nhỏ và vừa qua con
đường cạnh tranh "cá lớn nuốt cá bé". Nạn nghèo khổ, áp bức, nô dịch, bóc
lột càng tăng lên. Vậy là, sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hóa lao động
đạt đến cái điểm mà chúng không còn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa
của chúng nữa…
1.3 Ý nghĩa ngày nay của Học thuyết về giá trị thặng dư đối với
nước ta
Trong Học thuyết về giá trị thặng dư, C. Mác đã có một nhận định có
tính chất dự báo khoa học trong xã hội hiện nay, đó là: "Mục đích thường
xuyên của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm thế nào để với một tư bản ứng
trước tối thiểu, sản xuất ra một giá trị thặng dư hay sản phẩm thặng dư tối đa;
và trong chừng mực mà kết quả ấy không phải đạt được bằng lao động quá
sức của những người công nhân, thì đó là một khuynh hướng của tư bản, thể
hiện ra trong cái nguyện vọng muốn sản xuất ra một sản phẩm nhất định với
những chi phí ít nhất về sức lực và tư liệu, tức là một khuynh hướng kinh tế
của tư bản dạy cho loài người biết chi phí sức lực của mình một cách tiết kiệm
và đạt tới mục đích sản xuất với một chi phí ít nhất về tư liệu" (2).
Từ việc nghiên cứu Học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác, chúng ta
thấy rõ ít nhất ba vấn đề lớn trong giai đoạn phát triển hiện nay của đất nước.
Một là, trong thời kỳ quá độ nền kinh tế ở nước ta, trong một chừng
mực nào đó, quan hệ bóc lột chưa thể bị xóa bỏ ngay, sạch trơn theo cách tiếp
cận giáo điều và xơ cứng cũ. Càng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
chúng ta càng thấy rõ, chừng nào quan hệ bóc lột còn có tác dụng giải phóng
sức sản xuất và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thì chừng đó chúng ta
còn phải chấp nhận sự hiện diện của nó.
Hai là, trong thực tế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta hiện nay, mọi phương án tìm cách định lượng rành mạch, máy móc
và xơ cứng về mức độ bóc lột trong việc hoạch định các chủ trương chính
sách, cũng như có thái độ phân biệt đối xử với tầng lớp doanh nhân mới đều
xa rời thực tế và không thể thực hiện được. Điều có sức thuyết phục hơn cả
hiện nay là quan hệ phân phối phải được thể chế hóa bằng luật. Đường lối chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước mỗi khi được thể chế hóa thành luật
và các bộ luật thì chẳng những góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, lấy luật làm công cụ và cơ sở để điều chỉnh các hành vi xã hội
nói chung, mà còn cả hành vi bóc lột nói riêng. Ai chấp hành đúng pháp luật
thì được xã hội thừa nhận và tôn vinh theo phương châm: dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong nhận thức, quan điểm
chung nên coi đó cũng chính là mức độ bóc lột được xã hội chấp nhận, tức là
làm giàu hợp pháp. Trong quản lý xã hội thì phải kiểm soát chặt chẽ thu nhập
cá nhân, thu nhập doanh nghiệp để, một mặt, chống thất thu thuế, mặt khác,
bảo đảm sự công bằng trong phân phối thông qua Nhà nước và bằng các
"kênh" phân phối lại và điều tiết thu nhập xã hội. Thiết nghĩ, đây là một
hướng tiếp cận vấn đề bóc lột giúp chúng ta tránh được những nhận thức giáo
điều, phi biện chứng về quan hệ bóc lột, cũng như việc vận dụng nó trong một
giai đoạn lịch sử cụ thể của việc giải phóng sức sản xuất, tạo động lực phát
triển kinh tế và chủ động hội nhập thành công với nền kinh tế quốc tế.
Ba là, mặt khác, cũng phải bảo vệ những quyền chính đáng của cả
người lao động lẫn giới chủ sử dụng lao động bằng luật và bằng các chế tài
thật cụ thể mới bảo đảm công khai, minh bạch và bền vững. Những mâu
thuẫn về lợi ích trong quá trình sử dụng lao động là một thực tế, việc phân xử
các mâu thuẫn ấy như thế nào để tránh những xung đột không cần thiết cũng
lại là một yêu cầu cấp thiết hiện nay, thể hiện trong bản chất của chế độ mới.
Bảo vệ được những quyền lợi chính đáng, những quyền lợi được luật pháp
bảo vệ, của tất cả các bên trong quan hệ lao động là một bảo đảm cho việc
vận dụng một cách hợp lý quan hệ bóc lột trong điều kiện hiện nay, đồng thời
cũng là những đóng góp cơ bản nhất cho cả quá trình hoàn thiện và xây dựng
mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2. Bản chất đó có thay đổi trong điều kiện hiện nay không? Vì sao?
Tính chất ích kỷ của chủ nghĩa tư bản không hề thay đổi và gây nên
những bất ổn trên thế giới. Kể từ thời Karl Marx và khởi nguồn của chủ nghĩa
cộng sản, bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản không hề thay đổi: Ngày nay
trong quá trình toàn cầu hoá, chủ nghĩa tư bản trên thế giới lại gây nên khoảng
cách giàu nghèo ngày càng lớn giữa các dân tộc, và giữa các giai tầng xã hội
bên trong các quốc gia, dân tộc, gây ra một chế độ áp bức kinh tế (chủ nghĩa
đế quốc kinh tế) còn nặng nề hơn chế độ thuộc địa thực dân ngày xưa, gây bất
ổn trên thế giới. Việc các công ty tư bản bơm vốn sang các nước nghèo để
tránh thuế, tránh các chi phí đắt đỏ tại chính quốc, chiếm hữu các nguồn tài
nguyên, khai thác các nguồn nhân lực một cách bất công, tối đa hoá lợi nhuận
chứng tỏ bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản chưa hề thay đổi... Và các
thách thức của thế giới như sự nghèo nàn, nạn đói, nạn khủng bố, phong trào
chống toàn cầu hoá... là thể hiện của các mâu thuẫn này do chủ nghĩa đế quốc
kinh tế gây ra. Đây là tâm lý chung của dư luận các nước chậm phát triển lên
án sự bất bình đẳng kinh tế giữa các dân tộc.
Xã hội công dân của xã hội tư bản không thể giải quyết các mâu thuẫn
đối kháng. Các nhà nước tư bản chủ nghĩa không thể làm tốt công tác điều tiết
xã hội mà nó luôn có xu hướng bảo vệ giai cấp tư sản, bóc lột các tầng lớp lao
động làm cho mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc hơn. Sự giàu mạnh của một
số nước tư bản chỉ là kết quả của việc khuyến khích người ta đặt lợi nhuận lên
hàng đầu mà không cần quan tâm đến vấn đề đạo dức hay xã hội. Hậu quả là
một bộ phận nhỏ của xã hội trở nên giàu có dựa trên sức lao động và sự nghèo
khổ của đa số mọi người.
Xã hội tư bản là xã hội đặt sự ích kỷ thành triết lý cuộc sống, đặt lợi
nhuận lên trên hết, làm xói mòn đạo đức xã hội và cuối cùng sẽ làm băng hoại
xã hội. Sự tự do quá trớn của cá nhân trong xã hội tư bản làm nảy sinh các
nhu cầu quái dị, các loại tệ nạn xã hội... Cuối cùng sẽ tước đoạt hạnh phúc của
con người. Đây là luận điểm của phái lý luận muốn kết hợp kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa có điều tiết với định hướng xã hội chủ nghĩa của nhà nước
xã hội chủ nghĩa để hạn chế các tiêu cực của chủ nghĩa tư bản.
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã viết “giai cấp tư sản đã đóng vai trò hết sức cách mạng trong lịch sử”; song
các ông cũng dự báo và chứng minh những dự báo của mình về “sự sụp đổ
của giai cấp tư sản và sự thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như
nhau”. Điều này khẳng định, chủ nghĩa tư bản rõ ràng có vai trò to lớn vượt
bậc so với chế độ phong kiến nhưng tất yếu cũng bị giai cấp vô sản đánh đổ.
Thông qua các hình thái kinh tế-xã hội đã, đang và sẽ tồn tại như: Hình thái
kinh tế-xã hội công xã nguyên thủy; hình thái kinh tế-xã hội chủ nô; hình thái
kinh tế-xã hội phong kiến; hình thái kinh tế-xã hội tư bản và hình thái kinh tếxã hội xã hội chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa cộng sản là sự thay thế có tính tất
yếu khách quan, hình thái kinh tế-xã hội sau bao giờ cũng tiến bộ hơn hình
thái kinh tế-xã hội cũ.
Mặc dù, thời gian gần đây chủ nghĩa tư bản dựa vào sự phát triển của
khoa học, công nghệ nền kinh tế có sự phát triển nhưng điều này không làm
thay đổi một chế độ mà bản chất của nó vẫn là bóc lột, thống trị của giai cấp
có của (nắm giữ tư liệu sản xuất chủ yếu) chiếm thiểu số trong xã hội. Điều
này được chủ nghĩa Mác-Lênin luận giải trên cơ sở phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Sự nhầm lẫn, mơ hồ của một bộ phận về cái gọi là xã hội giàu
có, xã hội dân chủ, xã hội tư do, … kiểu phương Tây cũng chỉ là sự viển vông
trong nhận thức. Bởi lẽ, bản chất giai cấp của nhóm lợi ích chiếm thiểu số
trong xã hội tư bản không bao giờ từ bỏ vũ đài chính trị của mình để nhường
chỗ cho dân nghèo, công nhân lên nắm quyền mà thay vào đó họ tôn vinh
những người thuộc tầng lớp có của (có tư liệu sản xuất, giai cấp thống trị).
Phải chăng, ở Mỹ không có người nghèo ? mà trái lại vẫn chiếm một tỷ lệ cao
(Theo thống kê đến năm 2013, ở Mĩ khoảng 400 người có thu nhập hàng năm
từ 185 triệu USD trở nên tương phản với 25 triệu người sống dưới mức nghèo
khổ). Vậy, những người nghèo khổ có được quyền bình đẳng về chính trị, về
xã hội hay không ? Điều này chắc chắn là không, vì không có tài sản thì khó
có thể trở thành chính khách, chính trị gia,… Chỉ từ vài hiện tượng rời rạc
trong xã hội tư bản mà một số người đã tự vẽ ra một viễn cảnh “tương sáng
của một xã hội” mà cố tình không nhận ra rằng các tầng lớp, giai cấp bị trị
chiếm đa số trong xã hội đó chưa bao giờ có thể mơ được cuộc sống như vậy.
Trong khi đó, giai đoạn quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
hiện nay có bản chất hơn hẳn chế độ tư bản thông qua việc khẳng định tại
khoản 2 điều điều 2 Hiến pháp năm 2013: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân
mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông nhân và
đội ngũ tri thức”. So sánh giữa bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa với
giai cấp thống trị là số đông trong xã hội (tư liệu sản xuất chủ yếu là công
hữu, thuộc sở hữu toàn dân) thì bản chất của chủ nghĩa tư bản chỉ chiếm thiểu
số trong xã hội (thiểu số nắm trong tay tư liệu sản xuất chủ yếu). Do đó,
không thể khẳng định rằng, giai cấp thống trị chiếm thiểu số trong xã hội tư
bản lại có thể nhường chỗ đứng cho tầng lớp, giai cấp không phải là giai cấp
nắm trong tay tư liệu sản xuất trong xã hội. Tuy nhiên, trong một chừng mực
nhất định giai cấp tư bản thông qua nhà nước vẫn thể hiện những vai trò xã
hội của nó như đáp ứng những phúc lợi công cộng. Vai trò này không phải chỉ
có nhà nước tư bản mới có mà thậm chí đến ngay nhà nước chủ nô cũng có
những phúc lợi quan trọng cho xã hội. Nhưng, nhưng phúc lợi xã hội này phải
không được đi ngược lại lợi ích, địa vị của giai cấp thống trị, kể cả trong xã
hội tư bản.
Bên cạnh đó, chính trong lòng chủ nghĩa tư bản vẫn luôn tạo ra những
mâu thuẫn, xung đột mà chủ nghĩa Mác-Lênin trong tác phẩm “Chủ nghĩa đế
quốc giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản” đã chỉ ra những mâu thuẫn, xu
hướng vận động của chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn “tột
cùng”, ăn bám và giãy chết và là phòng chờ của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa
tư bản còn khả năng để phát triển nhưng bản chất của chủ nghĩa tư bản thì
không thay đổi, những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, bản thân nó không
thể khắc phục nổi, đó là tình trạng khủng hoảng kinh tế, ngoài khủng hoảng
mang tính chu kỳ ra còn có khủng hoảng cơ cấu, khủng hoảng thể chế, khủng
hoảng tài chính tiền tệ … Điều này đã tạo ra cho chủ nghĩa tư bản những khó
khăn nảy sinh như tình trạng thất nghiệp, nghèo khó và chênh lệch giàu nghèo
xã hội, mâu thuẫn dân tộc tăng lên, trật tự xã hội hỗn loạn, hoạt động tội phạm
gia tăng…
Chính những mâu thuẫn này lại tạo ra những tiền đề các yếu tố của chủ
nghĩa xã hội xuất hiện trong lòng chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản càng
phát triển, tính chất và trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất ngày càng
cao thì quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất ngày càng
trở nên chật hẹp so với nội dung vật chất ngày càng lớn lên của nó. Mặc dù
chủ nghĩa tư bản ngày nay đã có điều chỉnh nhất định trong quan hệ sở hữu,
quản lý và phân phối, và ở một chừng mực nhất định, sự điều chỉnh đó cũng
đã phần nào làm giảm bớt tính gay gắt của mâu thuẫn này. Song tất cả những
điều chỉnh ấy vẫn không vượt qua khỏi khuôn khổ của sở hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa. Vì vậy, mâu thuẫn vẫn không bị thủ tiêu. Theo sự phân tích của
Mác và Lênin, đến một chừng mực nhất định, quan hệ sở hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa sẽ bị phá vỡ và thay vào đó là một quan hệ sở hữu mới – sở hữu xã
hội về tư liệu sản xuất được xác lập để đáp ứng yêu cầu phát triển của lực
lượng sản xuất. Điều đó cũng có nghĩa là phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa sẽ bị thủ tiêu và một phương thúc sản xuất mới.
Tuy nhiên, phải nhận thức rằng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
không tự tiêu vong và phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa cũng không
tự phát hình thành mà phải được thực hiện thông qua cuộc cách mạng xã hội,
trong đó, giai cấp có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội này
chính là giai cấp công nhân.
Tóm lại, bản chất của chủ nghĩa tư bản là bản chất bóc lột sức lao động
của người làm thuê. Bản chất đó vẫn không thay đổi trong điều kiện hiện nay.
Nó chỉ chuyển hóa từ hình thức bóc lột này sang hình thức bóc lột khác mà
thôi.
- Xem thêm -