Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đề cương ôn thi tốt nghiệp trình độ TCLLCT-HC...

Tài liệu đề cương ôn thi tốt nghiệp trình độ TCLLCT-HC

.DOCX
21
2871
90

Mô tả:

ÔN THI TỐT NGHIỆP HỌC PHẦN NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ, NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT XHCN I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN VIỆT NAM 1. Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam (Làm theo đúng giáo trình) 2. Các yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam (Làm theo đúng giáo trình) 3. Liên hệ về nhà nước của dân, do dân, vì dân ở nước ta II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 1. Khái niệm pháp luật Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị (Nhà nước) trong xã hội, là nhân tố để điều chỉnh các QHXH theo một trật tự nhất định phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị (Nhà nước) 2. Bản chất của pháp luật a. Tính giai cấp của pháp luật + Pháp luật phản ánh ý chí của Nhà nước, của giai cấp thông trị trong xã hội, nội dung ý chí được quy định bởi các điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp thống trị. Nhờ nắm trong tay quyền lực Nhà nước, giai cấp thống trị đã thông qua Nhà nước để thể hiện ý chí của giai cấp mình một cách tập trung, thống nhất và hợp pháp hoá thành ý chí của nhà nước, ý chí đó được cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện. Ý chí của giai cấp thống trị thể hiện trong pháp luật không phải là sự phản ánh tuỳ tiện mà nội dung của ý chí đó phải phù hợp với quá trình phát triển của xã hội. + Tính giai cấp của pháp luật còn thể hiện ở mục đích điều chỉnh các QHXH, thực chất là điều chỉnh các quan hệ giữa các tầng lớp trong xã hội. Do vậy, pháp luật là nhân tố để điều chỉnh về mặt giai cấp hướng các quan hệ xã hội phát triển theo một trật tự nhằm bảo vệ và củng cố địa vị của giai cấp thống trị . Pháp luật của mỗi Nhà nước thể hiện tính giai cấp của Nhà nước mình khác nhau: + Nhà nước chủ nô - PK pháp luật bao giờ cũng thể hiện ý chí của thiểu số giai cấp chủ nô và giai cấp phong kiến đối với đa số nô lệ và người bị bóc lột. Tức là nó công khai quyền lực vô hạn của chủ nô và tình trạng vô quyền của nô lệ. + Nhà nước tư sản pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp tư sản mục đích là phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, pháp luật bảo vệ quyền chiếm hữu tư nhân về TLSX và quyền tự do bản sức lao động. 1 + Nhà nước XHCN pháp lật bao giờ cũng thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và đông đảo nhân dân lao động trong xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng. b. Tính xã hội của pháp luật + Pháp luật là sự chọn lọc tự nhiên trong xã hội, trong cuộc sống hàng ngày mọi cá nhân, tổ chức có các mối quan hệ với nhau rất đa dạng và đều được thể hiện ở hành vi cư xử khác nhau, XH thông qua Nhà nước để ghi nhận cách cư xử hợp lý, khách quan và cách cư xử đó được Nhà nước cụ thể hoá thành các văn bản pháp luật. + Tính xã hội của PL còn được thể hiện ở chỗ pháp luật vừa là thước đo hành vi của con người, vừa là công cụ để kiểm nghiệm các quy trình, các hiện tượng XH, là công cụ để nhận thức XH và điều chỉnh các QHXH hướng chúng vận động và phát triển phù hợp với quy luật phát triển khách quan của đời sống XH, nhằm đưa đến cho con người lượng thông tin nhất định về giá trị và yêu cầu của XH. Ngoài ra, ở Việt Nam bản chất của pháp luật còn được thể hiện qua: Tính dân tộc, tính nhân dân: Pháp luật thừa kế và phát triển từ những chuẩn mực đạo đức xã hội của một dân tộc, phát triển từ những đặc điểm kinh tế xã hội của một dân tộc trong từng giai đoạn gắn với sự phát triển của dân tộc đó, gần gũi với nhân dân và được nhân dân chấp nhận và thực hiện. Tính thời đại: Tiếp nhận các chuẩn mực của pháp luật quốc tế ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ phát triển. 3. Vai trò chủ yếu của pháp luật a. Vai trò của pháp luật đối với kinh tế - Đối với kinh tế, pháp luật là phương tiện hàng đầu xác định địa vị pháp lý bình đẳng đối với các chủ thể tham gia quan hệ kinh tế; tạo lập các khung pháp lý để các chủ thể quản lý nhà nước dựa vào các chuẩn mực pháp lý để điều khiển hoạt động sản xuất, kinh doanh. Thông qua PL, Nhà nước tạo ra môi trường thuận lợi, tin cậy và chính thức cho các chủ thể tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh thực hiện có hiệu quả. - PL là phương tiện làm cho các quan hệ kinh tế trở thành các quan hệ PL. Khi đó, PL xác định rõ các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế, quyền và nghĩa vụ cũng như khách thể mà các bên tham gia hoạt động kinh tế. - PL là phương tiện củng cố và bảo vệ những nguyên tắc của nền KTTT như: Lợi ích, nhu cầu của người tiêu dùng đối với sản xuất, bảo đảm và tôn trọng sự cạnh tranh lành mạnh… đồng thời PL còn là phương tiện bảo vệ lợi ích kinh tế cho các bên tham gia các QHKT trong trường hợp xảy ra tranh chấp kinh tế, vi phạm hợp đồng kinh tế. b. Vai trò của pháp luật đối với hệ thống chính trị - Đối với sự lãnh đạo của Đảng pháp luật là phương tiện để thể chế hoá đường lối, chủ trương và chính sách của Đảng thành các qui định của Nhà nước làm cho đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trở những chỉ thị có tính bắt buộc và có hiệu lực thi hành trên quy mô toàn quốc. Đồng thời PL là phương tiện 2 để Đảng kiểm tra đường lối, chủ trương của mình trong thực tiễn. Mặt khác, PL còn là phương tiện phân định rõ phương thức lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý, điều hành của Nhà nước. Chúng ta biết rằng: Đảng lãnh đạo Nhà nước, xã hội sự lãnh đạo đó trước hết bằng việc đề ra đường lối, chủ trương chính sách đúng đắn và sử dụng các phương tiện, hình thức khác nhau để thực hiện đường lối chủ trương chính sách đó. Việc thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách bằng các QPPL là một phương pháp quan trọng nhờ đó mà đường lối chủ trương, chính sách của Đảng trở thành những mệnh lệnh, chỉ thị mang tính quyền lực nhà nước và được thực hiện một cách chính xác, thống nhất trong cả nước, cũng qua đó nhân dân hiểu được chủ trương đường lối của Đảng. Bằng việc cụ thể hoá đường lối, chủ trương chính sách của Đảng thành pháp luật đã thể hiện được phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. - Đối với Nhà nước, pháp luật là phương tiện tổ chức và hoạt động của chính mình, là sự ghi nhận về mặt pháp lý trách nhiệm của Nhà nước đối với các cá nhân, xã hội, là phương tiện quản lý có hiệu lực nhất đối với mọi mặt của đời sống xã hội. Pháp luật chứa đựng trong mình sự kết hợp giữa thuyết phục và cưỡng chế, giữa tập trung và dân chủ, giữa năng động sáng tạo với kỷ luật kỷ cương. Do vậy, khi quản lý mọi mặt của đời sống xã hội thì Nhà nước phải sử dụng pháp luật. - Đối với các tổ chức chính trị - xã hội, PL là cơ sở pháp lý bảo đảm cho nhân dân tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội thông qua các tổ chức chính trị - xã hội của mình. PL thể chế và phát triển nền dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân dựa vào PL để đấu tranh với các hành vi lạm quyền, hành vi VPPL. Tóm lại: Đối với hệ thống chính trị, PL chính là phương tiện thiết lập các nguyên tắc quan trọng nhất về tổ chức và hoạt động của toàn bộ hệ thống, bảo đảm cho hệ thống hoạt động nhịp nhàng, là thước đo tính hợp pháp, hợp chính trị, hợp đạo lý của cỏc yếu tố tạo nờn hệ thống chính trị và các thành viên hoạt động trong hệ thống đó. c. Vai trò của pháp luật đối với đạo đức và tư tưởng - Đối với đạo đức, PL thể chế hóa các nguyên tắc của đạo đức thành các QPPL, nói cách khác giữa đạo đức và PL có sự đan xen về mặt nội dung. Do vậy, PLXHCN bảo vệ và phát triển đạo đức, bảo vệ tính công bằng, chủ nghĩa nhân đạo, tự do, lòng tin và lương tâm con người. Sự ghi nhận bằng PL các nghĩa vụ, đạo đức trước xã hội nhằm củng cố và bảo vệ hạnh phúc gia đình, giáo dục thế hệ trẻ, khuyến khích sự giúp đỡ đồng chí, tính lương thiện, trung thực, thể hiện vai trũ của PL. - Đối với tư tưởng, PL là phương tiện đăng tải thế giới khách quan khoa học các tư tưởng tiến bộ và các giá trị nhân loại. Vì thế, PL XHCN có vai trò quan trọng trong củng cố và nâng cao nhận thức tư tưởng cho con người dưới chế độ XHCN. Điều này được thể hiện: 3 Một mặt, PL ghi nhận và khuyến khích sự phát triển của một hoặc nhiều hệ tư tưởng; Mặt khác, PL phủ nhận, không ghi nhận hoặc cấm sự tồn tại của những hệ tư tưởng không phù hợp với lợi ích của Nhà nước. d. Vai trò của pháp luật đối với quá trình hội nhập quốc tế Trong giai đoạn hiện nay, xu thế hội nhập quốc tế là tất yếu khách quan của mọi quốc gia trong đó có Việt Nam, nhưng hội nhập trên cơ sở nào, phương tiện nào là những vấn đề được các quốc gia quan tâm. Cùng với những tuyên bố chính trị, các quốc gia đang hướng tới xây dựng một hệ thống PL để tạo cơ sở vững chắc cho quá trình hội nhập quốc tế. Hệ thống PL này một mặt ghi nhận chủ quyền của mọi chủ thể tham gia quan hệ quốc tế, mặt khác khẳng định mọi chủ thể tham gia quan hệ quốc tế phải tôn trọng cam kết đó ký, phải gánh chịu trách nhiệm về những hậu quả có thể xảy ra. Với ý nghĩa này: PL chính là công cụ, phương tiện thực hiện chủ trương, chính sách đối ngoại của Việt Nam trên trường quốc tế. Đồng thời PL còn là phương tiện bảo vệ lợi ích hợp pháp cho các chủ thể trong quá trình hội nhập. Việt Nam với phương châm “là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế”, những năm qua, PL nước ta đó có bước phát triển mới, toàn diện hơn, vừa thể hiện tính nhân dân, vừa thể hiện tính thời đại. Hệ thống PL bước đầu đó tạo ra môi trường pháp lý đáng tin cậy cho quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển của quốc tế hiện nay, nước ta muốn hội nhập có hiệu quả cần phải có một hệ thống PL hoàn chỉnh, đồng bộ và toàn diện hơn. Định nghĩa PLXHCN: là hệ thống những quy tắc xử sự chung do Nhà nước XHCN ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và đại đa số nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và được bảo đảm thực hiện bằng bộ máy nhà nước thông qua phương thức tác động của Nhà nước, trên cơ sở giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế của Nhà nước nhằm xây dựng chế độ XHCN. III. HỆ THỐNG PHÁP LUẬT 1. Quy phạm pháp luật a. Khái niệm Qui phạm pháp luật là những qui tắc xử sự cụ thể trong những tính huống nhất định, có tính bắt buộc chung, do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và được Nhà nước bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của Nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích xây dựng xó hội ổn định và trật tự. b. Đặc điểm của QPPL - QPPL là quy tắc xử sự, mang tính bắt buộc chung, do cơ quan nhà nước ban hành, phổ biến đối với tất cả mọi người. - QPPL vừa mang tính ý chí, vừa mang tính xã hội. 4 - QPPL chỉ ra các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia quan hệ mà nó điều chỉnh, việc thực hiện các QPPL được Nhà nước thừa nhận và được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. - QPPL có tính hệ thống, tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức. 2. Cấu tạo của qui phạm pháp luật a. Giả định: Giả định là một bộ phận của QPPL, nêu lên những điều kiện, hoàn cảnh có thể xảy ra trong cuộc sống mà con người gặp phải và cần phải xử sự theo đúng qui định của pháp luật. Nó thường được trả lời cho câu hỏi: Người nào, tổ chức nào; khi nào; trong điều kiện, hoàn cảnh như thế nào?. b. Qui định: Là bộ phận trung tâm của QPPL, nêu lên qui tắc buộc mọi người phải xử sự khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh như đã nêu trong phần giả định. Nó thường được trả lời cho câu hỏi: phải làm gì? Không được làm gì? Được làm gì? Làm như thế nào?. c. Chế tài: Là một bộ phận của QPPL nêu lên những biện pháp tác động mà Nhà nước dự kiến sẽ áp dụng đối với chủ thể nào không thực hiện mệnh lệnh của Nhà nước khi ở vào những điều kiện, hoàn cảnh như vậy. Nó thường được trả lời cho câu hỏi : phải chịu hậu quả gì, nếu không làm đúng những qui định mà Nhà nước đã đề ra. Như vậy, cấu tạo của một qui phạm pháp luật thông thường được hợp thành bởi 3 bộ phận là giả định, qui định, chế tài. Nhưng cũng có nhiều điều luật không thể hiện đầy đủ cả 3 bộ phận này, đôi khi một bộ phận bị "ẩn" nhưng khi đọc lên mọi người vẫn hiểu đúng như pháp luật đã qui định. Chế tài của QPPL thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật và thái độ nghiêm khắc của Nhà nước đối với những hành vi vi phạm pháp luật, nó vừa có ý nghĩa răn đe, phòng ngừa, vừa có tác dụng giáo dục cho mọi người tuân thủ nghiêm pháp luật tránh việc VPPL đồng thời quy định trách nhiệm đối với ai VPPL. Phần chế tài chính là sự phản ứng của Nhà nước đối với các hành vi VPPL và chỉ ra các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước. Chế tài được chia làm 4 loại : + Chế tài kỷ luật Chế tài kỷ luật chủ yếu áp dụng trong lĩnh vực lao động, việc làm. Nó gồm các biện pháp như: Khiển trách, cảnh cáo, hạ tầng công tác, hạ bậc lương, chuyển đi làm việc khác, buộc thôi việc, cách chức,... + Chế tài hành chính Chế tài hành chính không chỉ sử dụng trong lĩnh vực hành chính, mà còn được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống (trong quan hệ lao động, trong trật tự an toàn xã hội, trong quản lý hành chính và đôi khi còn được kết hợp để xử lý một số vi phạm hình sự) 5 Chế tài hành chính gồm các biện pháp như : Cảnh cáo, phạt tiền,... ngoài ra còn các biện pháp bổ sung khác (tước quyền sử dụng giấy phép, hoặc tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm) + Chế tài dân sự Chế tài dân sự chủ yếu sử dụng trong giao lưu dân sự. Nó thường được thể hiện dưới dạng trách nhiệm vật chất như : Bồi thường thiệt hại, phạt bội ước hoặc vi phạm hợp đồng,... + Chế tài hình sự Chế tài hình sự được áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật đã được qui định trong Bộ luật hình sự. Chế tài hình sự thường được thể hiện dạng hình phạt, nên nó là loại chế tài nặng nhất. 3. Văn bản Quy phạm pháp luật a. Khái niệm Văn bản qui phạm pháp luật là hình thức pháp luật tiến bộ nhất trong lịch sử, là nguồn cơ bản tạo nên toàn bộ hệ thống pháp luật của Nhà nước. Ở nước ta, văn bản QPPL là hình thức duy nhất mang tính chính thức của pháp luật, là nguồn trực tiếp của pháp luật Việt Nam. Vì ở nước ta tiền lệ pháp và án lệ không được chính thức thừa nhận là nguồn của pháp luật. Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này hoặc trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội. (Điều 1 Luật BHVBQPPL 2008). b. Đặc điểm của văn bản qui phạm pháp luật - Văn bản qui phạm pháp luật là văn bản do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành. Nghĩa là không phải mọi văn bản đều gọi là văn bản qui phạm pháp luật, mà chỉ những văn bản nào được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành mới có thể trở thành văn bản qui phạm pháp luật. - Văn bản qui phạm pháp luật là văn bản có chứa đựng các qui tắc xử sự chung (có chứa các QPPL), có hiệu lực bắt buộc chung. Điều này cho phép phân biệt VBQPPL với những văn bản hành chính thông thường do Nhà nước ban hành cũng có giá trị pháp lý nhưng không chứa đựng các quy tắc xử sự chung (quy phạm pháp luật) - Văn bản qui phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trong đời sống, được áp dụng trong mọi trường hợp khi có sự kiện pháp lý xảy ra. Nghĩa là văn bản qui phạm pháp luật khác với các văn bản cá biệt hoặc các văn bản áp dụng pháp luật ở chỗ nó không chỉ được áp dụng một vài lần. Ví dụ : 6 Một quyết định phân phối nhà ở, giải quyết chế độ hưu trí, hay một bản án, không phải là những qui phạm pháp luật. - Tên gọi, nội dung, hình thức và trình tự ban hành các loại văn bản qui phạm pháp luật cũng được qui định cụ thể trong luật. c. Các loại văn bản quy phạm pháp luật Theo quy định tại Điều 2 Luật Ban hành VBQPPL năm 2008, hệ thống VBQPPL của cơ quan nhà nước gồm có: 1. Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. 2. Pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. 3. Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước. 4. Nghị định của Chính phủ. 5. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. 6. Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thông tư của Chánh án Toà án nhân dân tối cao. 7. Thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. 8. Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. 9. Quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nước. 10. Nghị quyết liên tịch giữa Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa Chính phủ với cơ quan Trung ương của tổ chức chính trị - xã hội. 11. Thông tư liên tịch giữa Chánh án Toà án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. 12. Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân. d. Sự khác nhau giữa văn bản quy phạm pháp luật với văn bản của đơn vị hoặc văn bản của các tổ chức chính trị - xã hội? IV. LUẬT DÂN SỰ 1. Quyền sở hữu tài sản a. Khái niệm Quyền sở hữu là tổng hợp hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng và những tài sản khác theo quy định của pháp luật. Nội dung của quyền sở hữu là tổng hợp các quyền năng mà chủ sở hữu có được đối với tài sản của mình bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. 7 b. Nội dung của quyền sở hữu - Quyền chiếm hữu Quyền chiếm hữu là quyền năng của chủ sở hữu tự mình nắm giữ, quản lý tài sản thuộc sở hữu. Đó cũng là quyền kiểm soát, làm chủ tài sản của chủ sở hữu không bị hạn chế và gián đoạn về thời gian trừ trường hợp chủ sở hữu chuyển giao việc chiếm hữu cho người khác hoặc pháp luật có quy định khác. Chiếm hữu được phân thành hai loại: * Chiếm hữu hợp pháp: Là hình thức chiếm hữu tài sản có căn cứ pháp luật. Sự chiếm hữu được coi là hợp pháp nếu đó là sự chiếm hữu của chủ sở hữu. Người không phải là chủ sở hữu mà chiếm hữu thì chỉ được coi là chiếm hữu hợp pháp khi có những căn cứ sau: - Được chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản hoặc chuyển giao quyền chiếm hữu tài sản thông qua giao dịch dân sự phù hợp với ý chí của chủ sở hữu. - Phát hiện, nắm giữ tài sản vô chủ, bị đánh rơi, bỏ quên, chìm đắm, bị chôn giấu phù hợp với các điều kiện của pháp luật. - Các trường hợp khác do pháp luật quy định như: Dựa trên cơ sở mệnh lệnh của một cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc trường hợp có quyền đương nhiên chiếm hữu vật. * Chiếm hữu bất hợp pháp (không có căn cứ pháp luật): - Chiếm hữu bất hợp pháp ngay tình: là chiếm hữu của một người đối với một tài sản bất hợp pháp nhưng do hoàn cảnh khách quan mà người đó không biết tài sản đó là tài sản bất hợp pháp. - Chiếm hữu bất hợp pháp không ngay tình: là chiếm hữu của một người đối với một tài sản bất hợp pháp mà người đó biết hoặc buộc phải biết tài sản đó là tài sản bất hợp pháp nhưng vẫn chiếm hữu - Quyền sử dụng: Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng và khai thác những lợi ích vật chất của tài sản trong phạm vi pháp luật cho phép. Chủ sở hữu có toàn quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức của tài sản theo ý chí của mình; có thể trực tiếp sử dụng tài sản của mình nhưng có thể được chuyển giao cho người khác trên cơ sở một hợp đồng hợp pháp của chủ sở hữu. Như vậy quyền sử dụng là một quyền năng mà pháp luật quy định người sở hữu (hoặc người chiếm hữu hợp pháp) được sử dụng các tài sản nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tái sản xuất, kinh doanh và được hưởng lợi từ tài sản đó. Quyền định đoạt: 8 Quyền định đoạt là quyền của chủ sở hữu trong việc quyết định số phận pháp lý và số phận thực tế của tài sản thuộc sở hữu của mình. Việc một người thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản sẽ làm chấm dứt hoặc thay đổi các quan hệ pháp luật liên quan đến tài sản đó. Cả ba quyền năng cụ thể tạo thành một thể thống nhất trong nội dung của quyền sở hữu, chúng có mối liên quan mật thiết với nhau nhưng mỗi quyền năng lại mang một ý nghĩa khác nhau. Cụ thể là quyền chiếm hữu là một tiền đề quan trọng cho hai quyền kia nhưng quyền sử dụng lại có một ý nghĩa thực tiễn thiết thực, vì chỉ có thông qua quyền năng này chủ sở hữu mới khai thác được lợi ích, công dụng của tài sản để thoả mãn các nhu cầu cho mình, còn quyền định đoạt lại xác định ý nghĩa pháp lý quan trọng nhất của chủ sở hữu. c. Giải thích tại sao quyền sở hữu là quyền cơ bản của công dân? 2. Quyền thừa kế a. Khái niệm: Thừa kế là việc chuyển di sản của người chết cho những người còn sống. Quan hệ thừa kế và quan hệ sở hữu có quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó quan hệ sở hữu là yếu tố đầu tiên làm xuất hiện quan hệ thừa kế. Quyền thừa kế là pháp luật về thừa kế, là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định trình tự dịch chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống theo di chúc hoặc theo một trình tự pháp luật nhất định; đồng thời quy định phạm vi quyền, nghĩa vụ và phương thức bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế và người để lại thừa kế. b. Thừa kế theo di chúc Thừa kế theo di chúc là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người khác còn sống theo quyết định của người đó trước khi chết được thể hiện trong di chúc. Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. + Các điều kiện có hiệu lực của di chúc: - Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc. - Người lập di chúc tự nguyện - Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội. - Hình thức của di chúc không trái quy định của pháp luật Hình thức văn bản: bao gồm di chúc có chứng nhận hoặc không có chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được lập theo quy định của pháp định. 9 Hình thức miệng: chỉ được công nhận là hợp pháp khi người lập di chúc ở trong tình trạng tính mạng bị đe doạ nghiêm trọng không thể lập di chúc bằng văn bản được. Di chúc miệng phải có ít nhất hai người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ và phải được công chứng hoặc chứng thực sau ít nhất 5 ngày. + Quyền của người lập di chúc - Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế - Phân định phần di sản cho từng người thừa kế. - Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng. - Giao nghĩa vụ cho ngưòi thừa kế trong phạm vi di sản. - Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản. - Sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ di chúc. + Chú ý: Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc: Những người sau đây, nếu không được người lập di chúc cho hưởng di sản, thì vẫn được hưởng ít nhất hai phần ba (2/3) suất của người thừa kế theo luật trừ khi họ từ chối hưởng di sản hoặc không có quyền hưởng di sản theo quy định pháp luật: - Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng - Con đã thành niên mà không có khả năng lao động. c. Thừa kế theo pháp luật Thừa kế theo pháp luật là việc dịch chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định. - Các trường hợp chia thừa kế theo pháp luật: + Không có di chúc + Di chúc không hợp pháp; + Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế; + Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc đều không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối hưởng di sản; + Phần di sản không được định đoạt trong di chúc; + Phần di sản liên quan đến di chúc không có hiệu lực pháp luật - Diện và hàng thừa kế: Diện thừa kế là phạm vi những người có quyền hưởng di sản thừa kế của người chết theo quy định của pháp luật. Diện của những người thừa kế được xác định trên 3 quan hệ: hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng. 10 + Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; + Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; + Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. - Nguyên tắc chia thừa kế theo pháp luật: Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. V. LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 1. Khái niệm: Kết hôn là sự kiện nhằm xác lập quan hệ vợ chồng giữa một nam và một nữ, đó là sự thống nhất nhất ý chí của cả hai bên nam nữ, đồng thời phải được Nhà nước thừa nhận. Theo khái niệm trên, hai bên nam nữ muốn kết hôn phải thể hiện và bảo đảm hai yếu tố sau: Thứ nhất: Phải thể hiện ý chí là mong muốn được kết hôn với nhau. điều quan trọng đầu tiên là hai bên nam nữ phải tổ rõ ý chí của mình mong muốn được xác lập quan hệ vợ chồng. Sự bày tỏ ý chí phải thống nhất với ý chí. Trong giấy đăng ký kết hôn và trước cơ quan hộ tịch, hay bên phải thể hiện rằng họ hoàn toàn đồng ý và mong muốn được kết hôn. Sự tự nguyện đó phải phù hợp với tâm tư nguyện vọng của hai người. Kết hôn là mong muốn được gắn bó với nhau trong quan hệ vợ chồng, đảm bảo xây dựng gia đình XHCN thật sự dân chủ, hoà thuận, hạnh phúc và bền vững. Thứ hai: Phải được Nhà nước thừa nhận. Nhà nước công nhận hôn nhân khi việc kết hôn tuân thủ các điều kiện kết hôn do Luật HN&GĐ quy định. Dưới chế độ XHCN Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình. Nhưng hôn nhân đó phải là hợp pháp và được Nhà nước thừa nhận. Nếu việc kết hôn không tuân thủ các điều kiện kết hôn theo pháp luật quy định, thì về nguyên tắc Nhà nước không thừa nhận hôn nhân, vì vậy hai bên nam nữ không phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng. 2. Các điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 - Phải đủ độ tuổi do Luật HN&GĐ quy định. Cụ thể là : Nam từ đủ 20 tuổi, trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn. 11 Việc quy định như vậy là hợp lý, khoa học và phù hợp với đặc điểm (chỉ số) phát triển tâm sinh lý của người Việt Nam. Ở độ tuổi này, cả nam và nữ đã đảm bảo cả về thể lực và trí lực cũng như đảm bảo đủ sức khỏe để làm cha, làm mẹ và những đứa con sinh ra sẽ khỏe mạnh cả về thể lực và trí lực. - Phải có sự tự nguyện của hai bên nam và nữ. Việc kết hôn phải do chính đôi nam nữ lựa chọn và tự nguyện quyết định vì đây là quyền của họ. Mọi trường hợp cưỡng ép, cản trở kết hôn, lừa dối kết hôn đều là trái pháp luật. Việc tự nguyện của hai bên nam, nữ khi kết hôn được dựa trên nền tảng là tình yêu chân chính giữa một người nam và một người nữ mà không bị chi phối bởi yếu tố vật chất. Việc tự nguyện lựa chọn và quyết định của hai bên nam nữ phải được trình bày công khai trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Uỷ ban nhân dân nơi đăng ký kết hôn), và được thể hiện bằng hành động là ký vào sổ kết hôn theo thủ tục do Nhà nước quy định. - Không bị mất năng lực hành vi dân sự (tức là người đó đang mắc bệnh tâm thần không có khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của mình). - Không thuộc các trường hợp PL cấm kết hôn tại khoản 2 Điều 5 Luật HN&GĐ: - Người đang có vợ hoặc có chồng (nghĩa là người đã kết hôn hợp pháp và hôn nhân đó đang còn tồn tại. Trường hợp này còn vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng theo quy định của Luật HN&GĐ 2014; - Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa rối kết hôn, cản trở kết hôn - Kết hôn giả tạo. - Giữa người cùng dòng máu về trực hệ (là cha mẹ đối với con, ông bà đối với cháu nội, cháu ngoại); giữa những người có họ hàng trong phạm vi ba đời (là những người cùng một gốc sinh ra thì: cha mẹ là đời thứ nhất; anh em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh chị em con chú con bác, con cô con cậu, con dì là đời thứ ba); Trường hợp này không chỉ vi phạm Luật HN&GĐ mà còn vi phạm các quy tắc đạo đức, vi phạm luân thường, đạo lý …. của người Việt Nam - Giữa cha mẹ nuôi với con nuôi, giữa những người đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng; Trường hợp kết hôn mà vi phạm một trong các điều kiện nói trên thì bị coi là trái pháp luật. d. Về thẩm quyền đăng ký - Theo quy định tại Điều 17 Luật hộ tịch năm 2014 thì: Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của bên nam hoặc bên nữ công nhận và ghi vào sổ kết hôn theo nghi thức do Nhà nước quy định. - Điều 6, Nghị định số 24/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định: Cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài là cơ quan đăng ký kết hôn giữa công 12 dân Việt Nam định cư ở nước ngoài với nhau ở nước ngoài; giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài. - UBND cấp tỉnh (tỉnh, TP trực thuộc TW) nơi cư trú của công dân Việt Nam là cơ quan đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài. Nghị định số 123/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định: Cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam, cơ quan lãnh sự và cơ quan khác được ủy quyền thực hiện chức năng lãnh sự thực hiện đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài nếu việc đăng ký đó không trái với pháp luật của nước sở tại. Mọi nghi thức kết hôn khác đều không có giá trị pháp lý. Giấy đăng ký kết hôn có ý nghĩa rất quan trọng đối với cả hai bên nam và nữ, vì giấy đăng ký kết hôn chính là chứng cứ để chứng minh hai bên nam, nữ đã xác lập quan hệ vợ chồng và được Nhà nước bảo vệ, đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, giấy đăng ký kết hôn chính là cái để các cơ quan kiểm tra việc thực hiện, tuân thủ các điều kiện kết hôn theo quy định của Luật HN&GĐ trong phạm vi cả nước cũng như đối với từng địa phương. 3. Liên hệ với việc thực hiện các điều kiện kết hôn ở địa phương hoặc ở nước ta hiện nay ? VI. LUẬT HÀNH CHÍNH 1. Quyền của cán bộ, công chức (Làm theo đúng giáo trình) 2. Nghĩa vụ của cán bộ, công chức (Làm theo đúng giáo trình) VII. PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 1. Khái niệm pháp chế XHCN Pháp chế XHCN là chế độ đặc biệt của đời sống chính trị - xã hội, trong đó Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và yêu cầu, đòi hỏi các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải tuân thủ, chấp hành, thực hiện đúng đắn, nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật trong mọi hoạt động, hành vi xử sự của mình; đồng thời phải không ngừng đấu tranh phòng ngừa, chống tội phạm và các VPPL khác, xử lý nghiêm minh mọi VPPL. a. Pháp chế XHCN là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước: + Tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước phải tiến hành theo đúng luật định (cơ quan quyền lực phải do dân bầu ra) + Mọi cán bộ, công chức nhà nước phải nghiêm chỉnh triệt để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật, chống mọi biểu hiện lạm quyền, thoái thác không tuân theo pháp luật. 13 b. Pháp chế XHCN là nguyên tắc hoạt động của tổ chức chính trị và các đoàn thể quần chúng nhân dân: Tổ chức chính trị ở nước chỉ duy nhất đó là Đảng CSVN độc tôn lãnh đạo, các tổ chức chính trị –xã hội gồm có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng liên đoàn Lao động, Hội nông dân, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, các tổ chức xã hội nghề nghiệp khác.. Nguyên tắc này đòi hỏi hoạt động của các tổ chức chính trị và các đoàn thể quần chúng nhân phải tôn trọng và chấp hành triệt để các qui định của Hiến pháp và pháp luật hiện hành. Nghĩa là các đoàn thể và tổ chức quần chúng khi đề ra phương hướng và nguyên tắc tổ chức, hoạt động của mình phải dựa trên cơ sở pháp luật; đồng thời các tổ chức này phải có trách nhiệm động viên, giáo dục các thành viên của mình tôn trọng và tuân theo pháp luật. Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, có sứ mệnh trọng đại là lãnh đạo Nhà nước, tổ chức phát huy vai trò của các đoàn thể quần chúng và quyền làm chủ của nhân dân lao động. Nhưng sự lãnh đạo của Đảng cũng không được tách rời nguyên tắc pháp chế XHCN, nghĩa là hoạt động của Đảng cũng phải trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật; đồng thời đòi hỏi mỗi tổ chức Đảng, mỗi đảng viên phải gương mẫu chấp hành pháp luật. Như điều 4 Hiến pháp 1992 đã qui định "Mọi tổ chức Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật". c. Pháp chế XHCN là nguyên tắc xử sự của mọi công dân: Trong các mối quan hệ: => Công dân với công dân => Công dân với Nhà nước => Công dân với các tổ chức xã hội Trong các mối quan hệ trên thì pháp chế XHCN yêu cầu mọi chủ thể phải tuân theo pháp luật, tôn trọng pháp luật, thực hiện đúng pháp luật. Đây vừa là điều kiện cơ bản để đảm bảo công bằng xã hội (thực hiện nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật), vừa là điều kiện cho mỗi công dân đều có quyền được tự do phát triển cũng như làm nghĩa vụ theo đúng quy định và giới hạn mà pháp luật cho phép. + Mỗi công dân không chỉ tự mình tuân theo pháp luật mà họ còn có trách nhiệm là người chủ xã hội, có quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước và các tổ chức xã hội, của các công dân khác cũng như đấu tranh phòng, chống những hành vi VPPL. c. Pháp chế XHCN phải gắn liền với dân chủ XHCN: Pháp chế và dân chủ là hai khái niệm có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nội dung của pháp chế XHCN chính là quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy, mối quan hệ này được thể: hiện dân chủ vừa là nội dung thể hiện bản chất của pháp chế XHCN vừa là cơ sở để củng cố pháp chế XHCN còn pháp chế là yếu tố, điều kiện 14 không thể thiếu được để củng cố, mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Pháp chế XHCN là nền tảng pháp lý vững chắc để bảo đảm nền dân chủ, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, các quyền tự do dân chủ của nhân dân phải được quy định trong pháp luật và phải được pháp chế bảo đảm thực hiện trong đời sống thực tế. Do vậy, tăng cường pháp chế XHCN chính là nhằm phát huy hiệu lực quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân. Pháp chế XHCN chính là phương thức để làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 2. Các yêu cầu của pháp chế XHCN a. Tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp và Luật: Đây là yêu cầu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhằm đảm bảo tính nhất quán, tính thống nhất của hệ thống pháp luật ở nước ta. Hiến pháp và Luật là những văn bản pháp lý do cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ban hành, thể hiện một cách tập trung ý chí và lợi ích cơ bản của nhân dân lao động trên các lĩnh vực, cũng như đối với các vấn đề quan trọng của Nhà nước và của xã hội. Đó là văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất, nên mọi văn bản pháp luật khác đều phải phù hợp với Hiến pháp và Luật. Hiến pháp có vị trí trung tâm và vai trò rất quan trọng trong việc ban hành các văn bản Luật và dưới luật. Do vậy, để thực hiện yêu cầu này, một mặt cần bổ sung, hoàn thiện Hiến pháp và luật nhằm kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mặt khác cần nhanh chóng cụ thể hoá những qui định trong Hiến pháp và Luật, để cho nhân dân hiểu đúng và làm đúng những qui định của pháp luật. b. Bảo đảm tính thống nhất của pháp chế trên qui mô toàn quốc: Xuất phát từ bản chất của Nhà nước, pháp luật và pháp chế XHCN. Pháp luật phải được nhận thức và thực hiện thống nhất trong cả nước và ở tất cả các ngành. Sự thống nhất của pháp chế được bảo đảm bằng hiệu lực tối cao của Hiến pháp và Luật so với các văn bản dưới luật khác. Hiến pháp và Luật có tính tối cao, các văn bản lập quy dưới luật phải được ban hành trên cơ sở của luật và để thực hiện luật. Văn bản của cơ quan nhà nước ở địa phương phải phù hợp, không mâu thuẫn với các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước ở Trung ương ban hành. Thực hiện tốt yêu cầu này chính là điều kiện rất quan trọng để thiết lập trật tự pháp luật XHCN. c. Các cơ quan xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật phải hoạt động một cách tích cực, chủ động và có hiệu quả: Pháp chế XHCC yêu cầu tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức trong hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình một cách tích cực, chủ động và hiệu quả theo quy định của pháp luật. Vì vậy, pháp luật 15 quy định rõ nhiệm vụ đối với các cơ quan dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật như sau: - Đối với các cơ quan xây dựng pháp luật và các cơ quan có thẩm quyền ban hành pháp luật : Cần phải có kế hoạch và các biện pháp bảo đảm cho các cơ quan này có đủ khả năng và điều kiện để hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực hiện tốt kế hoạch đó. Đối với Quốc hội phải có kế hoạch làm luật hàng năm và kế hoạch dài hạn, các cơ quan hành chính nhà nứoc từ TW đến địa phương, các bộ ngành cần phải chủ động trình dự án luật lên để Quốc hội để Quốc hội xem xét và ban hành pháp luật. Có làm tốt những việc này thì hệ thống pháp luật mới được hoàn thiện, đầy đủ và đồng bộ đáp ứng được nhu cầu khách quan, cần thiết của việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Bởi pháp luật là cơ sở để củng cố và tăng cường pháp chế, vì vậy, đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đồng bộ. - Đối với các cơ quan tổ chức và thực hiện pháp luật : Để củng cố và tăng cường pháp chế phải bảo đảm cho các cơ quan này hoạt động một cách có hiệu qủa, đòi hỏi các cơ quan thực hiện pháp luật: cần kịp thời cụ thể hoá các qui định của pháp luật, có kế hoạch hướng dẫn, giúp đỡ, đôn đốc và kiểm tra các địa phương, các cơ sở trong việc thực hiện pháp luật. Cần giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật, năng lực thực hiện pháp luật của cán bộ, nhân viên Nhà nước. Đồng thời tích cực tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân. Bởi vì không có ý thức pháp luật và am hiểu pháp luật thì không thể tự giác tuân theo và chấp hành nghiêm chỉnh, không thể áp dụng đúng pháp luật trong việc quản lý xã hội. - Đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật: Cần có những biện pháp hữu hiệu để xử lý nhanh chóng, nghiêm minh và kịp thời các hành vi VPPL nhất là tội phạm, nhằm duy trì trật tự kỷ cương trong xã hội. Bởi kết qủa hoạt động của các cơ quan này sẽ có tác động trực tiếp tới việc củng cố và tăng cường pháp chế. d. Không tách rời công tác pháp chế với văn hoá và văn hoá pháp lý: Cần nâng cao trình độ văn hoá nói chung và văn hoá pháp lý nói riêng cho các nhân viên Nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và mọi công dân. Vì trình độ văn hoá nói chung và văn hoá pháp lý nói riêng có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình củng cố nền pháp chế XHCN. 3. Vấn đề tăng cường pháp chế XHCN a. Tại sao phải tăng cường pháp chế XHCN Nguyên nhân dẫn đến việc phải tăng cường pháp chế XHCN - Kỷ cương pháp luật trong quản lý nhà nước còn bị buông lỏng, việc thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật còn chậm; - Pháp luật chưa được chấp hành một cách nghiêm chỉnh, các hành vi VPPL và tội phạm ngày càng tăng cả về số lượng và quy mô. - Tình trạng cục bộ địa phương vẫn tồn tại và đang gây nguy hại nhiều mặt làm cho tình hình kinh tế xã hội thêm khó khăn. 16 b. Các biện pháp củng cố và tăng cường pháp chế XHCN 1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với pháp chế XHCN: Đảng CSVN là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội nên việc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với việc tăng cường pháp chế XHCN. Vì vậy: Công tác tăng cường pháp chế phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, mặt khác các cấp uỷ Đảng từ Trung ương đến địa phương, từ trên xuống dưới phải thường xuyên lãnh đạo công tác pháp chế, tăng cường cán bộ có phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực cho lĩnh vực pháp chế như công an, VKS, Toà án và Thanh tra Nhà nước; Lãnh đạo công tác xây dựng pháp luật để mọi đường lối chủ trương của Đảng đều được cụ thể hoá thành pháp luật, kiểm tra công tác tổ chức thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật đối với các cơ quan nhà nước, tổ chức, cán bộ, công chức. Mọi cơ quan, tổ chức, đảng viên của Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật, thực hiện đúng pháp luật, không can thiệp và làm thay thẩm quyền của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước. 2. Đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Với quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, vấn đề hoàn thiện pháp luật nhằm tạo ra một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh về nội dung và hình thức có ý nghĩa đặc biệt quan trọng hàng đầu trong việc tăng cường công tác pháp chế XHCN, pháp luật phải phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, phù hợp với trình độ dân trí, nguyện vọng của nhân dân. Vì vậy, để hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay cần phải: + Phải thể chế hoá kịp đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật; + Phải rà soát lại các văn bản pháp luật hiện hành, loại bỏ những văn bản sai trái, lỗi thời không còn phù hợp với thực tiễn hoặc sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới; + Phải có kế hoạch xây dựng và ban hành những văn bản pháp luật cần thiết để điều chỉnh các QHXH mới đang hình thành, ưu tiên xây dựng các luật về kinh tế, về các quyền công dân và các luật điều chỉnh công cuộc cải cách mộ máy nhà nước. + Thường xuyên tổng kết, đánh giá hiệu lực của pháp luật, tình hình thực hiện pháp luật trong thực tế. Tìm các nguyên nhân vi phạm để có biện pháp hoàn thiện pháp luật. Tóm lại: Pháp luật là tiền đề của pháp chế, do đó, muốn tăng cường pháp chế và quản lý xã hội bằng pháp luật cần phải xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ. 3. Tổ chức tốt công tác thực hiện pháp luật: Tổ chức tốt việc thực hiện pháp luật là khâu trung tâm, quan trọng nhất của công tác tăng cường pháp chế XHCN và củng cố trật tự pháp luật. Vì pháp chế và 17 trật tự pháp Luật chỉ được hình thành khi mọi người hiểu, tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật Vậy, muốn tổ chức tốt công tác thực hiện pháp luật chúng ta cần: - Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục pháp luật để tạo lập ý thức pháp luật cho mọi công dân và làm tiền đề trực tiếp cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật; - Đưa việc giảng dạy pháp luật vào hệ thống các trường học - Các cán bộ quản lý các cấp từ Trung ương đến cơ sở, đơn vị phải có kiến thức quản lý hành chính và hiểu biết về pháp luật. Cần có nhiều hình thức, biện pháp để giáo dục cho mọi người nâng cao ý thức pháp luật, có thói quen sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. 4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật: Kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật là trách nhiệm chung của tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và của mọi công dân, nhưng trước hết là trách nhiệm của các cơ quan dân cử, cơ quan kiểm tra, Thanh tra nhà nước, Thanh tra nhân dân. Vì vậy, đối với các cơ quan này cần phải: + Phải tăng cường vai trò, vị trí, chức năng, kiện toàn lại tổ chức và đẩy mạnh hoạt động của các cơ quan cơ quan dân cử, cơ quan kiểm tra, Thanh tra nhà nước, Thanh tra nhân dân, nhằm phát huy vai trò của các cơ quan này trong việc củng cố, bảo vệ pháp chế XHCN, đấu tranh chống mọi VPPL và tội phạm; + Trong công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật phải đặc biệt coi trọng việc đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo của công dân đối với những hành vi VPPL; phải quán triệt nguyên tắc dân chủ XHCN; + Phải xử lý nhanh chóng, nghiêm minh, kịp thời những hành vi VPPL; Có xử lý nghiêm minh những hành vi VPPL mới phát huy được hiệu lực của pháp luật và giữ vững, củng cố được pháp chế XHCN, ngăn chặn hành vi VPPL đem lại lòng tin cho nhân dân. + Phải dùng sức mạnh của pháp chế XHCN kết hợp với sức mạnh của dư luận xã hội để đấu tranh phòng chống hành vi VPPL. Thực hiện tốt biện pháp này nhằm bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. 5. Kiện toàn các cơ quan quản lý hành chính nhà nước và tư pháp: Trong XHCN, nền pháp chế phụ thuộc chủ yếu vào việc thi hành pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nước và các cơ quan tư pháp. Vì vậy, muốn tăng cường pháp chế XHCN, cần phải kiện toàn lại các cơ quan này theo hướng: - Đối với cơ quan quản lý hành chính nhà nước: 18 + Xây dựng bộ máy hành chính nhà nước gọn nhẹ, các cơ quan này phải có chức năng, nhiệm vụ rõ ràng, không trùng lặp nhau. Xây dựng cơ chế điều hành, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, quản lý thống nhất theo ngành, theo lãnh thổ. + Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính có phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn, được nâng cao hiểu biết về quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội, am hiểu pháp luật và có khả năng thực thiện đúng thẩm quyền, đúng pháp luật trong khi thi hành công vụ. - Đối với cơ quan tư pháp: Hệ thống các cơ quan tư pháp gồm có Toà án, VKS, cơ quan điều tra và Thanh tra nhà nước. Các cơ quan này có trách nhiệm bảo vệ pháp luật, ngăn chặn đấu tranh với các hành vi VPPL. Vì vậy, đối với các cơ quan này cần phải đổi mới tổ chức và hoạt động theo những nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp đã được quy định trong Nghị quyết số 08/NQ-TW của Bộ chính trị năm 2002 cụ thể: + VKS cần tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; + Nâng cao hoạt động xét xử của các Toà án, chú trọng đến chất lượng tranh tụng, thực hiện nguyên tắc 2 cấp xét xử, nguyên tắc thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, tăng thẩm quyền xét xử cho Toà án cấp huyện, tôn trọng địa vị pháp lý của luật sư; + Kiện toàn tổ chức bộ máy của các cơ quan VKS, Toà án, các cơ quan điều tra, Thanh tra nhà nước, xây dựng và hoàn thiện cơ chế phối hợp chặt chẽ của các cơ quan này trên cơ sở của Luật tố tụng; + Xây dựng lực lượng cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp từ TW đến địa phương; + Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức tư pháp có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, có phẩm chất chính trị đạo đức tốt, tự mình chịu trách nhiệm cá nhân trong mọi hoạt động. Ngoài ra, cán bộ làm công tác quản lý nhà nước và tư pháp nhất thiết phải là những người am hiểu một cách có hệ thống về pháp luật để quản lý nhà nước theo đúng pháp luật, phải đấu tranh khắc phục những nhận thức không đúng đắn, không đầy đủ về pháp luật, pháp chế XHCN để tránh tình trạng không tôn trọng pháp luật và không kiên quyết đấu tranh xử lý nghiêm minh mọi VPPL. 6. Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước với các tổ chức xã hội và các đoàn thể nhân dân: Để làm tốt công tác tăng cường pháp chế XHCN thì việc phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội là rất quan trọng, vì vậy: Các cơ quan nhà nước cần phải phối hợp với các cơ quan trên trong việc tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật đến nhân dân thông qua việc thực hiện các cuộc vận động, các phong trào thực hiện pháp luật, xây dựng tổ hoà giải 19 cơ sở, xây dựng phong trào gia đình văn hoá, xoá bỏ tệ nạn ma tuý, mại dâm, mê tín dị đoan trong cộng đồng dân cư. Từ đó xây dựng, hình thành và nâng cao ý thức thực hiện pháp luật trong nhân dân, đồng thời đấu tranh phòng chống hành vi VPPL. 7. Tăng cường các hoạt động bổ trợ tư pháp: Hoạt động bổ trợ tư pháp là những hoạt động trợ giúp cho hoạt động tư pháp, chủ yếu do cơ quan nhà nước thực hiện nhằm làm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án được nhanh chóng, khách quan, đúng pháp luật. Các hoạt động bổ trợ tư pháp ở nước ta gồm hoạt động của luật sư và bào chữa viên nhân dân, hoạt động giám định tư pháp, hoạt động chứng thực, chứng nhận và công chứng, hoạt động thi hành các quyết định và bản án đã có hiệu lực pháp luật. Các hoạt động bổ trợ tư pháp có vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vụ án dân sự, lao động, kinh tế, hành chính đặc biệt là diễn ra trong giai đoạn tiến hành tố tụng hình sự. c. Liên hệ với việc thực hiện pháp chế XHCN tại nơi làm việc hoặc nơi cư trú? 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan