Đề cương ôn tập môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Ôn tập Tư tưởng HCM
I. Câu Hỏi Ngắn:
1. Lộ trình của HCM từ khi rời Nghệ An đến Nhà Rồng là:
- Huế: 1096- 5/1909;
- Bình Định: 5/1909- 8/1910;
- Bình Thuận: 8/1910- 2/1911;
- Sài Gòn: 2/1911- 5/6/1911.
2. Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc được xuất bản
đầu tiên vào năm 1925 ở Pari, lần đầu tiên ở Việt Nam bằng tiếng Pháp vào năm
1946 và lần đầu tiên ở Việt Nam bằng tiếng Việt vào năm 1960.
3. Khái niệm “Nhà nước của dân, do dân, vì dân” được HCM sử dụng lần đầu
tiên vào năm 1927.
4. Quan điểm: “Chúng ta phải đấu tranh cho tự do, độc lập của các dân tộc khác
như là tranh đấu cho dân tộc ta vậy” của HCM lần đầu tiên được biết đến vào
năm 1914.
5. Quan điểm “ dĩ bất biến ứng vạn biến” trong tư tưởng HCM lần đầu tiên được
biết đến vào ngày 31/5/1946.
6. Đến Liên Xô, lần đầu tiên HCM biết đến “ Chính sách kinh tế mới” của
Lênin vào năm 1923.
7. Lần đầu tiên HCM đưa ra khái niệm về Văn hóa trong Mục đọc sách ở phần
cuối tập Nhật ký trong tù( 1942- 1943): “ Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức,
pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo
và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh
hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng
những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
8. Hồ Chí Minh lần đầu tiên bước lên vũ đài chính trị thế giới bằng sự kiện gửi
Bản yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm đến Hội nghị Vécxây năm
1919.
9. Ngày 18/6/1919, Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho những người VN yêu nước
tại Pháp gửi đến hội nghị Vécxây Bản yêu sách gồm 8 điểm của nhân dân An
Nam. Nội dung cơ bản của Bản yêu sách này gồm những vấn đề sau:
- Đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông Dương
như đối với Châu Âu, xóa bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh, thay thế bằng chế độ
đạo luật;
- Đòi quyền tự do, dân chủ tối thiểu cho nhân dân An Nam.
10. Theo HCM mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN là mâu
thuẫn giữa một bên là yêu cầu phải tiến lên xây dựng 1 chế độ XH mới có “
công, nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến” với 1 bên là tình trạng
lạc hậu phải đối phó với bao thế lực cản trở, phá hoại mục tiêu của chúng ta.
11. Năm 1921, cùng với 1 số người yêu nước của các nước thuộc địa, Nguyễn
Ái Quốc sáng lập Hội Liên Hiệp thuộc địa. Hội này xuất bản tờ báo “Người
cùng khổ ( Le Paria) vào tháng 4/1922.
12. Theo HCM, trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, nền văn hóa ở nước ta
có tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng.
13.Vấn đề dân tộc trong tư tưởng HCM trong thời đại cách mạng vô sản là vấn
đề dân tộc thuộc địa.
14. Cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân
tộc là cơ sở tinh thần yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng dân tộc của
dân tộc Việt Nam.
15. Quan điểm về 1 mô hình nhà nước:“ Dựng ra chính phủ công nông binh”
được Hồ Chí Minh xác định vào năm 1930.
16. Hồ Chí Minh ví chủ nghĩa đế quốc như hình tượng 1 con đỉa có 2 cái vòi
bám và hút máu ở thuộc địa và chính quốc. Theo người, muốn tiêu diệt chủ
nghĩa đế quốc thì phải đồng thời cắt bỏ cả 2 vòi, 1 ở chính quốc và 1 ở thuộc
địa.
17. Quan điểm và 1 mô hình nhà nước: “lập chính phủ dân chủ cộng hòa” được
Hồ Chí Minh xác định vào năm 1941.
18. Hồ Chí Minh đề cập đến con người theo phạm vi và nhiều nghĩa rộng, hẹp
khác nhau. Theo đó, ở nghĩa rộng, Người dung khái niệm đồng bào cả nước; ở
nghĩa hẹp là “gia đình, anh em họ hàng, bầu bạn”; ở nghĩa rộng nhất là loài
người.
19. Trong tư tưởng HCM về đạo đức, Người ví “ Cần với Kiệm phải đi đôi với
nhau” như hai chân của con người.
20. Trong tư tưởng HCM về đạo đức, theo Người, chính đối với mình thì phải
không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập, cầu tiến bộ, luôn kiểm điểm mình
để phát huy điều hay, sửa đổi điều dở.
21. Lý thuyết lục hòa là 1 trong những cơ sở lý luận quan trọng góp phần hình
thành tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân tộc. Lý thuyết này do học thuyết Phật
giáo khởi xướng.
22. Lý thuyết “ đại đồng ” là 1 trong những cơ sở lý luận góp phần hình thành
tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân tộc, về CNXH. Lý thuyết này do học thuyết
Nho giáo khởi xướng.
23. Tư tưởng “ nước lấy dân làm gốc” do học thuyết Nho giáo khởi xướng.
24. Theo Hồ Chí Minh, học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng
đạo đức cá nhân; chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó là chính sách của
nó phù hợp với điều kiện nước ta.
25. Quan điểm của HCM khi Người đánh giá về tổ chức“ Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên” đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là quả trứng,
mà từ đó nở ra con chim cộng sản và là cơ sở cho một Đảng lớn hơn.
26. Theo HCM, “ giặc nội xâm” gồm có những loại: tham ô, lãng phí, quan liêu.
27. Khi đề cập đến mối quan hệ giữa đức và tài được thể hiện trong yêu cầu đối
với người cách mạng, Hồ Chí Minh còn dùng những khái niệm: hồng và
chuyên; hiền và minh.
28. Sự kiện đánh dấu sự hình thành về cơ bản tư tưởng HCM về con đường
cách mạng VN là đọc Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương của LêNin về những vấn
đề dân tộc và thuộc địa (tháng 7/1920).
29. Nội dung cốt lõi trong tư tưởng HCM là tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền
với CNXH.
30. Theo quy chế, việc thi tuyển công chức bao gồm: chính trị, kinh tế, pháp
luật, địa lý, lịch sử và ngoại ngữ. ( HCM ký sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950Quy chế công chức).
31. Vấn đề được HCM bổ sung vào cơ sở lịch sử của CN Mác là dân tộc học
phương Đông.
32. Theo Hồ Chí Minh, nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài của thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của CNXH.
33. Theo Hồ Chí Minh, bản chất giai cấp công nhân của nhà nước ta biểu hiện ở
những nội dung:
- Nhà nước ta do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo;
- Bản chất giai cấp thể hiện ở định hướng đưa đất nước ta đi lên CNXH;
- Bản chất giai cấp của nhà nước ta còn thể hiện ở nguyên tắc tổ chức cơ bản
là nguyên tắc tập trung dân chủ.
34. Theo Hồ Chí Minh, trong thời kỳ cách mạng XHCN , nền văn hóa VN thể
hiện ở những tính chất: tính XHCN về mặt nội dung và tính dân tộc về hình
thức.
35. Trong các cách tiếp tận CNXH dưới đây, cách tiếp cận thể hiện sự giống
nhau giữa HCM với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin là tiếp cận tư
tưởng về CNXH từ phương diện kinh tế.
36. Nhận thức về CNXH ở HCM là kết quả tác động tổng hợp của các nhân tố:
Truyền thống và hiện đại; Dân tộc và quốc tế; Kinh tế, chính trị, đạo đức và văn
hóa.
37. Theo Hồ Chí Minh, nền kinh tế XHCN mà Người phác họa trong tương lai
có những hình thức sở hữu:
- Sở hữu nhà nước( tức sở hữu toàn dân);
- Sở hữu tập thể, sở hữu của những người lao động riêng lẻ( kinh tế cá
thể);
- Sở hữu của các nhà Tư bản.
38. Đề tài nghiên cứu của HCM ở lớp nghiên cứu sinh do Viện nghiên cứu các
vấn đề dân tôc và thuộc địa mở vào năm 1937. Đề tài nghiên cứu có tên là “
Cách mạng ruộng đất ở Đông Nam Á”
39. Khi ở cương vị chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã ký công bố 16 đạo luật và
613 sắc lệnh.
40. Ngày 3/9/1945, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, HCM xác
định 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước VNDCCH. Trong 6 nhiệm vụ cấp bách
đó, nhiệm vụ thứ ba là chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ.
41. Khái niệm Nhà nước của dân, do dân, vì dân do A.Lincôn( Tổng thống Mỹ
cuối thế kỷ 19) đưa ra.
42. Lý luận cách mạng bạo lực của HCM gồm có những nội dung cơ bản:
- Bạo lực cách mạng VN là sức mạnh tổng hợp của toàn dân, bao gồm sức
mạnh tổng hợp của cả 2 yếu tố, của 2 lực lượng: Chính trị và quân sự;
- Cách mạng bạo lực là dùng sức mạnh tổng hợp đó để giành chính quyền và
giữ chính quyền;
- Tùy tình hình cụ thể mà quyết định hình thức đấu tranh vũ trang và đấu
tranh chính trị cho phù hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp 2 hình thức đấu
tranh đó để giành thắng lợi cho cách mạng.
43. Theo Hồ Chí Minh, động lực quan trọng và quyết định nhất của CNXH
chính là con người, nhân dân lao động, nòng cốt là công- nông- trí thức.
44. Tư tưởng HCM về Đảng CSVN hình thành dựa trên các yếu tố lý luận: Học
thuyết của Mác về Đảng cộng sản và trực tiếp là học thuyết về đảng kiểu mới
của giai cấp công nhân, đã được Lênin đưa ra từ những năm đầu của thế kỷ 20.
45. Theo Hồ Chí Minh, tổ chức thể hiện khối đại đoàn kết dân tộc là Mặt trận
dân tộc thống nhất.
46. Trong quan niệm về con người, ở góc độ xem xét các quan hệ XH, HCM
chia con người ra 2 giống người: Những người làm điều thiện và những người
làm điều ác.
47. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vừa mang tính khoa học đúng đắn
vừa có tính chất cách mạng sâu sắc. Tư tưởng này thể hiện sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa các yếu tố:
- Dân tộc và giai cấp;
- Chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng;
- Độc lập dân tộc cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho các dân tộc
khác.
48. Theo Hồ Chí Minh, những giai cấp ủng hộ và tham gia cách mạng tức là bầu
bạn cách mạng của công nông.
49. Trong bài Nói chuyện tại lớp chuẩn huấn khóa II của Bộ Công an, ngày
16/5/1959, HCM ví tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân như hai yếu tố: như
lúa với cỏ dại.
50. Theo HCM, nguyên nhân gây nên bệnh chủ quan là: kém lý luận; khinh lý
luận; lý luận suông.
51. Để xây dựng CHXN ở VN trong thời kỳ quá độ, HCM nêu lên 2 nguyên tắc:
- Một là, xây dựng CNXH là 1 hiện tượng phổ biến mang tính quốc tế, cần
nắm vững nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng chế độ
mới, phải học tập kinh nghiệm của các nước anh em nhưng không áp dụng máy
móc vì nước ta có đặc điểm riêng của ta.
- Hai là, xác định bước đi, biện pháp phải xuất phát từ thực tế, đặc đểm
dân tộc, nhu cầu và khả năng thực tế của nhân dân.
52. Theo đúng tư tưởng HCM, nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân là liên
minh công- nông và lao động trí óc.
53. Tiếp xúc, tìm hiểu, nghiên cứu các cuộc CM trên Thế giới: cách mạng Mỹ,
cách mạng tư sản Pháp và các kiểu, các hình thức nhà nước mà những cuộc
cách mạng này xây dựng sau khi CM thành công, HCM đi đến kết luận đó là
những cuộc CM chưa đến nơi, chưa triệt để.
54. Theo HCM, lộ trình của các cuộc cách mạng ở nước lệ thuộc và thuộc địa
là: Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và loài người.
55. Quan điểm đúng khi đề cập đến nội dung tư tưởng HCM về lĩnh vực văn
hóa văn nghệ: Văn nghệ là 1 mặt trận, văn nghệ sỹ là chiến sỹ, tác phẩm văn
nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh CM, trong xây dựng XH mới, con người
mới; Văn nghệ phải gắn với thực tiễn đời sống nhân dân; Phải có những tác
phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của đất nước và của dân tộc.
56. Khi đề cập đến mối quan hệ giữa “ tập thể lãnh đạo ” và “ cá nhân phụ trách
” HCM đã dùng 2 khái niệm để diễn đạt ý nghĩa tương đương là: Dân chủ và tập
trung.
II. Câu Hỏi Dài:
Vấn đề 1: Sự hình thành và những đặc điểm cơ bản của tư tưởng HCM.
Đã một thế kỷ trôi qua kể từ ngày 5 tháng 6 năm 1911, ngày Nguyễn Tất
Thành rời Tổ quốc để bắt đầu một cuộc hành trình dài khảo sát xem các dân tộc
khác làm như thế nào trong đấu tranh giành độc lập rồi trở về vận dụng để giải
phóng dân tộc Việt Nam. Cái ngày lịch sử ấy đã đi sâu vào lòng người của bao
thế hệ người Việt Nam và thế giới với biết bao tình cảm chứa chan, rung động:
Khi tôi còn là hạt bụi, Người đã lên tàu đi xa; từ thành phố này Người đã ra đi
(lời của những bài hát); Đất nước đẹp vô cùng nhưng Bác phải ra đi, cho tôi
(nhà thơ Chế Lan Viên) làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác hay như nhà báo
người Úc là Bocset đã nói: “Nói tới một người cả cuộc đời mình để lại ân tình
sâu nặng trong nhân dân thì không có ai ngoài chủ tịch HCM” vì “HCM đã sống
một cuộc đời với những tầm cỡ phi thường và đã có những cống hiến sâu sắc
cho sự nghiệp giải phóng loài người. Chính lẽ đó đã làm cho tiểu sử của Người
trổ thành bài ca chi niềm vinh quang đối với triển vọng và khả năng của con
người…”. Hơn thế nữa, cái ngày lịch sử ấy còn là ngọn nguồn cho một Việt
Nam hiện đại đang chuyển mình, cất cánh hôm nay.
Trở về để bay xa hơn, đế thấu được, cảm được, nghe được trái tim, trí
tuệ và nghị lực phi thường của một thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành, của
một Bác Hồ kính yêu, của một tư tưởng HCM vĩ đại, tư tưởng của một con
người có con mắt đại bàng của tư duy (nói theo cách nói của Hegel), có sự nhạy
cảm đặc biệt đối với lịch sử, thấu hiểu cuộc sống con người, có nhận thức sâu
về vận mệnh dân tộc, nỗi niềm của nhân dân và hướng đi của thời đại.
Trước ngày 5/6/1991, có thể tóm tắt lộ trình của Nguyển Tất Thành từ
khi rời Nghệ An đến Nhà Rồng là: Huế (1906 - 5/1909) - Bình Định (5/1909
-8/1910) - Bình Thuận (8/1910 - 2/1911) - Sài Gòn (2/1911 - 5/6/1911). Tại Sài
Gòn trước khi rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước trên con tàu Đô đốc
Latútsơ Tơrêvin Nguyễn Tất Thành đã từng ở tạm tại trụ sở các chi nhánh của
Liên Thành công ty đặt tại Sài Gòn, như nhà số 3, đường Tổng đốc Phương (nay
là số 5, đường Châu Văn Liêm, Di tích số 5 Châu Văn Liêm được Bộ văn hóa
ký quyết định công nhận là di tích lịch sử số 1288-VH/QĐ ngày 16/11/1988);
nhà số 128, Khánh Hội.
Và rồi ngày 5/6/1911 đã đến, Người bắt đầu cuộc hành trình sang
phương Tây. Về mục đích của chuyến đi này, năm 1923 Người đã trả lời một
nhà báo Nga rằng: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ
Pháp Tự do, Bình đẳng, Bác ái…Tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp,
muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy”. Một lần khác trà lời
một nhà văn Mỹ, Người nói: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh
ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống
trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra
nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp
đồng bào tôi”.
Một hành trình dài qua nhiều nước (Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha,
Angiêri, Tuynidi, Cônggô, Đahômây, Xênêgan, Rêuyniông, Máctiních (Trung
Mỹ), Uragoay và áchentina (Nam Mỹ), Mỹ, Anh …): lao động bằng nhiều nghề
để tồn tại; hoạt động chính trị để rút kinh nghiệm, học tập, nghiên cứu tìm tòi,
khám phá rồi vận dụng…đến năm 1917 khi cuộc cách mạng XHCN thàng Mười
Nga nổ ra và thành công, một cuộc cách mạng đến nơi và triệt để, ánh sáng của
nó lan tỏa khắp nơi và đến với chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành: “Như ánh
mặt trời rạng đông xua tan bóng tối, cuộc cách mạng Tháng Mười đã chiếu rọi
ánh sáng mới vào lịch sử loài người”. Không bỏ qua cơ hội, Người quyết tâm
tìm hiểu cuộc cách mạng này và tìm hiểu Lênin. Có thể khẳng định đây là bước
ngoặt nhận thức đầu tiên trong hành trình tìm con đường giải phóng dân tộc của
Nguyễn Tất Thành. Bước ngoặt nhận thức này thể hiện ở chỗ từ thất bại của
phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc cũng như sự
thành công của cách mạng XHCN tháng Mười Nga đã mang lại cho Nguyễn Tất
Thành nhận thức quan trọng, tạo tiền đề cho việc xác định đúng con đường cách
mạng Việt Nam: Ở những năm đầu thế kỷ XX, chỉ có những phong trào cách
mạng nào có mục tiêu giải quyết đồng thời những mâu thuẫn lớn của thời đại ở
nước mình thì mới có thể đi tới thắng lợi.
Đến năm 1919, bằng sự kiện gửi Bản yêu sách của nhân dân An Nam
đến Hội nghị Hòa bình được tổ chức tại Véc xây (Pháp), Nguyễn Ái Quốc đã
lần đầu tiên bước lên vũ đài chính trị của thế giới để đòi những quyền cơ bản
của dân tộc Việt Nam: quyền tự do dân chủ tối thiểu và quyền bình đẳng về chế
độ pháp lý. Những yêu cầu này đã chưa được chấp nhận lúc bấy giờ, từ đó
Người rút ra bài học kinh nghiệm đầu tiên: Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc, các dân tộc phải dựa vào sức mình là chính, không ỷ lại hay trông chờ vào
sự giúp đỡ của các dân tộc khác. Bài học này sau đó đã được Người nâng lên
tầm lý luận về tự lực cánh sinh: Một dân tộc tộc mà trông chờ vào sự giúp đỡ
của dân tộc khác trong công cuộc giải phóng chính mình thì dân tộc đó không
xứng đáng được độc lập, tự do: “Sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng,
nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc
không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng
đáng được độc lập”. Từ sự kiện này, lần đầu tiên bút danh Nguyễn Ái Quốc
chính thức được sử dụng.
Không nản chí, Người tiếp tục đấu tranh, tiếp tục hoạt động, nghiên cứu
lý luận, đến năm 1920, tờ báo Nhân đạo – cơ quan ngôn luận của Đảng Xã hội
Pháp đã cho đăng bài viết của Lênin: Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về các
vấn đề dân tộc thuộc địa, số ra ngày 16, 17 tháng 7/1920. Đọc sơ thảo ấy, Người
đã phát hiện và tìm ra được con đường đi cần thiết cho cách mạng Việt Nam và
khẳng định: đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là cái giải phóng dân tộc ta:
“trong luận cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi, đọc lại
nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính. Luận cương của Lênin làm
cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến
phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước
quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết
cho chúng ta. Đây là con đường giải phóng chúng ta”.
Con đường ấy là con đường làm cách mạng vô sản: Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
Đó là niềm vui đầu tiên của một chiến sĩ cách mạng An Nam – Nguyễn Ái Quốc
trong hành trình gian khổ tìm con đường giải phóng dân tộc. Tiếp theo đó là sự
kiện Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và bỏ phiếu tán
thành việc thành lập Quốc tế thứ 3 (Quốc tế cộng sản) do Lênin sáng lập đã
đánh dấu 1 bước ngoặt quan trọng thứ hai trong nhận thức: từ lập trường của
chủ nghĩa yêu nước, Nguyễn Ái Quốc đã chuyển sang lập trường vô sản quốc
tế: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã
đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thư 3. Từng bước một, trong cuộc đấu
tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế dần dần tôi
hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô
lệ”. Chính những sự kiện của năm 1920 về cơ bản đã đánh dấu sự ra đời của tư
tưởng HCM.
Tiếp tục nghiên cứu lý luận của Lênin, rồi nghiên cứu lý luận của các
nhà sáng lập chủ nghĩa Mác: Mác, Ăngghen, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: chỉ
có chủ nghĩa Mác – Lênin mới có thể giải phóng dân tộc ta khỏi ách nô lệ lầm
than. Chủ nghĩa ấy như kim chỉ nam, như chiếc túi thần kỳ, như ngọn đèn pha,
như mặt trời soi sáng cho con đường cách mạng Việt Nam: “Chủ nghĩa Mác –
Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không
những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam mà còn là
mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới CNXH và
chủ nghĩa cộng sản.
Không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin,
Nguyễn Ái Quốc còn biết tiếp thu, chắt lọc những tinh hoa lý luận của nhân loại
cùng với việc kế thừa những giá trị truyền thống của dân tộc để hình thành đầy
đủ một tư tưởng HCM mang đậm chất Việt Nam.
Khẳng định tư tưởng HCM mang đậm chất Việt Nam là dựa trên các cơ
sở sau:
Thứ nhất, xuất phát điểm của tư tưởng ấy là từ thực tiễn xã hội Việt Nam
cuối thể kỷ XIX đầu thế kỷ XX: dân chúng lầm than, cơ cực vì sự dày xéo của
thực dân và sự nổ lực vươn lên đấu tranh giành độc lập là chưa thực hiện được
vì sự bế tắc về đường lối cứu nước lúc bấy giờ dẫu rằng tinh thần và nhiệt huyết
của dân tộc là rất cao: sẵn sàng đúc gan sắt để dời non lấp bể, xối máu nóng để
rửa vết nhơ nô lệ song vẫn trăm thất bại mà chư có một thành công.
Thứ hai, xuyên suốt tư tưởng ấy là tinh thần “dĩ vất biến, ứng vạn biến”
(quan điểm này của HCM được biết đến vào ngày 31/5/1946) cho phù hợp với
điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Thứ ba, cốt lõi và đích đến cuối cùng của tư tưởng ấy là một Việt Nam
độc lập và CNXH cùng với một tinh thần quốc tế trong sáng.
Tư tưởng HCM mang đậm chất Việt Nam là một hệ thống gồm ba đặc
điểm cơ bản sau:
Một là, sự kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc như:
chủ nghĩa yêu nước và ý chí đấu trang kiên cường, bất khuất của dân tộc; ý thức
nhân nghĩa, thủy chung, đoàn kết; tinh thần lạc quan yêu đời; những phẩm tính
anh dũng trong đấu trang, cần cù trong lao động sản xuất, ham học hỏi và sáng
tạo trong học tập…
Những giá trị truyền thống này đã thấm sâu và giữ vai trò chủ đạo trong
nhận thức và hành động của HCM tiêu biểu như:
* Tinh thần lạc quan thể hiện trong “Ngục trung nhật ký”, dù điều kiện
hoàn cảnh tring tù là vô cùng khắc nghiệt dong vẫn ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
vì cảnh đẹp đêm nay khó hửng hờ.
* Tinh thần lạc quan còn thể hiện trong quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam thời kỳ ở Việt Bắc: Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng, cuộc đời cách
mạng thật là sang.
* Tinh thần kiên cường, bất khuất trong cách mạng Tháng Tám: dù có
đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết tâm giành cho được độc lập dân tộc,
cũng như trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến năm 1946: chúng ta thà hy
sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
* Tinh thần yêu nước, thương dân: không có gì quý hơn độc lập tự do
(17/7/1966), ham muốn tột bậc là làm sao cho nước Việt Nam hoàn toàn giải
phóng, nhân dân ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành; nếu dân
đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu
dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi.
Hai là, sự tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh hoa của nhân loại ở cả
phương Đông và phương Tây.
Ở phương Đông, HCM chủ yếu tiếp thu có chọn lọc hệ tư tưởng lớn:
Phật giáo và Nho giáo. HCM nói: tuy Khổng Tử là phong kiến nhưng trong học
thuyết của ông có nhiều ưu điểm vì thế chúng ta phải nên học; Học thuyết của
Nho giáo có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân; còn Học thuyết
của Phật giáo có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Ngoài ra, Người còn
tiếp thu Học thuyết Tam dân của Tôn Trung Sơn (Trung Quốc): Chủ nghĩa tam
dân (dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc) có ưu điểm vì chính
sách của nó phù hợp với Việt Nam. Chính sự tiếp thu, chắt lọc tinh hoa tư tưởng
văn hóa phương Đông đã tạo nên những nét đặc sắc trong tư tưởng HCM.
Ở phường Tây, HCM chủ yếu tiếp thu tư tưởng tiến bộ của các nhà khai
sáng (Pháp) như Rousseau, Voltair, Montesquieu với tư tưởng chủ đạo là: tự do,
bình đẳng, bác ái. Ngoài ra, Người còn tiếp thu những tư tưởng về dân chủ pháp
luật, nhà nước và con người ở phương Tây như: Tuyên ngôn độc lập của Mỹ
(1776), Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp (1791) hay tư tưởng về
một nhà nước của dân, do dân, vì dân của Abraham Lincoln (Tổng thống thứ 16
trong lịch sử Hoa Kỳ),…
Ba là, dự vận dụng sáng tạo Học thuyết Mác – Lênin vào điều kiện cụ
thể của Việt Nam.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định: các
nguyên lý không phải là điểm xuất phát của quá trình nghiên cứu mà là điểm kết
thúc của quá trình nghiên cứu. Không phải giới tự nhiên và loài người phải phù
hợp với các nguyên lý mà ngược lại các nguyên lý phải phù hợp với giới tự
nhiên và loài người. Xuất phát từ đó, HCM cho rằng Học thuyết Mác – Lênin
phải được vận dụng phù hợp với Việt Nam: “Lý luận không phải là cái gì cứng
nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo; lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những
kết luận mới rút ta từ trong thực tiễn sinh động”.
Sự vận dụng phù hợp ấy đã được HCM thể hiện bằng một loạt các quan điểm
sáng tạo đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam kiểm chứng góp phần bổ sung,
phát triển và hoàn bị Học thuyết Mác - Lênin. Tiêu Biểu như:
* Khẳng định chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực
lớn trong đấu trang giành độc lập và phát triển đất nước.
* Giải quyết vấn đề dân tộc trên lập trường giai cấp. Theo đó, trong mối
quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp, Người cho rằng giải quyết vấn đề dân
tộc là trước hết ở Việt Nam, là điều kiện để giải quyết vấn đề giai cấp. Xuất phát
từ phát hiện này, người cho rằng muốn tiêu diệt chủ nghĩa đế quốc thì phải đồng
thời tiến hành song song, chủ động cả hai cuộc cách mạng: cách mạng vô sản ở
chính quốc và cách mạng giải phóng dân tộc ở các quốc gia lệ thuộc, thuộc địa
và khẳng định cuộc cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành chủ
động, có thể nổ ra và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
* Quan điểm khằng định về sự ra đời của tổ chức Đảng Cộng sản ở các
quốc gia lệ thuộc và thuộc địa: Đảng Cộng sản Đông Dương là sản phẩm của sự
kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam.
* Quan điểm khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai
cấp công nhân đồng thời cũng là Đảng của dân tộc Việt Nam.
* Quan điểm liên minh các dân tộc phương Đông là một trong những cái
cách của cách mạng vô sản trong quan điểm về đoàn kết quốc tế.
* Tiếp cận học thuyết CNXH từ phương diện nhu cầu và khát vọng giải
phóng dân tộc, con người một cách triệt để; phương diện đạo đức (thắng lợi
CNXH không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu trang trừ bỏ chủ nghĩa cá
nhân).
Chân lý luôn là cụ thể, cách mạng luôn là sáng tạo. Sự sáng tại cách
mạng của HCM trước hết là sự sáng tạo về tư duy lý luận, về chiến lược về
đường lối cách mạng Việt Nam.
Ba đặc điểm trên khẳng định sự ra đời của tư tưởng HCM là có cơ sở
khách quan và phản ánh đúng chân lý: Không một tư tưởng nào lại ra đời trên
một mảnh đất trống không mà bao giờ nó cũng ra đời trên một mảnh đất hiện
thực. Trên mảnh đất hiện thực, nó kế thừa những gì có giá trị, hợp lý đồng thời
chọn lọc và bổ sung vào đó những nhân tố mới. Đồng thời nó cũng được xác
định là ba bộ phận cơ bản thuộc nội hàm của khái niệm tư tưởng HCM. Nhiệm
vụ chung của ba bộ phận này là vạch ra lý thuyết về con đường cách mạng Việt
Nam đúng đắn nhằm mục đích giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và tiến
tới giải phóng con người và loài người.
Ngày 5/6/2011 là kỷ niệm 100 năm ngày HCM bắt đầu cuộc hành trình
cứu nước. Cuộc hành trình ấy đã mang về cho dân tộc Việt Nam một quá khứ
kiêu hãnh, tự hào; một hiện tại đầy sức sống; một tương lai phồn vinh và mãi
mãi thấm sâu trong tâm thức của mỗi người Việt Nam và nhân dân tiến bộ trên
thế giới một HCM vĩ đại, một tư tưởng tưởng HCM bất diệt, không khép kín,
không tự đủ mà luôn phát triển cùng với sự phát triển của dân tộc và thế giới.
Tư tưởng ấy “sẽ mãi mãi gắn bó với những hành động cao cả nhất và những ước
mơ cao quý nhất của nhân loại”.
Vấn đề 2: Cơ sở hình thành và quá trình xác lập mô hình Nhà nước mới ở Việt
Nam trong tư tưởng HCM về Nhà nước.
1. Cơ sở hình thành tư tưởng HCM về Nhà nước mới Việt Nam:
1.1 Cơ sở thực tiễn và sự khảo nghiệm:
Từ thực tiễn hình thái nhà nước Việt Nam đương thời: nhà nước phong
kiến Việt Nam và nhà nước tư sản (dưới sự cai trị của chính quyền tư sản – thực
dân Pháp) đã gây cho nhân dân một cuộc sống cơ cực về kinh tế, bị chà đạp về
nhân phẩm,…HCM đi đến khẳng định: nhà nước Việt Nam sau khi giành được
độc lập không mang bản chất phong kiến và tư sản.
Tiếp xúc, tìm hiểu, nghiên cứu các cuộc cách mạng điển hình trên thế
giới; cách mạng Mỹ năm 1776, cách mạng tư sản Pháp năm 1789 và các kiểu,
các hình thức nhà nước mà những cuộc cách mạng này xây dựng sau khi cách
mạng thành công, HCM đi đến kết luận: đó là những cuộc cách mạng chưa đến
nơi, chưa triệt để.
Nghiên cứu cách mạng XHCN Tháng Mười Nga năm 1917, Người nhận
định đây là cuộc cách mạng triệt để và đến nơi, đưa lại quyền lợi thật sự cho
nhân dân lao động. HCM kết luận: cách mạng Việt Nam nên theo Cách mạng
Tháng Mười Nga, đó là cuộc cách mạng xác lập hình thái nhà nước trong đó
quyền lực thuộc về số đông người. Chính mô hình nhà nước đó đã gợi ý cho
HCM về một kiểu nhà nước sẽ được xây dựng ở Việt Nam trong tương lai.
1.2 Cơ sở lý luận:
Văn hóa chính trị của Việt Nam trong lịch sử: Các bộ sử lớn của dân tộc
như Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí; các Bộ luật nổi
tiếng như Hình Thư (đời Lý), Quốc triều hình luật (đời Lê) cùng với tư tưởng
“nước lấy dân làm gốc” tiếp thu được ở Nho giáo…là cơ sở văn hóa chính trị
đầu tiên của HCM trên con đường tìm kiếm một mô hình nhà nước tiến bộ cho
đất nước sau khi giành được độc lập.
Các gí trị văn hóa chính trị của loài người: HCM kế thừa, tiếp thu có
chọn lọc và phát triển các tinh hoa văn hóa phương Đông trong tổ chức, quản lý
xã hội, đặc biệt là triết lý “đức trị”, “nhân trị”, “chính sách định phận” của Nho
gia (Khổng Tử); thuyết “kiêm ái” và các nguyên tắc thượng đồng, thượng hiền,
phi công của trường phái Mặc gia; tư tưởng “pháp trị” của trường phái Pháp gia
(Hàn Phi Tử: thưởng thật hậu và phạt thật nặng; sức mạnh của dân, của đất nước
và xu thế lịch sử),… cũng như các quan niệm về chính trị, xã hội của các đại
biểu phương Đông khác; tiếp thu, chọn lọc, phê phán tinh hoa văn hóa tư tưởng
trong vấn đề tổ chức, hoạt động của nhà nước của các đại biểu tiêu biểu ở
phương Tây như: Đêmôcrít (cái nghèo trong chế độ dân chủ cũng quý hơn cái
hạnh phúc của công dân dưới thời quân chủ y như là tự do quý hơn nô lệ; nhà
nước là trụ cột của xã hội; cần phải xử lý nghiêm khắc những kẻ vi phạm pháp
luật hay các chuẩn mực đạo đức); Platon (tiếp thu những giá trị hợp lý trong
quan niệm của Platon về nhà nước lý tưởng); tiếp thu tư tưởng tiến bộ của các
nhà khai sang Pháp như: J.J.Rouseau (Khế ước xã hội), C.L.Montesquieu (Tinh
thần pháp luật),…nhất là quan niệm về bản chất dân chủ, nhân đạo của nhà
nước, quan niệm về xây dựng nhà nước pháp quyền…và sau khi đã đến với chủ
nghĩa Mác – Lênin, HCM quán triệt và vận dụng sáng tạo học thuyết về nhà
nước và nhà nước vô sản trong xây dựng nhà nước Việt Nam mới.
2. HCM với việc xác lập nhà nước kiể mới ở Việt Nam:
Lúc đầu HCM đưa ra mô hình nhà nước công nông binh theo mô hình
Xôviết, ý tưởng này được thể hiện trong Chánh cương vắn tắt năm 1930: “dựng
ra chính phủ công nông binh”. Từ thực tiễn cách mạng cho thấy hình thức chính
quyền Xôviết chưa thật phù hợp với điều kiện xã hội Việt Nam. Về sau, Người
chủ trương xây dựng mô hình nhà nước dân chủ cộng hòa như Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương lần thứ tám (5/1941) chủ trương: “không nên nói công
nông liên hiệp và lập chính quyền Xôviết mà phải nói toàn thể nhân dân liên
hợp và lập chính phủ dân chủ cộng hòa”.
Trong Thư gửi đồng bào toàn quốc, tháng 10/1944, HCM viết: “Chúng
ta trước hết phải có một cái cơ cấu đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành
động nhất trí của toàn thể quân dân ta. Mà cơ cấu ấy thì phải do một cuộc Toàn
quốc đại biểu Đại hội gồm tất cả các đảng phái cách mệnh và các đoàn thể ái
quốc trong nước bầu cử ra. Một cơ cấu như thế mới đủ lực lượng và oai tín,
trong thì lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các
hữu bang”. Đó là một bước chuyển sáng suốt của HCM, phản ánh được nét đặc
thù của thực tiễn dân tộc phù hợp với sự chuyển hướng chiến lược và sách lược
của cách mạng Việt Nam.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, với bản Tuyên ngôn độc
lập, HCM đã khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước dân
chủ tiến bộ đầu tiên ở Đông Nam Châu Á, đặt nền móng cho việc xây dựng một
nhà nước Việt Nam mới trong lịch sử dân tộc: Nhà nước mang bản chất giai cấp
công nhân, có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc, là nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân, vì dân, một nhà nước thể hiện quyền lực của nhân dân
lao động.
Vấn đề 5: Mối quan hệ giữa các đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
trong tư tưởng HCM về đạo đức.
“Nói tới một người cả cuộc đời mình để lại ân tình sâu nặng trong nhân
dân thì không có ai ngoài chủ tịch HCM”, Người “là chân lý của lịch sử”, là
“một nhà lý luận vĩ đại”, “là chiến sĩ đầu tiên của thế giới thứ ba, của các dân
tộc nghèo đói thèm khát một cuộc sống cho ra người…Cụ dạy cuộc chiến đấu vì
nhân phẩm và tự do phải được đặt lên trên mọi cuộc chiến đấu khác. Cụ đã bên
vực những ai yếu hèn và mang lại nhân phẩm cho những người nghèo khổ”.
Người “đã sống một cuộc đời với những tầm cỡ phi thường và đã có những
cống hiến sâu sắc cho sự nghiệp giải phóng loài người. Chính lẽ đó đã làm cho
tiểu sử của Người trở thành bài ca cho niềm vinh quang đối với triển vọng và
khả năng của con người…” (Báo Thế giới, ngày 20/9/1969).
Chủ tịch HCM là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Người đã vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt
Nam, sáng lập Đảng Mác – Lênin ở Việt Nam, sáng lập Mặt trận dân tộc thống
nhất Việt Nam, sáng lập lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam và sáng lập
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước CHXHXNVN). Người luôn
luôn gắn cách mạng Việt Nam với cuộc đấu trang chung của nhân dân thế giới
vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Người là tấm gương đạo
đức cao cả, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, vô cùng khiêm tốn, giản dị.
Tư tưởng và những tấm gương đạo đức là một trong những “tài sản tinh
thần vô giá” mà Người để lại cho Đảng và dân tộc ta. Trong đó phải kể đến
chuẩn mực đạo đức cần, liêm, chính, chí công vô tư mà sinh thời Người đã
giành sự quan tâm đặc biệt để giáo dục và định hướng chuẩn mực đạo đức cho
thanh niên Việt Nam, những người chủ tương lai cho đất nước.
Trong “tài sản tinh thần vô giá” HCM để lại cho Đảng, dân tộc Việt
Nam, có nhiều tác phẩm, bài viết, bài nói chuyện Người đề cập trực tiếp đến
vần đề đạo đức, tiêu biểu như: Tác phẩm “Đường cách mệnh”, năm 1927; tác
phẩm “Đời sống mới”, ngày 20/3/1947, ký tên Tân Sinh; tác phẩm “Sửa đổi lối
làm việc”, tháng 10/1947, ký tên X.Y.Z; tác phẩm “Cần kiệm liêm chính”, viết
xong khoảng tháng 6/1949, ký tên Lê Quyết Thắng; tác phẩm “đạo đức công
dân”, ngày 15/1/1955; tác phẩm “Đạo đức cách mệnh”, tháng 12/1958; tác
phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, ngày
3/2/1969…Những tác phẩm trên đều có những giá trị lịch sử và những ý nghĩa
hiện thực to lớn đối với Đảng ta, nhân dân ta. Trong đó, phải kể đến tác phẩm
“Đời sống mới”, HCM viết ngày 20/3/1947, với bút danh Tân Sinh – Tác phẩm
mà sinh thời Người mong muốn rằng “đồng bào ta mỗi người có một cuốn”, “để
xem, để hiểu, để thực hành đời sống mới”.
Giá trị to lớn và tấm gương đạo đức HCM đối với Đảng và dân tộc đã
được Đảng ta xác định từ rất sớm. Tại đại hội lần thư II của Đảng (năm 1951)
đã ghi nhận đạo đức, phong HCM như một giá trị văn hóa, ngọn cờ tập hợp
quần chúng và động lực tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta. Đến đại hội
VII(1991), Đảng xác định, cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng HCM trở
thành nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho hành động của Đảng và Cách mệnh
Việt Nam. Đến đại hội VII, Đảng đưa ra một quan niệm về tư tưởng HCM,
trong đó chỉ rõ tư tưởng “về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư” là một nội dung của tư tưởng HCM về những vấn đề cơ bản của
Cách mạng Việt Nam. Ngày 27/3/2003, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị
số 23-CT/TƯ về “Đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền giáo dục tư tưởng HCM
trong giai đoạn mới”, trong đó đặc biệt quan tâm tới vấn đề đạo đức cách mạng.
Ngày 7/11/2006, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 06/ CT/TƯ về tổ chức cuộc
vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM”. Ngày 2/2/2007,
cuộc vận động này được phát động.
Những điều kể trên thể hiện ngày càng đầy đủ nhận thức của Đảng về
giá trị lịch sử và hiện tại của tư tưởng và tấm gương đạo đức HCM đối với xây
dựng đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên nói riêng, với nền tảng đạo đức
mới của dân tộc Việt Nam nói chung. Do đó, việc đẩy mạnh giáo dục, bồi
dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
cho đội ngũ cán bộ, đảng viên là một yêu cầu vừa mang tính cơ bản, lâu dài,
vừa là đòi hỏi cấp bách, trước mắt của sự nghiệp đổi mới đất nước ta hiện nay
như tinh thần của Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã nhấn mạnh: “Đặc biệt
quan tâm giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên để mỗi cán bộ, đảng viên thực
sự là tấm gương sáng về phẩm chất, đạo đức, lối sống, hết lòng vì nhân dân, vì
sự nghiệp cách mang. Cán bộ, đảng viên phải nâng cao tinh thần trách nhiệm
trước Đảng và nhân dân, thật sự tiên phong, gương mẫu, đi đầu trong mọi công
việc; xử lý hài hòa các lợi ích, đặt lợi ích của Tổ uốc, của nhân dân lên trên hết.
Theo Người, đạo đức cách mạng không phải tự nhiên mà có, mà phải
qua giáo dục, rèn luyện bền bỉ mới có được. Có thể nói, tư tưởng đạo đức cách
mạng HCM là một bước phát triển mới, một cống hiến đặc sắc và sự phát triển
của đạo đức học Mác – Lênin và nền đạo đức mới của xã hội ta. Tư tưởng đạo
đức HCM hoan toàn đối lập với đạo đức cũ của giai cấp thống trị, áp bức, bóc
lột nhân dân, đồng thời nó cũng hoàn toàn xa lạ với đạo đức tôn giáo, “thứ đạo
đức khuyên con người ta sống khắc khổ, cam chịu, thụ động chấp nhận số phận
để được đền bù hư ảo bằng một cuộc sống tốt đẹp hơn ở thiên đường hay ở chốn
bồng lai, tiên cảnh”.
Theo Người:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì không thành trời.
Thiếu một phương, thì không thành đất.
Thiếu một đức, thì không thành người”.
Một ngày sau khi nước nhà giành được độc lập (ngày 3/9/1945), Chủ
tịch HCM chủ tọa phiên tòa đầu tiên của Hội đồng Chính phủ. Người trình bày
sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó có
vấn đề thứ tư cần phải giải quyết lúc bấy giờ là “Chế độ thực dân đã đầu độc
dân ta với rượu và thuốc phiện. Nó đã dùng mọi thủ đoạn hòng hủ hóa dân tộc
ta bằng những thói xấu, lười biếng, gian giảo, tham ô và những thói xấu khác.
Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta
phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao
động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”. Để làm được những
điều đó, Người đề nghị “mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng
cách thực hiện : CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH.
Để giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân dân ta, Chủ tịch
HCM đã có nhiều tác phẩm viết về vấn đề này, Ngay từ năm 1927, trong tác
phẩm “Đường cách mệnh”, chương đầu tiên của cuốn sách là tư cách một người
cách mệnh và tiêu chuẩn đầu tiên trong tư cách một người cách mệnh chính là:
cần, kiệm. Sau này là tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (10/1947), “Thựa hành
tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu” (1952). “Đạo đức cách
mạng” (12/1958) và các bài báo như “Chớ kêu ngạo, phải khiêm tốn”, “Cần
kiệm liêm chính”, “Cần tẩy sạch bệnh quan liêu mệnh lệnh”, “Nâng cao đạo đức
cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”…Trước lúc đi xa, trong bản Di chúc
để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, Người nhắc “Đảng ta là một
đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư…” và “Sau khi tôi qua
đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc
của nhân dân”.
Về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, Chủ tịch HCM nói một cách
ngắn gọn, giản dị, cụ thể, dễ hiểu và dễ làm theo.
Theo HCM, “Cần là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dèo dai,…Tục ngữ
ta có câu: nước chảy mãi, đá cũng mòn, kiến tha lâu cũng đầy tổ…Dao siêng
mài thì sắc bén. Ruộng siêng làm cỏ thì lúc tốt…Mọi người đều phải cần, cả
nước đều phải cần”. NGười cũng lưu ý rằng: “Nếu làm cố chết cố sống trong
một ngày, một tuần hay một tháng, đến nỗi sinh ốm đau, phải bỏ việc, như vậy
không phải là cần”.
“Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi…”,
“tiết kiệm không phải là bủn xỉn…Việc đáng tiêu mà không tiêu là bủn xỉn, dại
dột chứ không phải là KIỆM”, “Cần với Kiệm phải đi đôi với nhau như hai bàn
chân của con người, Cần mà không Kiệm thì “làm chừng nào xào chừng ấy”,
cũng như một cái thùng không đáy, nước đổ vào chừng nào, chảy ra hết chừng
ấy, không lại hoàn toàn… Kiệm mà không cần,…như cái thùng chỉ đựng một ít
nước, không tiếp tục đổ thêm vào lâu ngày chắc nước đó sẽ hao bớt dần cho đến
khi khô kiệt”.
“Liêm là trong sạch, không tham lam…ngày xưa dưới chế độ phong
kiến, những người làm quan không đục khoét dân thì gọi là liêm. Chữ Liêm ấy
chỉ có nghĩa hẹp…ngày nay, nước ta là dân chủ cộng hòa, chữ Liêm có nghĩa
rộng hơn là mọi người đều phải Liêm… Chữ Liêm phải đi đôi với chữ Kiệm
cũng như chữ Kiệm phải đi đôi với chữ Cần. Có Kiệm mới Liêm được, vì xa xỉ
mà sinh tham lam”. Phải trong sạch, không tham lam địa vị, tiền của, danh
tiếng, sung sướng. Không tâng bốc mình. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham
làm, ham tiến bộ. Hành vi trái với chữ liêm là:…cậy quyền thế mà đục khoét, ăn
của dân, hoặc trộm của công làm của riêng. Dìm người giỏi, để giữ địa vị và
danh tiếng của mình là trộm vị. Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm,
không dám làm là tham úy lạo. Cụ Khổng nói: người mà không liêm không
bằng súc vật. Cụ Mạnh nói: ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy.
“Chính, nghĩa là không tả, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn…Cần, Kiệm,
Liêm là gốc rễ của Chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có nhành, lá,
hoa, quả mới là cây hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn
phải Chính mới là hoàn toàn.
Chính, đối với mình, không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến
bộ, luôn kiểm điểm mình để phát huy điều hay, sửa đổi điều dở. Đối với người,
không nịnh nót người trên, xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành,
khiêm tốn, đoàn kết, không dối trá, lừa lọc. Đối với việc, để việc công lên trên
việc tư, làm việc gì cho đến nơi, đến chốn, không ngại khó, nguy hiểm, cố gằng
làm việc tốt cho dân cho nước.
Cần, kiệm, liêm, chính trước hết là thước đo trình độ “người”, chất
người của một con người, là thước đo đạo đức công dân. Điều đó giống như bốn
mùa của trời, bốn phương của đất, “thiếu một mùa thì không thành trời, thiếu
một phương thì không thành đất, thiếu một đức thì không thành người”. Cần,
kiệm, liêm, chính còn được hiểu là thước đo sự giàu có về vật chất, văn minh,
tiến bộ của một dân tộc. Bởi vì, “một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm là một
dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, một dân tộc văn minh, tiến bộ”. Vì
vậy, cần, kiệm, liêm, chính là “nền tảng của đời sống mới, của Thu đua ái
quốc”; là cái cần thiết để “làm việc, làm người, làm cán bộ, phụng sự đoàn thể,
giai cấp, nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”. Với ý nghĩa sâu xa, rộng lớn như vậy,
“cần, kiệm, liêm, chính là đặc điểm của xã hội hưng thịnh. Những điều trái lại là
đặc điểm của xã hội suy vong” như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhận xét.
Chí công vô tư, là làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, chỉ
biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lợi ích của cách mạng. Thực hành chí
công vô tư là quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. “phải
lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Chủ nghĩa cá nhân chỉ biết đến mình, muốn
“mọi người vì mình”. Nó là giặc nội xâm, còn nguy hiểm hơn cả giặc ngoại
xâm. HCM viết: “ Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ
đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay vẫn được mọi người yêu mến
và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
HCM cũng phân biệt lợi ích cá nhân và chủ nghĩa cá nhân. Chí công vô tư là
tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Bồi dưỡng phẩm chất
đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là để vững vàng qua mọi thử
thách: “Giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ
không thể khuất phục”.
Ý nghĩa sâu xa của cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là ở chỗ, xét
cho cùng, đạo đức là cái quý nhất, là linh hồn của một con người, một xã hội,
một chế độ và một nền văn minh. Đạo đức cách mạng là tiền đề tiên quyết, là
giá trị thuộc về nhân cách mỗi con người, là sức mạnh để người cách mạng thực
hiện lý tưởng, mục tiêu của mình.
Để quyết tâm xây dựng đất nước, hướng tới một tương lai tươi sáng,
phồn vinh trong thế kỷ mới, mỗi người cần phải thấm nhuần lời dạy của Hồ Chủ
tịch: “Một hột gạo, một đồng tiền là mồ hôi, nước mắt của đồng bào. Vì vậy, ta
phải ra sức tiết kiệm. Hoang phí là một tội ác. Có tiết kiệm, không hoang phí xa
xỉ thì mới giữ được liêm khiết, trong sạch. Nếu hoang phí xa xỉ, thì ắt phải tìm
cách xoay tiền, do đó mà sinh ra hủ bại, nhũng lạm, giả dối. Thậm chí làm chợ
đen chợ đỏ, thụt két, buôn lậu. Có cần mới kiệm. Có cần, kiệm mới liêm. Có
cần, kiệm, liêm mới chính”.
Lời người dạy cách đây hơn 60 năm về trước đã tạo nên động lực thúc
đẩy kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công và vẫn còn nguyên giá trị đối
với việc xây dựng nếp sống văn minh ở nơi công đường và cuộc vận động xây
dựng đời sống văn hóa ở địa bàn dân cư từ thành thị đến nông thôn, từ đồng
bằng lên miền núi trong phạm vi cả nước hiện nay và tương lai. Những lời dạy
ấy vẫn còn nguyên tính thời sự, khi nước ta đã gia nhập Tổ chức thương mại thế
giới (WTO), khi nước ta đang trên bước đường hội nhập và phát triển, khi cả thế
giới đang chịu ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp của cơn bão suy thoái kinh tế
đang diễn ra, hơn lúc nào hết, chúng ta không chỉ dừng lại ở việc nhen lửa mà
cần phải tiếp thêm lửa cho công cuộc xây dựng đời sống mới – văn hóa đời
sống bằng những hành động thiết thực, cụ thể, góp phần làm tăng nội lực, giữ
vững và tự hào Việt Nam trong nhận thức của bạn bè thế giới. Thực hành tốt
những lời dạy của HCM về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là chúng ta đã
góp phần làm giàu cho đất nước, làm tăng lòng tin của nhân dân vào Đảng và
chính quyền. Như vậy là chúng ta cũng đã góp phần thực hiện tốt cuộc vận
động: Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM với chủ đề năm 2009 là
“Nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân
dân”.
Vấn đề 8: Quan điểm: “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”
trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ gửi Quốc tế cộng sản, năm
1924 của HCM.
Năm 1969, 50 ngày trước lúc đi xa, khi trả lời nữ phóng viên báo
Granma (CuBa) – đồng chí Mácta Rôhát, Người đã nói: “Tôi hiến cả đời tôi cho
dân tộc tôi”. Có thể nói, động lực làm nên chí khí và sự nghiệp HCM chính là
điều mà Người gọi là chủ nghĩa dân tộc.
Năm 1924, Người viết: “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất
nước”, chính chủ nghĩa dân tộc đã luôn thúc dục người dân Việt Nam từ nông
dân nghèo đói đến địa chủ, từ công nhân đến tư sản dân tộc, từ học sinh nhân sĩ
đến vua quan yêu nước,…đứng lên đấu tranh chống thực dân Pháp để giành độc
- Xem thêm -