Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thể loại khác Chưa phân loại Đề cương môn nhà nước và pháp luật...

Tài liệu Đề cương môn nhà nước và pháp luật

.DOCX
29
518
87

Mô tả:

Trong thực tế cuộc sống hiện đại, thực hiện pháp luật là hoạt động không thể thiếu và thậm chí là hoạt động cực kỳ quan trọng vì nó có vai trò hiện thực hoá các quy định của pháp luật, biến các quy định ấy từ trong văn bản thành cách xử sự thực tế hợp pháp của các chủ thể khi tham gia vào những quan hệ pháp luật cụ thể. Thông qua hoạt động thực hiện pháp luật, mục đích của nhà nước khi ban hành pháp luật được hiện thực hoá, nhờ đó nhà nước có thể điều hành và quản lý xã hội, có thể thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội trong những lĩnh vực nhất định.
VẤN ĐỀ 1: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ 1. Mở bài: Hệ thống CT là một phạm trù cơ bản của khoa học chính trị. Bởi vì nó là tổng hợp các vấn đề của thực tiễn CT, của đời sống chính trị. Hơn nữa những vấn đề đó không phải được xem xét rời rạc, lộn xộn, biệt lập mà là xem xét trong một chỉnh thể có tính hệ thống, có hình thái phát sinh, phát triển, có chủ thể, đối tượng, với các mối quan hệ chức năng, theo những vị trí, vai trò nhất định; có “đầu ra” và “đầu vào”; có nội dung và hình thức, có hiện tượng và bản chất, … Trong mọi XH có giai cấp, quyền lực của chủ thể cầm quyền được thực hiện bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chức chính trị nhất định. Đó là hệ thống chính tri. HTCT xuất hiện cùng với sự thống trị của giai cấp, Nhà nước và thực hiện đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền, do đó HTCT mang bản chất giai cấp của giai cấp cầm quyền. Trong CNXH, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể thực sự của quyền lực, tự mình tổ chức và quản lý XH, quyết định nội dung hoạt động của hệ thống CTXHCN. 2. Khái niện HTCT: Hệ thống CT là tổ hợp có tính chỉnh thể các thể chế chính trị (các cơ quan quyền lực nhà nước, các đảng CT, các phong trào XH, các tổ chức CT- XH,…) được xây dựng theo một kết cấu chức năng nhất định, vận hành trên các nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể, nhằm thực thi quyền lực chính trị. 3. Thực trạng hoạt động của HTCTVN: - Tính ưu việt: (SGT - T20) Tập trung nguồn cao độ của đất nước phục vụ cho nhiệm vụ của mỗi giai đọan cách mạng: + Trong đấu tranh giải phóng dân tộc đã tập trung nguồn lực cao độ của đất nước phục vụ cho tiền tuyến với tinh thần tất cả để chiến thắng. HTCTVN đã động viên sự hi sinh vô bờ bến của nhân dân cho thắng lợi của cách mạng, tạo được những điều kiện cần thiết để kết hợp được sức mạnh của dân tộc và thời đại, đánh thắng được hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc trên cả nước cùng đi lên CNXH. + Trong tập trung nguồn lực phục vụ cho nhiệm vụ XD đất nước + Kinh tế tăng trưởng khá. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân 7% năm từ năm1996; nông nghiệp phát triển liên tục; công nghiệp tang bình quaan13,5% hàng năm , hệ thống kết cấu hạ tầng của kinh tế phát triển, các chỉ tiêu chủ yếu của phát triển kinh tế đều đạt hoặc vượt kế hoạch đã đề ra. + Văn hoá Xh có nhiều tiến bộ; đời sống ND tiếp tục được cải thiện; tình hình CT - XH cơ bản ổn định; quốc phòng an ninh được tăng cường. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng; hệ thống chính trị được củng cố. Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập quốc tế được tiến hành chủ động, tích cực và đạt kết quả tốt. - Hạn chế, yếu kém: (SGT - T21) Bên cạnh những thành tựu mà nguyên nhân gắn liền với hoạt động của hệ thống chính trị, thì hệ thống chính trị Việt Nam cũng bộc lộ một số yếu kém. Những yếu kém có thể nhìn thấy trong cả các vấn đề của hệ thống chính trị, từ tổ chức bộ máy, chức năng đến quan hệ , cơ chế, nguyên tắc vận hành… + Trước hết nói về Cơ chế, Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Cơ chế này bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và XH .vấn đề là làm sao để cụ thể hoá nó và phân định chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của các chủ thể, trong hệ thống chính trị. Đây vấn là một bài toán chưa có đáp số cuối cùng. Vẫn còn tình trạng, Đảng bao biện làm thay, cơ quan Nhà nước thụ động, chờ chủ trương, chỉ thị, hướng dẫn của Đảng; công tác của Đảng lẫn lộn với công tác nhà nước, + Chúng ta còn vận dụng chưa tốt Các phương thức (hay còn gọi là cơ chế) thực thi quyền lực , chính trị( hành chính mệnh lệnh, thể chế, tư vấn và kiểm soát quyền lực). Thông thường nhiều nơi thường chú ý vận dụng một loại cơ chế mà ít phối hợp các cơ chế. Vì thế mà nhiều nơi bắt người xét xử trái pháp luật, để xảy ra oan sai. Nhưng nhiều nơi thì thiếu kiên quyết, chỉ sử dụng vận động tuyên truyền làm cho các vụ thi hành án dây dưa không hiệu quả. Nhiều nơi đã có quyết định của Nhà nước quy hoạch, đền bù giải phong mặt bằng nhưng nhân dân không chấp hành, xung đột kéo dài qua năm nay qua năm khác mà vẫn không xử lý dứt điểm. + Còn chưa thực hiện đúng các nguyên tắc của hoạt động của hệ thống chính trị….. + Chưa vận dụng đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ…… + Còn quan niệm giản đơn về quyền lực thống nhất có phân công, kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp tư pháp. - Những yếu kém nêu trên do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chính: 1. Việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng chưa tốt, ký luật kỷ cương chưa nghiêm. 2. Một số quản điểm chủ trương chưa rõ; chưa có sự nhận thức thống nhất và chưa được thông suốt ở các cấp các ngành. 3. Cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp. 4. Công tác tư tưởng lý luận, công tác tổ chức cán bộ có nhiều yếu kém, bất cập - Các cơ quan Nhà nước có nhiều yếu kém bất cập. + Cho đến nay, QH nước ta đã thông qua được năm bản Hiến pháp, khoảng 300 đạo luật (kể cả pháp lệnh) tốc độ làm luật ngày các cao, nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ưng nhu cầu phát triển đất nước và yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Trách nhiệm trình các dự án luật vẫn chủ yếu thuộc về Chính phủ, hệ thống luật còn chưa hoàn chỉnh chưa đồng bộ, còn chồng chéo, mâu thuẫn, chất lượng chưa cao, chưa sát với cuộc sống, tính khả thi thấp, phải điều chỉnh nhiều lần và phải có hướng dẫn của chính phủ mới thực thi được, mặt khác các VB hướng dẫn lại rất chậm. + Do QH không chuyên trách nên đại biểu kiêm nhiệm nhiều, tiêu chuẩn đại biểu chưa thật rõ, chưa đạt đến chuẩn mực nghị viên (nghị sỹ) còn gặp nhiều khó khăn giữa tiêu chuẩn và cơ cấu. Do kiêm nhiệm, các đại biểu không có nhiều thời gian tiếp xúc với cử tri và thực hiện chức năng giám sát, điều kiện cho hoạt động của đại biểu còn khó khăn. + Hoạt động của QH có thời ký còn hình thức, hiện nay đã đi vào thực chất hơn, các hoạt động chất vấn, tranh luật dân chủ hơn, ND có thể theo dõi các phiên họp qua các phương tiện thông tin đại chúng. + Chính phủ nước ta là một chính phủ thực hiên sự quản lý Nhà nước trong một điều kiện hầu như không kế thừa được gì từ bộ máy hành chính cũ (thực dân phong kiến) . Hơn nữa lại trải qua 30 năm điều hành chiến tranh, một thời gian dài theo cơ chế quan lieu, bao cấp, động viên tinh thần…. Mặc dù những phương pháp đó trong thời chiến đã tỏ ra hiệu quả, nhưng trong thời bình, xây dựng và phát triển kinh tế các biện pháp đó đã gây khó khăn cản trởcho việc thực thi pháp luật và quản lý hành chính nhà nước , cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền + Mặt yếu kém của cơ quan hành pháp nước ta là bộ máy công chức….. - Hệ thống tư pháp còn yếu kém + Hiện nay các toà án nước ta còn được tổ chức theo nguyên tắc kết hợp giữa thẩm quyền xét xử và tổ chức hành chính lãnh thổ từ cấp huyện trở lên…. + Năng lực xét xử còn yếu, xét xử sai luật, bắt sai, xử sai còn khá nhiều…. +Thẩm quyền xét xử còn trùng lặp giữa toà án cấp tỉnh và cấp trung ương… + Sự yếu kém của ngành tư pháp là một cản trở lớn trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân của nước ta… - Hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể ND cũng chưa ngang tầm với chức năng, vai trò và tiềm năng của nó. 4. Liên hệ: * Giới thiệu khái quát về hệ thống chính trị ở cơ sở Xã tôi công tác là xã nằm tiếp giáp với thị trấn Chờ, cách trung tâm huyện lỵ Yên Phong 3 km. Phía Bắc và Tây Bắc giáp các xã Tam Giang, Hòa Tiến; phía Đông giáp Thị trấn Chờ; phía Nam giáp xã Văn Môn; phía Nam và Tây Nam giáp huyện Đông Anh - Hà Nội. Yên Phụ có hệ thống giao thông đường bộ rất thuận tiện. Con đường tỉnh lộ 286 (trước đây gọi là đường 16) đi từ Bắc Ninh tới Phù Lỗ (Hà Nội) chạy qua trung tâm xã. Phía Bắc của xã có đường cao tốc 18 chạy qua nối liền Yên Phụ với khu chế xuất Sóc Sơn và Sân bay Quốc tế Nội Bài (Hà Nội). Phía Đông có con đường liên xã ĐX1 nối liền Yên Phụ với Văn Môn và các xã khác trong huyện. Hiện nay còn có đường cao tốc 3B chạy qua. Phía Tây của xã có đường liên huyện ĐH6 thông sang Đông Anh và vùng ngoại ô Hà Nội. Yên Phụ có hệ thống giao thông đường bộ rất thuận tiện. Con đường tỉnh lộ 286 (trước đây gọi là đường 16) đi từ Bắc Ninh tới Phù Lỗ (Hà Nội) chạy qua trung tâm xã. Phía Bắc của xã có đường cao tốc 18 chạy qua nối liền Yên Phụ với khu chế xuất Sóc Sơn và Sân bay Quốc tế Nội Bài (Hà Nội). Phía Đông có con đường liên xã ĐX1 nối liền Yên Phụ với Văn Môn và các xã khác trong huyện. Hiện nay còn có đường cao tốc 3B chạy qua. Phía Tây của xã có đường liên huyện ĐH6 thông sang Đông Anh và vùng ngoại ô Hà Nội. Dân số toàn xã có 10.707 người với 2.285 hộ. Xã có diện tích 5,63 km², trong đó đất canh tác nông nghiệp là 362,36 ha. Bình quân diện tích theo đầu người là 390 m2. * Những kết quả đạt được trong hoạt động của hệ thống chính trị ở địa phương + Hệ thống chính trị cấp xã là một bộ phận không thể tách rời của hệ thống cả nước, góp phần to lớn trong sự nghiệpđấu tranh, giải phóng dân tộc, XD và đổi mới đất nước. Nhờ có sự lãnh đạo, quản lý thống nhất của tổ chức bộ máy ở các cấp xã mà hoạt động dân cư và các tổ chức trên địa bàn đi vào nề nếp, kỷ cương, giảm nhẹ nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý, giám sát của cấp trên. Hơn nữa, sự chuyên nghiệp linh hoạt và tậm tâm của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở làm tăng thêm uy tín của hệ thống chính trị. Kinh tế-XH từng bước phát triển và ổn định, đời sống của nhân dân trên địa bàn xã được cải thiện đáng kể. Thu nhập bình quân đầu người đạt sấp sỉ 35 triệu đồng (giá hiện hành)/người/ năm. Có thể nói hệ thống chính trị ở cơ sở đã từng bước được định hình và không ngừng đổi mới theo hướng ngày càng phù hợp hơn đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ ngày càng nhiều, càng khó khăn, phức tạp hơn. Cụ thể: - Hệ thống chính quyền, MTTQ và các đoàn thể ND cấp xã được củng cố kiện toàn, chất lượng hoạt động được nâng lên. - Hoạt động của chính quyền có nhiều đổi mới, tiến bộ, hiệu lực, hiệu quả được tăng cường, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển KT - XH trên địa bàn xã. - Hoạt động của MTTQ và các đoàn thể ND cấp xã đã có nhiều đổi mới theo hướng “đa dạng, thiết thực, gần dân”. - Công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được tập trung chỉ đạo đạt kết quả bước đầu. - Công tác XD, chỉnh đốn Đảng, gắn với triển khai cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM” được tổ chức thực hiện đồng bộ và đạt được kết quả quan trọng. - Công tác XD Đảng và tình hình Đảng bộ đã có chuyển biến tích cực. - Công tác chính trị, tư tưởng được chú trọng, bám sát yêu cầu nhiệm vụ ở địa phương. - Công tác tổ chức cán bộ tiếp tục đổi mới và được chọn làm khâu đột phá chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực: Đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và thực hiện chính sách cán bộ. - Công tác kiểm tra, giám sát được triển khai có hiệu quả. - Công tác dân vận có sự chuyển biến tiến bộ đặc biệt là công tác bình đẳng giới, tôn giáo được quan tâm, chỉ đạo. - Phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng tiếp tục được đổi mới theo hướng mở rộng theo hướng dân chủ, sát cơ sở. - Việc thực hiện dân chủ trong Đảng bộ và đời sống XH có nhiều tiến bộ. * Hạn chế: - Tuy có sự phân định chức năng nhiệm vụ và cơ chế phối hợp giữa các tổ chức nhưng thực tế hoạt động vẫn chứng tỏ đang có nhiều sự trùng lặp, hoặc thiếu rõ ràng, nhất là sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của chính quyền, giữa công tác dân vận của chính quyền với hoạt động của các đoàn thể. - Bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, có xu hướng quan liêu, xa dân. - Trách nhiệm quyền năng của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị chưa được xác định, quy định một cách rõ ràng, cụ thể làm triệt tiêu, hoặc giảm vai trò sự sáng tạo và suy nghĩ giám làm, giám chịu của cá nhân người lãnh đạo. - Đội ngũ cán bộ còn yếu về năng lực, trình độ, học vấn, không ít cán bộ cơ sở suy thoái đạo đức, phẩm chất và lối sống. - Chế độ đãi ngộ cho cấn bộ cấp xã chưa hợp lý, còn nhiều bất cập. * Nguyên nhân hạn chế: - Nguyên nhân khách quan: khối lượng công việc ở cơ sở là khá lớn, một số văn bản pháp luật ban hành chậm, thiếu đồng bộ, không ít nội dung còn chồng chéo. - Nguyên nhân chủ quan: công tác chỉ đạo, điều hành tổ chức thực hiện của cơ sở còn hạn chế, thiếu năng động, quyết liệt. * Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị cấp cơ sở: Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, góp phần bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, xin đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới phương thức hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở. Cụ thể: Một là, các đảng bộ, chi bộ ở xã, phường, thị trấn cầnnâng cao nhận thức và thực hiện đúng vai trò hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị ở cơ sở. Đảng lãnh đạo phải bằng chủ trương, định hướng, không bao biện làm thay công việc của chính quyền; phát huy tính chủ động, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện đường lối của Đảng. Đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ, trước hết là đổi mới việc ra nghị quyết và chỉ đạo thực hiện các nghị quyết của Đảng; đa dạng hóa các nội dung sinh hoạt của các tổ chức cơ sở đảng. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; tăng cường công tác giáo dục rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở. Hai là, đối với chính quyền cơ sở xã, phường, thị trấn, cần có mô hình tổ chức hợp lý, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Không tổ chức HĐND ở phường theo kết quả thực hiện thí điểm ở 10 tỉnh, thành phố trong cả nước; đồng thời, xác định rõ mô hình chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn đối với xã, phường, thị trấn để có cơ chế quản lý phù hợp với đối tượng quản lý. Phát huy mạnh mẽ vai trò của cơ quan hành chính trong việc mở rộng và thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, cụ thể hoá phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.Mọi hoạt động của cơ quan hành chính ở cơ sở phải hướng vào mục tiêu phục vụ dân; giải quyết đúng đắn và nhanh chóng các công việc có liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân. Giáo dục cán bộ, công chức cơ sở có phong cách "trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân", "nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin". Phát huy vai trò tự quản trong cộng đồng dân cư của tổ chức thôn, buôn, khu phố. Ba là, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng mở rộng, đa dạng hoá các hình thức tập hợp quần chúng nhân dân, đáp ứng yêu cầu và chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng và hợp pháp của nhân dân. Phát huy vai trò tham gia xây dựng chính quyền, giám sát các hoạt động của chính quyền, nhất là đối với các phường không tổ chức HĐND; nâng cao chất lượng phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên.Mở rộng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân đi đôi với giữ vững kỷ cương, kỷ luật. Có cơ chế để nhân dân tham gia, giám sát các hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân một cách thiết thực; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, nhất là ở những nơi có đông đồng bào có đạo, đồng bào dân tộc ít người. Tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống quy chế, quy định và làm rõ mối quan hệ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”, kịp thời giải quyết những vướng mắc phát sinh trong nội bộ nhân dân, không để những mâu thuẫn nhỏ tích tụ lâu ngày trở thành “điểm nóng”. Bốn là, cần có chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho hệ thống chính trị cấp cơ sở. Có cơ chế tuyển dụng những trí thức trẻ có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực chuyên môn vào các cơ quan của Đảng, chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội. Quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở, nhất là vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người. Thực hiện tốt công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức trong các tổ chức của hệ thống chính trị cơ sở; đồng thời đi đôi với việc đổi mới nội dung, chương trình đào tạo phù hợp với chức danh, công việc của cán bộ, công chức cơ sở. Năm là, đối với những cơ sở yếu kém, phức tạp, có biểu hiện vi phạm quyền làm chủ của nhân dân và có nhiều đơn thư, khiếu nại, tố cáo hoặc có diễn biến phức tạp về chính trị - xã hội, cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể cần theo dõi, nắm chắc mọi diễn biến để đánh giá đúng tình hình; tiến hành thanh tra, kiểm tra, kết luận rõ đúng, sai và xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên sai phạm, đồng thời có giải pháp cụ thể, thiết thực để sửa chữa, khắc phục, tạo sự thống nhất trong nhận thức, hành động ở các tổ chức cơ sở đảng và cộng đồng dân cư; kịp thời giải quyết những kiến nghị chính đáng của nhân dân. Sáu là, tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật hiện đại cho hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở, nhất là đảm bảo các điều kiện làm việc cho bộ phận “một cửa” theo chủ trương cải cách hành chính của Chính phủ giai đoạn 2011-2020, nhằm đáp ứng với tình hình nhiệm vụ của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế 5. Kết bài: Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân. Đổi mới HTCT đòi hỏi phải đổi mới đồng bộ, tổng thể, từ đổi mới Đảng lãnh đạo, Chính phủ, hệ thống tư pháp, Mặt trận Tổ quốc, hệ thống bầu cử; đổi mới cơ chế, nguyên tắc hoạt động và quan hệ giữa các bộ phận cấu thành HTCT. Mặc dù vậy, trọng tâm của đổi mới HTCT nước ta như Đảng ta xác định là: “cải cách hành chính, xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh”. Khâu có ý nghĩa sống còn là đổi mới HTCT ở cơ sở. Đổi mới HTCT đồng thời phải thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, dân chủ hóa đời sống xã hội, mở rộng dân chủ trực tiếp, thực hiện tốt hơn dân chủ đại diện, tạo điều kiện cho nhân dân thực sự tham gia ngày càng đông đảo và hiệu quả vào công việc của Nhà nước và xã hội. VẤN ĐỀ 2: NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Mở bài: Pháp quyền là một khái niệm được hình thành và phát triển dọc theo chiều dại lịch sử của văn minh nhân loại. Các nội dung, nguyên tắc cơ bản của pháp quyền đã không ngừng được giải thích, bổ sung và hoàn thiên theo từng giai đoạn và từng thời kỳ kịch sử. Từ thời Hy Lạp cổ đại, tư tưởng pháp quyền xuất hiện nơi mà nền dân chủ sơ khai đã được hình thành. Tư tưởng và học thuyết pháp quyền hiện đại của phương tây được truyền bá vào Việt nam kể từ khi Nguyễn Ái Quốc, người sáng lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tiến hành cuộc đấu tranh nhằm vạch trần và lên án chế độ cai trị hà khắc, tàn bạo, phi nhân tính, phi pháp quyền của chính phủ pháp tại thuộc địa VN. Cách mạng tháng tám thành công và bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước VNDCCH đã khẳng định quyết tâm của toàn thể dân tộc VN không chỉ trong mục tiêu độc lập dân tộc mà còn trong mục tiêu độc lập dân tộc mà còn trong mục tiêu phấn đấu vì một chế độ pháp quyền độc lập dân chủ. Hiến pháp năm 1946 đã trở thành các giá trị pháp luật hiện thực trong điều kiện lịch sử cụ thể của VN, đây được coi là chuẩn mực hiến định đầu tiên cho xây dựng nhà nước pháp quyền ở VN. ĐHĐB toàn quốc làn thứ X đã xác định đặc trưng cchur yếu của XH XHCN mà chúng ta xây dựng là: : “Có nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của ĐCS”. Vì vậy, để đi lên CNXH cùng với việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. ĐH đã chỉ rõ yêu cầu tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta hiện nay. 1. Khái niệm Nhà nước pháp quyền: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước XHCN thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lợi Nhà nước thuộc về nhân dân; bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp, quản lý xã hội theo pháp luật nhằm phục vụ lợi ích và hạnh phúc của nhân dân, do Đảng tiên phong của GCCN lãnh đạo đồng thời chịu trách nhiệm trước nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. 2. Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCNVN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân: - Đó là Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. - Đó là Nhà nước tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp. - Đó là Nhà nước được tổ chức, hoạt động trên cơ sở Hiếp pháp và pháp luật, bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội. - Đó là Nhà nước tôn trọng, thực hiện và bảo vệ quyền con người, tất cả vì hạnh phúc của con người; bỏa đảm trách nhiệm giữa nhà nước và công dân, thực hành dân chủ gắn với tăng cường kỷ cương, kỷ luật. - Đó là Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đồng thời bảo đảm sự giám sát của nhân dân, sự giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận - Đó là Nhà nước thực hiện đường lối hòa bình, hữu nghị với nhân dân các dân tộc và nhà nươc trên thế giới trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không cân thiệp vào công việc nội bộ của nhau và cùng có lợi, đồng thời tôn trọng và cam kết thực hiện các công ước, điều ước, hiệp ước quốc tế đã tham gia, ký kết, phê chuẩn. 3. Các yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN: Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay phải đáp ứng các yêu cầu dưới đây: - Xây dựng được một Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân bảo đảm thực hiện ngày càng đầy đủ nền dân chủ XHCN. Cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của Nhà nước phái đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân đân, bảo đảm quyền làm chủ, quyền con người của nhân dân, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân. - Xây dựng một Nhà nước có đủ năng lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội có hiệu quả, phát huy được mọi tiềm năng của dân tộc; đồng thời, tiếp thu hợp lý những thành tựu khoa học – kỹ thuật, công nghệ mới của thế giới và những tinh hoa văn hóa của nhân loại. - Xây dựng Nhà nước có bộ máy gọn nhẹ, được tổ chức chính quy, có quy chế làm việc khoa học, bảo đảm kiểm tra, giám sát và điều hành được hoạt động của xã hội, cũng như hoạt động của bản thân bộ máy nhà nước. - Xây dựng nhà nước hoạt động trên cơ sở pháp luật, thực hiện quản lí xã hội theo pháp luật, giữ vững kỉ cương nhà nước và trật tự xã hội,bảo đảm an ninh, quốc phòng, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng. - Xây dựng một nhà nước có đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, toàn tâm, toàn ý,phục vụ nhân dân, có trách nhiệm với dân, đồng thời có bản lĩnh chính trị, năng lực quản lí, loại trừ được bệnh quan liêu , tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân - Bảo đảm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước. - Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vìa nhân dân phải trở thành định hướng, yêu cầu bao trùm toàn bộ tổ chức hoạt dộng của nhà nước, đồng thời là trách nhiệm, của Đảng, Mặt trận Tổ Quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận và mọi công dân. Quan điểm nêu trên đòi hỏi các yêu cầu, nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN phỉa được quán triết trong quá trình đổi mới tổ chức hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, trong cái cách nền hành chính nhà nước, cải cách tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cũng như trong đổi mới cơ chế vận hành của nhà nước. Xây dựng Nhà nước pháp quyền trong điều kiện Đảng duy nhất cầm quyên đòi hỏi Đảng phỉa đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, quan tâm thích đáng cho việc lãnh đạo xây dưng nhà nước, xây dựng và thực hiện pháp luật, đồng thời bảo đảm cho các tổ chức Đảng và đảng viên hoạt động trong khôn khổ Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng các thể chế của Nhà nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt trận cũng tuân thủ pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trước Nhà nước và xã hội, đồng thời có những hình thức thích hợp thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội, tham gia xây dựng nhà nước, tham gia quản lý nhà nước. 4. Liên hệ: Địa phương nơi tôi công tác là một xã nằm ở phía tây nam của huyện, có đường QL18 và tỉnh lộ 279 chạy qua. Thuận lợi cho việc tiếp thu văn hóa văn minh của đát nước, các vùng, cũng như việc buôn bán trao đổi hàng hóa. Diện tích tự nhiên 553,96 ha, trong đó diện tích đất trồng lúa là 339,8 ha chiếm 61,35% tổng diện tích, dân số 11.972 khẩu phân bố đều ở 5 thôn, với diên tích hơn 1,5km2 ….có 5 hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp với 2.759 hộ. - Các tổ chức trong hệ thống chính trị ổn định, địa bàn xã tập trung. Số lượng đảng viên 203 đ/c chiếm khoảng 3,0% dân số. * Ưu điểm: Nắm bắt chủ trương, đường lối của ĐHĐ các cấp, cùng với nhân dân trong xã đã đồng lòng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và đạt được những thành tựu nhất định . Tình hình chính trị trên địa bàn khá ổn định, nhân dân lao động thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của mình thông qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, tham gia tích cực vào xây dựng và bảo vệ nhà nước, kiểm tra giám sát hoạt động của nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước. Kinh tế có bước phát triển đáng kể trong những năm gần đây: Tốc độ tăng trưởng kinh tế ước đạt 18% so với cùng kỳ; Tổng giá trị sản xuất: 198,6 tỷ đồng. Thu nhập bình quân đầu người đạt sấp xỉ 35 triệu đồng; Lương thực bình quân đầu người 380,6 kg/người/năm. Giá trị một canh ha canh tác đạt sấp xỉ 90 triệu đồng/ năm. - Có đội ngũ cán bộ trẻ, có trình độ năng lực, nhiệt tình năng động trong công tác. * Khuyết điểm, yếu kém: - Bộ máy tổ chức còn cồng kềnh, nhiều tầng, nhiều nấc, còn chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền; Hiệu lực và hiệu quả của bôn máy nhà nước chưa cao. - Trách nhiệm, quyền năng của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị chưa được xác định, quy định một cách chưa rõ rang, cụ thể làm triệt tiêu, hoặc giảm vai trò sự sáng tạo và suy nghĩ dám làm, dám chịu của cá nhân người lãnh đạo. - Đội ngũ cán bộ còn yếu về năng lực, trình độ, học vấn; không ít cán bộ cơ sở suy thoái đạo đức, phẩm chất và lối sống…… - Trong một số lĩnh vực chưa phát huy tốt vai trò chủ động tích cực của nhân dân. - Là một xã sản xuất nông nghiệp vẫn là chủ yếu, ngành nghề dịch vụ phát triển nhỏ lẻ và phân tán chưa bền vững. * Một số giải pháp trong thời gian tới: - Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. - tiếp tục trưng cầu ý kiến của nhân dân, tham gia đóng góp ý kiến xây dựng,hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực hiện nghiêm minh pháp luật của nhà nước. - Tiếp tục cải cách thể chế và phương thức hoạt động của cơ sở để nâng sao hiệu quả hoạt động của cơ sở. - Đẩy mạnh cải cách hành chính để thuân tiên cho nhân dân. Đĩnh rõ chức năng, nhiêm vụ của cán bộ để nâng cao ý thức trách nhiệm và tính sáng tạo của cá nhân trong công việc chung. - phát huy tối đa tính dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế tại cơ sở. - Chăm lo con người, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của con người. - Quan tâm giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân. - Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế, quản lý xã hôi bằng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục toàn dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật. - Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực. - có kế hoạch, chính sách đào tạo cán bộ, công chức và sắp xếp đội ngũ cán bộ công chức theo đúng chức danh, tiêu chuẩn. Định kỳ kiểm tra, đánh giá chất lượng cán bộ, công chức, kịp thời thay thế cán bộ, công chức thoái hóa, yếu kém. - Có chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ với cán bộ xã, thôn… - Phát huy vai trò của đảng viên, tổ chức Đảng, Mặt trân Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các cơ quan thông tin đại chúng và toàn xã hội trong đấu tranh chóng tham nhũng. Có chính sách khen thưởng đới với người có thành tích, xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm ở bất cứ cấp nào, lĩnh vực nào. VẤN ĐỀ 3: HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN 1. Khái niệm kỳ họp HĐND: Kỳ họp là phương thức hoạt động quan trọng của HĐND và đại biểu HĐND. Tại kỳ họp, HĐND thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn của mình bằng việc ra Nghị quyết quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương. 2. Những vấn đề cơ bản về kỳ họp HĐND - Nghị quyết của HĐND phải được quá nửa đại biểu HĐND biểu quyết tán thành, trừ trường hợp bãi nhiệm đại biểu HĐND phải được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu HĐND biểu quyết tán thành. HĐND biểu quyết bằng cách giơ tay, bỏ phiếu kín hoặc bằng cách khác theo đề nghị của Chủ tọa phiên họp. - Số lượng thời gian họp: HĐND họp thường lệ mỗi năm hai kỳ. HĐND tổ chức các kỳ họp chuyên đề hoặc kỳ họp bất thường theo đề nghị của Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND cùng cấp hoặc khi có ít nhất một phần ba tổng số đại biểu HĐND cùng cấp yêu cầu thì Thường trực HĐND quyết định triệu tập kỳ họp bất thường. - Hình thức họp: HĐND họp công khai; khi cần thiết, HĐND quyết định họp kín theo đề nghị của Chủ tọa kỳ họp hoặc của Chủ tịch UBND cùng cấp. - Chuẩn bị kỳ họp: Ngày họp, nơi họp và chương trình kỳ họp HĐND phải được thông báo cho nhân dân biết, chậm nhất là năm ngày, trước ngày khai mạc kỳ họp. Kỳ họp HĐND được tiến hành khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu HĐND tham gia. - Đại biểu quốc hội, đại biểu HĐND cấp trên được bầu ở địa phương, Chủ tịch UBMTTQ VN, người đứng đầu các đoàn thể nhân dân ở địa phương và đại biểu cử tri được mời tham dự kỳ họp HĐND, được phát biểu ý kiến nhưng không biểu quyết. - Tài liệu cần thiết của kỳ họp HĐND phải được gửi trước cho đại biểu HĐND theo quy định của pháp luật. - Kỳ họp thứ nhất của mỗi khóa Hội đồng nhân dân chậm nhất là 45 ngày kể từ ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân; đối với địa phương có bầu cử lại, bầu cử thêm đại biểu Hội đồng nhân dân hoặc lùi ngày bầu cử thì thời hạn triệu tập kỳ họp thứ nhất được tính từ ngày bầu cử lại, bầu cử thêm. - Kỳ họp thứ nhất của mỗi khóa Hội đồng nhân dân do Chủ tịch Hội đồng nhân dân khóa trước triệu tập và chủ tọa cho đến khi HĐND bầu được Chủ tịch HĐND khóa mới. Trường hợp khuyết Chủ tịch Hội đồng nhân dân thì một Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân khóa trước triệu tập kỳ họp. Nếu khuyết cả Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân thì Thường trực Hội đồng nhân dân cấp trên trực tiếp chỉ định triệu tập viên và chủ tọa kỳ họp cho đến khi HĐND bầu được Chủ tịch HĐND khóa mới, đối với cấp tỉnh thì Ủy ban thường vụ Quốc hội chỉ định triệu tập viên, để triệu tập kỳ họp Hội đồng nhân dân. - Nghị quyết và biên bản các phiên họp của Hội đồng nhân dân do Chủ tịch Hội đồng nhân dân hoặc chủ tọa kỳ họp ký chứng thực. Chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày bế mạc kỳ họp, nghị quyết, biên bản của kỳ họp Hội đồng nhân dân phải được Thường trực Hội đồng nhân dân gửi lên Thường trực Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp; đối với cấp tỉnh thì phải được gửi lên Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân phải được gửi đến các cơ quan, tổ chức hữu quan để thực hiện. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân được đăng công báo địa phương, đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương, niêm yết và lưu trữ theo quy định của pháp luật. - Tại phiên họp đầu tiên của mỗi khóa, HĐND bầu ban thẩm tra tư cách đại biểu HĐND theo sự giới thiệu của chủ tọa kỳ họp. Căn cứ báo cáo của Ban thẩm tra tư cách đại biểu, HĐND ra nghị quyết xác nhận tư cách đại biểu HĐND hoặc tuyên bố việc bầu đại biểu nào đó là không có giá trị. Trong nhiệm kỳ, nếu có bầu cử bổ sung đại biểu thì HĐND thành lập Ban thẩm tra tư cách đại biểu được bầu bổ sung, Ban thẩm tra tư cách đại biểu hết nhiệm vụ khi việc thẩm tra tư cách đại biểu đã hoàn thành. - Tại kỳ họp thứ nhất của mỗi khóa, HĐND bầu chủ tịch HĐND trong số các đại biểu HĐND theo sự giới thiệu của chủ tọa kỳ họp; Phó chủ tịch HĐND, Trưởng ban và các thành viên khác của Ban HĐND trong số các đại biểu HĐND theo sự giới thiệu của Chủ tịch HĐND; Chủ tịch UBND trong số các đại biểu HĐND theo sự giới thiệu của Chủ tịch HĐND; Phó chủ tịch UBND và các thành viên khác của UBND theo sự giới thiệu của Chủ tịch UBND; Văn phòng HĐND cấp tỉnh chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện công tác thư ký phục vụ kỳ họp HĐND cấp tỉnh; Văn phòng HĐND-UBND cấp huyện chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện công tác thư ký phục vụ kỳ họp HĐND cấp huyện; UBND cấp xã chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện công tác thư ký phục vụ kỳ họp HĐND cấp xã. 3. Liên hệ: HĐND huyện 3.1. Giới thiệu về huyện Yên Phong Yên Phong là một huyện đồng bằng, nằm ở phía tây tỉnh Bắc Ninh, thuộc vùng Châu thổ Sông Hồng. Yên Phong có 14 đơn vị hành chính bao gồm 01 thị trấn và 13 xã. Vị trí địa lý và các điều kiện thuận lợi về giao thông của huyện tạo nên tiềm lực phát triển mạnh về kinh tế, thương mại, dịch vụ. Năm 2016, kinh tế huyện Yên Phong tiếp tục ổn định và tăng trưởng khá. Tổng sản phẩm GRDP ước đạt 3.537 tỷ đồng, tăng 8,1 % so với 2015; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, phù hợp với nền kinh tế thị trường: Nông nghiệp 25,1 % tăng 2%, bước đầu đã thực hiện một số mô hình sản xuất lúa hàng hóa, lúa chất lượng cao và rau màu; công nghiệp - xây dựng cơ bản 42,2 % tăng 9,9 %; dịch vụ 32,7% tăng 10,9 % so với 2015, nhất là dịch vụ phát triển mạnh liền kề Khu công nghiệp. 3.2. Giới thiệu về HĐND huyện Có được kết quả như trên là nhờ có sự lãnh đạo đúng đắn, sát sao của Huyện ủy, HĐND, UBND huyện, sự nỗ lực phấn đấu của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, các ban, ngành, đoàn thể từ huyện đến cơ sở và được sự đồng tình của nhân dân trong huyện, trong đó phải nhấn mạnh vai trò quyết định chỉ tiêu, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, vai trò giám sát của HĐND huyện. HĐND huyện Yên Phong khóa XIX, nhiệm kỳ 2016-2021 gồm có 39 đại biểu. Tại kỳ họp thứ nhất, ông Đặng Trần Trung - Bí thư Huyện ủy Yên Phong được bầu giữ chức danh Chủ tịch HĐND huyện, ông Lưu Văn Mùi và ông Kiều Văn Hoàn được bầu làm Phó Chủ tịch HĐND huyện. HĐND huyện Yên Phong có hai ban: Ban Kinh tế - Xã hội và Ban Pháp chế. Mỗi ban có 1 trưởng ban, 1 phó trưởng ban và 5 ủy viên. Với kinh nghiệm hoạt động hội đồng nhân dân và sự bám sát các văn bản chỉ đạo của cấp trên, Thường trực HĐND huyện Yên Phong đã điều hành tốt, linh hoạt, sáng tạo các nội dung hoạt động, đặc biệt là hoạt động kỳ họp HĐND, kết quả cụ thể là: - Năm 2016 là năm đầu của nhiệm kỳ HĐND huyện khóa XIX, tại kỳ họp thứ nhất Thường trực HĐND huyện Yên Phong đã tiến hành chuẩn bị chu đáo và tổ chức kỳ họp đúng theo quy định: + Công tác triệu tập kỳ họp, thông báo nội dung chương trình kỳ họp được thực hiện đúng theo quy định. Quyết định triệu tập và dự kiến chương trình kỳ họp được gửi đến đại biểu HĐND và khách mời trước 10 ngày tổ chức kỳ họp. + Tài liệu của kỳ họp được chuẩn bị đầy đủ, chất lượng và được gửi đến đại biểu trước 5 ngày đúng theo quy định. + Công tác điều hành của chủ tọa kỳ họp đúng quy định, ngắn gọn, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả. Chú trọng hoạt động chất vấn, thảo luận tổ tại kỳ họp, đặc biệt quan tâm nêu các vấn đề bức xúc trong nhân dân, các vấn đề được đông đảo người dân quan tâm. + Tại kỳ họp thứ nhất, HĐND huyện đã tiến hành bầu các chức danh theo quy định: Chủ tịch HĐND, 02 phó chủ tịch HĐND, 2 trưởng ban, 02 phó ban HĐND huyện, bầu Chủ tịch UBND huyện theo giới thiệu của Chủ tịch HĐND huyện. Tiến hành bầu 2 phó chủ tịch UBND huyện và 12 thành viên ủy ban nhân dân huyện. Kỳ họp cũng đã bầu 20 hội thẩm nhân dân khóa XIX nhiệm kỳ 2016 - 2021. + Các dự thảo Nghị quyết được chuẩn bị chu đáo trước khi HĐND thông qua, Nghị quyết được ban hành đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền, thể thức văn bản theo quy định và phù hợp với tình hình địa phương. + Công tác truyền thanh trực tiếp kỳ họp HĐND được thực hiện tốt, phản ánh toàn bộ nội dung phiên họp đến nhân dân. - Hằng năm, Thường trực HĐND huyện xây dựng kế hoạch tổ chức các kỳ họp thường lệ, dự kiến cụ thể thời gian tổ chức, nội dung chương trình thông qua tại kỳ họp. - Trước khi tổ chức kỳ họp Thường trực HĐND tổ chức họp thống nhất với UBND huyện, UBMTTQ huyện, các Ban HĐND huyện để thống nhất thời gian, chương trình kỳ họp. Chỉ đạo các ban HĐND thẩm tra chi tiết, cụ thể báo cáo của UBND huyện, làm căn cứ để đại biểu HĐND huyện thảo luận. 3.3. Hạn chế trong hoạt động kỳ họp Một số đại biểu hội đồng nhân dân huyện chưa mạnh dạn trong chất vấn và thảo luận tổ. Một số ngành chuyên môn trả lời chất vấn còn chung chung, chưa đi thẳng vào vấn đề dẫn đến chất lượng của phần chất vấn và trả lời chất vấn chưa dạt được kết quả như mong đợi. 3.4. Giải pháp - Thường trực HĐND tiếp tục thực hiện xây dựng kế hoạch tổ chức các kỳ họp theo quy định, phối hợp chặt chẽ với UBND huyện, UBMTTQ huyện trong việc thống nhất thời gian và dự kiến nội dung chương trình kỳ họp. - Trước mỗi kỳ họp HĐND, Thường trực HĐND báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của Thường trực Huyện ủy về chương trình, thời gian kỳ họp HĐND và những nội dung quan trọng, những vấn đề nổi cộm trên địa bàn được phát hiện trong quá trình giám sát của Thường trực HĐND, các Ban, các Tổ đại biểu HĐND và qua TXCT của các Tổ đại biểu HĐND; những nội dung quan trọng được lựa chọn đưa ra thảo luận, chất vấn, quyết định tại kỳ họp HĐND nhằm đảm bảo những nội dung kỳ họp đúng quy định của pháp luật và đáp ứng được thực tiễn phát triển của huyện. - Các Ban HĐND thể hiện rõ quan điểm trong thẩm báo cáo của UBND huyện tạo cơ sở cho đại biểu HĐND huyện thảo luận cũang như việc lựa chọn các vấn đề đưa ra chất vấn tại kỳ họp. - Chuẩn bị dự thảo nghị quyết trình kỳ họp có chất lượng, đảm bảo ban hành đúng trình tự quy định. - Tiếp tục đổi mới công tác điều hành kỳ họp theo hướng ngắn gọn, thiết thực, giảm thời gian đọc báo cáo trên hội trường, phát huy vai trò thẩm tra của các ban, định hướng những vấn đề trọng tâm để thảo luận, chất vấn. VẤN ĐỀ 4: MỐI QUAN HỆ CỦA PHÁP LUẬT 1. Khái niệm: Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống những quy tắc xử sự chung do nhà nước xã hội chủ nghĩa ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và đại đa số nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và được đảm bảo thực hiện bằng bộ máy nhà nước và phương thức tác động của nhà nước trên cơ sở giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế của nhà nước nhằm xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Để nhận thức đầy đủ hơn về bản chất của pháp luật, chúng ta cần xem xét nó trong mối quan hệ với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. 2. Các mối quan hệ của pháp luật 2.2. Mối quan hệ giữa pháp luật với kinh tế Mối quan hệ giữa pháp luật với kinh tế được biểu hiện dưới hai khía cạnh: Một là, pháp luật là yếu tố của kiến trúc thượng tầng xã hội. Do đó pháp luật trước hết được ra đời trên cơ sở hạ tầng và được quy dịnh bởi cơ sở hạ tầng. Trong mối liên hệ này các đk kinh tế không chỉ là nguyên nhân trực tiếp quy định sự ra đời của pháp luật mà còn quyết định toàn bộ nội dung và sự phát triển của nó. Sự phụ thuộc của pháp luật vào kinh tế biểu hiện cụ thể ở các mặt sau đây: - Cơ cấu kinh tế, hệ thống kinh tế quyết định cơ cấu của hệ thống pháp luật; - Tính chất của quan hệ kinh tế, của cơ chế kinh tế quyết định tính chất của các quan hệ pháp luật, mức độ và phương pháp điều chỉnh pháp luật; - Các tổ chức và thiết chế pháp lý chịu ảnh hưởng quyết định từ chế độ kinh tế. Ví dụ: Hiện nay, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần (năm thành phần), do đó, pháp luật quy định và tạo môi trường để các thành phần kinh tế khác nhau cùng phát triển. Hai là, mặc dù ra đời từ các điều kiện và tiền đề kinh tế, nhưng pháp luật không phản ánh một cách thụ động các quan hệ kinh tế, mà còn có tính độc lập tương đối tác động trở lại đối với kinh tế. Điều đó thể hiện cụ thể ở các mặt sau đây: - Nếu pháp luật được xây dựng phù hợp với các quy luật phát triển kinh tế xã hội thì sẽ tác động tích cực tới sự phát triển kinh tế, đến các tổ chức và vận hành toàn bộ nền kinh tế cũng như cơ cấu bên trong của nền kinh tế một cách hiệu quả. - Nếu pháp luật được xây dựng không phù hợp với các quy luật kinh tế - xã hội thì nó sẽ kìm hảm sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế hoặc một trong các yếu tố hợp thành của nền kinh tế. 2.2. Mối quan hệ giữa pháp luật với chính trị Theo V.I.Lênin, trong mối quan hệ với chính trị: “một đạo luật là một biện pháp chính trị, là chính trị”. Trong xã hội có giai cấp, bất kỳ giai cấp thống trị nào cũng dựa vào pháp luật để thể hiện ý chí và thực hiện đường lối chính trị của giai cấp mình. Pháp luật trở thành hình thức biểu hiện của chính trị, là biện pháp sắc bén nhất, hiệu quả nhất để thực hiện những yêu cầu, mục đích, nội dung chính trị của giai cấp cầm quyền. Mối liên hệ giữa pháp luật với chính trị thể hiện tập trung, trực tiếp ở nội dung cơ bản của Cương lĩnh, mục tiêu, biện pháp, đường lối chính trị của giai cấp thống trị. Đường lối chính trị của đảng cầm quyền có ý nghĩa chỉ đạo việc xây dựng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Pháp luật thể chế hóa đường lối, chính sách của đảng thành ý chí chung, thành ý chí của nhà nước. Ngoài ra pháp luật còn chịu ảnh hưởng nhất định của đường lối chính trị của các giai cấp và tầng lớp khác trong xã hội. Ví dụ: Đường lối cách mạng của Đảng ta nhằm xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thể hiện rõ trong Cương lĩnh 1991 và sau đó được thể chế hóa trong Hiến pháp 1992. Như vậy, pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị nên pháp luật vừa là phương tiện để thực hiện đường lối chính trị, vừa là hình thái biểu hiện của chính trị, ghi nhận yêu cầu, quan điểm chính trị của giai cấp cầm quyền. Mặt khác, đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền có ý nghĩa chỉ đạo việc xây dựng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục pháp luật. 2.3. Mối quan hệ giữa pháp luật với nhà nước Nói về mối quan hệ giữa pháp luật với nhà nước, V.I.Lênin cho rằng: “ý chí, nếu nó là ý chỉ của nhà nước thì phải được biểu hiện dưới hình thức một đạo luật do chính quyền đặt ra; nếu không thế thì hai tiếng “ý chí” chỉ là một sự rung động không khí do những âm thanh rỗng tuếch gây nên”. Pháp luật và nhà nước là hai bộ phận của kiến trúc thượng tầng, luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cả hai hiện tượng này đều có chung nguồn gốc ra đời và phát triển. Nhà nước không thể tồn tại và phát huy nếu thiếu pháp luật; ngược lại, pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và có hiệu lực khi dựa trên sức mạnh của quyền lực nhà nước. Mặt khác, pháp luật do nhà nước ban hành nhưng khi đã được công bố thì nó trở thành một hiện tượng có sức mạnh tổng hợp công khai, bắt buộc đối với mọi chủ thể, trong đó có cả nhà nước. Nhà nước nói chung và các cơ quan của nó nói riêng đều phải tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật. Đồng thời, nhà nước cũng không thể chủ quan, duy ý chí khi xây dựng và ban bố pháp luật, mà phải xuất phát tư những nhu cầu khách quan của các điều kiện kinh tế - xã hội … Trong cuốn “Nhà nước và cách mạng”, V.I.Lênin nói rằng: “Nếu không muốn rơi vào không tưởng thì không nên nghĩ rằng, sau khi lật đổ chủ nghĩa tư bản, người ta có thể tức khắc làm việc cho xã hội mà không cần phải có tiêu chuẩn pháp lý nào cả…”. 3. Liên hệ * Liên hệ vêề mốối quan hệ của pháp luật Tôi đang công tác tại một xã nằằm bên bờ nam sông Cầằu ch ạy theo h ướng Đông - Tầy, có chiêằu dài khoảng 2000m, là n ơi h ợp l ưu c ủa 2 dòng sông Cà Lôằ và Nguyệt Đức. Địa giới của xã nằằm trong vùng tiêếp giáp v ới 3 t ỉnh: Bằếc Ninh Bằếc Giang - Hà Nội. Phía Bằếc giáp với huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bằếc Giang; phía Đông giáp với xã Đông Tiêến; phía Nam giáp thị trầến Ch ờ, huy ện Yên Phong; phía Tầy giáp với xã Hòa Tiêến và huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Diện tích t ự nhiên c ủa xã là 864,8 ha trong đó có 529 ha đầết nông nghiệp. Xã có 5 thôn, 3009 h ộ v ới 12524 nhần khẩu. Ủy ban nhần dần xã tôi có 5 thành viên, gôằm 1 Chủ t ịch, 2 Phó Ch ủ t ịch, 1 ủy viên quần sự và 1 ủy viên công an. Đôằng chí Ch ủ t ịch Ủy ban nhần dần xã đôằng thời cũng là Phó Bí thư Đảng ủy xã. Ngoài ra, giúp vi ệc cho UBND xã gôằm các đôằng chí là công chức phụ trách các m ảng: T ư pháp - H ộ t ịch, Đ ịa chính Xầy dựng, Tài chính - Kêế toán, Vằn phòng - Thôếng kê, Vằn hóa - Xã h ội; và Ch ỉ huy Trưởng quần sự, Trưởng công an. Kêốt quả đạt được: Trong suôết quá trình hoạt động của UBND xã, nhờ việc tích c ực nghiên cứu tìm hiểu môếi quan hệ giữa pháp luật với kinh têế đôằng th ời biêết v ận d ụng môếi quan hệ đó một cách phù hợp với điêằu kiện thực têế c ủa địa phương mà hiện tại xã tôi đã có được sự tiêến bộ rõ rệt vêằ mọi m ặt. M ột sôế thành công đáng kể của chính quyêằn xã vêằ việc vận dụng môếi quan hệ gi ữa pháp lu ật v ới kinh têế vào hoạt động điêằu hành và quản lý xã hội là: * Tổ chức thực hiện tôết các vằn bản quy phạm pháp luật của cơ quan quản lý cầếp trên góp phầằn thúc đẩy sự tiêến bộ mạnh meẽ của nêằn kinh têế nhã nhà, cụ thể: - Việc tuyên tuyêằn, phổ biêến và áp dụng đúng các quy định c ủa lu ật kinh têế, luật đầằu tư… giúp nêằn kinh têế xã nhà phát triển vững chằếc, nhiêằu doanh nghi ệp và hộ gia đình đã giàu lên trông thầếy, đời sôếng nhần dần no ầếm h ơn. Nhiêằu chính sách, pháp luật được ban hành đúng lúc, kịp thời đã gỡ bỏ những khó khằn, vướng mằếc cho người dần trong quá trình làm kinh têế. Kêết qu ả: + Vêằ sản xuầết nông nghiệp: Nhờ chính sách hôẽ trợ sản xuầết nông nghiệp, người nông dần đã được vay vôến đầằu tư cho sản xuầết, có máy móc hi ện đ ại thay thêế sức người nầng cao nằng xuầết lao động và đầằu ra cho s ản ph ẩm t ương đôếi ổn định. Mô hình trang trại ngày càng phát tri ển, gi ải quyêết nhiêằu công ằn việc làm nhàn rôẽi tại địa phương, nầng cao đời sôếng kinh têế cho nhần dần trong toàn xã. Thực hiện có hiệu quả đêằ án “Phát triển nông nghiệp đạt hiệu qu ả kinh têế cao” gằến với đêằ án xầy dựng nông thôn mới giúp cho nêằn s ản xuầết nông nghi ệp của xã phát triển ổn định, bình quần lương thực đầằu người nằm 2015 là 710kg; tổng giá trị sản xuầết nông nghiệp nằm 2015 đạt 97.442 tri ệu đôằng. Chương trình trôằng cầy phủ xanh đã tạo được cảnh quan môi trường xanh mát, tằng thu nhập cho người dần, trung bình hàng nằm xã trôằng thêm được 1.350 cầy xanh. + Sản xuầết tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ có bước chuyển biêến khá rõ nét, góp phầằn thúc đẩy nhịp độ tằng trưởng kinh têế. Nhờ các chính sách hôẽ trợ, khuyêến khích mà các nghêằ truyêằn thôếng như trôằng dầu, nuôi tằằm, ươm tơ, sản xuầết bánh đa, mì g ạo… tiêếp t ục đ ược duy trì, đôằng thời phát triển thêm nghệ mộc, myẽ nghệ vào địa phương. Đêến nay, toàn xã có 231 hộ làm nghêằ mộc, myẽ nghệ thu hút khoảng 1000 lao động tham gia; hàng chục hộ làm cơ khí; 500 hộ làm dịch vụ khác; ngoài ra còn hàng trằm lao động làm việc tại các khu, cụm CN. Tổng sôế lao động CN, ti ểu th ủ CN và d ịch v ụ nằm 2015 khoảng 5000 lao động. Giá trị thu nhập nằm 2015 ước tính đ ạt 192.888 triệu đôằng. + Cơ sở hạ tầằng phục vụ sản suầết, dần sinh, các thiêết chêế vằn hóa đ ược tằng cường, công tác quản lí đầết đai, vệ sinh môi trường được chú tr ọng và có chuyển biêến đáng kể. Với chủ trương phát huy nội lực, tranh thủ sự hôẽ trợ của trên và khai thác các chương trình xầy dựng nông thôn mới toàn xã đầằu t ư xầy dựng, củng côế các công trình xầy dựng, giao thông và th ủy l ợi v ới t ổng sôế tiêằn là 48.458 triệu đôằng. Vêằ giao thông: Cải tạo, nầng cầếp và làm mới được 09 công trình gôằm các tuyêến đường thôn, xã góp phầằn đảm bảo giao thông thu ận lợi cho ng ười dần. Vêằ thủy lợi: Hàng nằm, các hợp tác xã đã tổ chức tôết vi ệc c ải t ạo, n ạo vét kênh mương, đảm bảo hệ thôếng kênh mương thông thoáng, thuận lợi tưới tiêu. Vêằ quản lý đầết đai: Phát hiện và lập biên bản với 07 h ộ vi ph ạm xầy d ựng công trình trái phép trên đầết canh tác, đêằ ngh ị cầếp trên x ử lý. Hoàn thành quy hoạch và đêằ án “xầy dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2015, đ ịnh h ướng đêến nằm 2020 cũng như chi tiêết quy hoạch đầết nông nghiệp. Cầếp đ ược 198 GCN quyêằn sử dụng đầết cho các hộ gia đình. Phôếi hợp với các c ơ quan có th ẩm quyêằn thực hiện tôết viêc bôằi thường, thu hôằi đầết làm đường quôếc lộ 3b; tr ả tiêằn hôẽ tr ợ nông dần trôằng lúa không để xảy ra tình trạng nhầằm lầẽn, thiêếu xót. + Nhìn chung, nêằn kinh têế đang trên đà tằng trưởng tôết, c ơ cầếu kinh têế chuyển dịch theo hướng tích cực; Tổng giá tr ị sản xuầết nằm 2015 là 315.388 triệu đôằng; Thu nhập bình quần đầằu người là 27,2 triệu đôằng. * Có được những thành quả to lớn như vậy phầằn lớn là nhờ có sự lãnh đạo đúng đắn, sát sao của Đảng ủy, HĐND, UBND xã, sự nỗ lực phấn đấu của cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể và được sự đồng tình của nhân dân trong xã, trong đó phải nhấn mạnh vai trò quyết định chỉ tiêu, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, vai trò giám sát của HĐND xã. Bên cạnh đó, một yếu tố rất quan trọng dẫn đến thành công là công tác ban hành vằn bản quy phạm pháp luật của chính quyêằn địa phương đã thể chêế hóa được đầằy đủ những chủ trương, đường lôếi của Đảng, phù hợp với điêằu kiện thực têế của đ ịa phương, t ạo điêằu kiện thuận lợi không nhỏ cho công tác quản lý hành chính trong toàn xã. Đa sôế các vằn bản, quy phạm pháp luật được ban hành đúng quy đ ịnh, đúng thẩm quyêằn nên có hiệu lực thi hành cao. Việc phần công đội ngũ cán bộ, công chức vêằ cơ bản đêằu đúng chức nằng, nhiệm vụ, tạo sự đôằng thuận cao trong quầằn chúng. Tốền tại, hạn chêố: Bên cạnh những ưu điểm trên thì việc vận dụng môếi quan hệ của pháp luật với kinh têế của chính quyêằn xã tôi vầẽn còn nhiêằu bầết cập cầằn khằếc phục, đó là: - Việc tuyên truyêằn, phổ biêến và tổ chức thực hiện các vằn b ản, quy ph ạm pháp luật của cơ quan quản lý cầếp trên chưa thực sự sầu rộng dầẽn đêến: + Nêằn kinh têế phát triển chưa tương xứng với tiêằm nằng sằẽn có + Nêằn kinh têế phát triển nhưng đôi lúc còn bầếp bênh do ch ịu tác đ ộng xáu của nêằn kinh têế thị trường, đặc biệt là ngành nghêằ d ịch v ụ chiêếm t ỉ tr ọng l ớn trrong cơ cầếu thu nhập. + Chầết lượng nguôằn lực thầếp, phầằn lớn chưa qua đào tạo
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan