Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thể loại khác Chưa phân loại Đề án tốt nghiệp-thực trạng về thị trường chứng khoán việt nam năm 2008 đến 2011...

Tài liệu Đề án tốt nghiệp-thực trạng về thị trường chứng khoán việt nam năm 2008 đến 2011

.PDF
31
154
102

Mô tả:

ĐỀ TÀI THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2011 1. Sự cần thiết của đề tài. Thị trường chứng khoán Việt Nam mới ra đời đầu năm 2000. Thuật ngữ “Thị trường chứng khoán” còn khá mới mẻ đối với công chúng Việt Nam. Trong khi đó ở nhiều nước trên thế giới, thị trường chứng khoán đã phát triển rất sôi động. Đầu tư vào thị trường chứng khoán đã trở nên quan trọng đối với mọi người. Để tham gia vào thị trường chứng khoán, mọi người đều phải có các kiến thức nhất định về thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán chỉ có thể phát triển được nếu có sự tham gia ngày càng đông của những người có đầy đủ kiến thức về thị trường chứng khoán. Do đó, kiến thức của mọi người dân về thị trường chứng khoán ở Việt Nam cần được nâng cao. Thị trường chứng khoán có sự hấp dẫn vốn có của nó. Nó không chỉ quan trọng đối với nền kinh tế của một nước mà nó còn quan trọng đối với mỗi người bởi vì khả năng đầu tư sinh lợi của nó. Vì vậy, mỗi người tuỳ theo điều kiện, khả năng của mình mà cần phải tiếp cận thật nhanh để tham gia đầu tư có hiệu quả vào thị trường chứng khoán. Chính các hoạt động đó sẽ góp phần đưa thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển. Vì vậy em chọn đề “ thực trạng về thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2008 đến 2011” làm đề án cho mình. 2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài. Do qui mô của bài viết và thời gian làm bài bị hạn chế, cho nên bài viết này chỉ tập trung đề cập vào những nội dung cơ bản nhất của thị trường chứng khoán. Kiến thức về thị trường chứng khoán rất lớn nhưng những kiến thức trong bài viết này cũng tương đối đủ để hiểu về thị trường chứng khoán. Về phần nói về thực trạng và một số giải pháp cho thị trường chứng khoán Việt Nam, cũng do đó có nhiều hạn chế. Vì vậy, bài viết này cũng chỉ tập trung vào những vấn đề cơ bản nhất, quan trọng nhất đối với thị trường chứng khoán Việt Nam 3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề án là thị trường chứng khoán. Phạm vi nghiên cứu là ở Việt Nam trong giai đoạn năm 2008 đến 2011 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài này được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử và các quan điểm của các nhà kinh tế hiện đại của nước ngoài và Việt Nam, các quan điểm, , lý giải các chỉ số và đề xuát các giải pháp can thiệp qua các phương pháp. Phương pháp nghiên cứu là phương pháp logic học và phương pháp thời gian trong đó các công cụ phân tích thống kê và phân tích định lượng được sử dụng để giải quyết vấn đề. Nghiên cứu hệ thống lý thuyết và thực tiễn về vấn đề thị trường chứng khoán với các giải pháp phù hợp cho việc thực trạng về thị trường chứng khoán ở Việt Nam từ năm 2008 đến 2011. 5. Kết cấu của đề tài Đề tài bao gồm các nội dung sau: - Lời mở đầu - Chương I. Cơ sở lý luận về thị trường chứng khoán - Chương II. Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay - Chương III. Một số giải pháp phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. Lời kết luận. CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 1.1.Khái niệm về thị trường chứng khoán 1.1.1 Khái niệm chứng khoán: Chứng khoán là những giấy tờ có giá xác định số vốn đầu tư và nó xác nhận quyền đòi nợ hay quyền sở hữu về tài sản, bao gồm những điều kiện về thu nhập trong một khoảng thời gian nào đó và có khả năng chuyển nhượng. 1.1.2 Khái niệm thị Trường chứng khoán: Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra hoạt động giao dịch, mua bán các loại chứng khoán được tiến hành bởi những đối tượng khác nhau theo quy định của pháp luật. 1.1.3 Đặc điểm thị trướng chứng khoán: Là môi trường đầu tư cho công chúng giúp chuyển tiết kiệm sở hữu thành vốn đầu tư. Là kênh dẫn vốn trực tiếp để tài trợ các dự án phát triển kinh tế quốc gia. Là nơi cung cấp thông tin hỗ trợ quản lý kinh tế vĩ mô cũng như quản lý kinh tế vĩ mô. 1.2. Phân loại thị trường chứng khoán 1.2.1 Căn cứ vào tính chất pháp lý: Thị trường chứng khoán chính thức hay còn gọi là Sở giao dịch chứng khoán là nơi mua bán loại chứng khoán được niêm yết có địa điểm và thời biểu mua bán rõ rệt, giá cả được xác định theo hình thức đấu giá hoặc đấu lệnh. Thị trường chứng khoán phi chính thức hay còn gọi là thị trường OTC là nơi mua bán chứng khoán bên ngoài Sở giao dịch, không có ngày giờ nghỉ hay thủ tục quyết định mà do thoả thuận giữa người mua và người bán. Thị trường chứng khoán chính thức có giá trị như “bộ mặt” thị trường chứng khoán quốc gia, các bộ phận thị trường khác thể hiện sự đa dạng của các giao dịch có thể lựa chọn. Hàng hoá của thị trường tập trung cũng là những hàng hoá có thể đánh giá có chất lượng hơn so với hàng hoá của thị trường khác, do tính có tổ chức của nó; điều đó cũng có nghĩa sự an toàn hay rủi ro, cơ hội kiếm lời là khác nhau trong các giao dịch trên thị trường. 1.2.2. Căn cứ vào quá trình luân chuyển: Thị trường phát hành hay còn gọi là thị trường sơ cấp là nơi các chứng khoán được phát hành lần đầu bởi các nhà phát hành được bán cho các nhà đầu tư. Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Bộ phận thị trường này không làm tăng nguồn vốn mới cho nền kinh tế, nhưng có thể hoạt động liên tục, tạo ra khả năng thanh khoản cho chứng khoán đã phát hành. “Thị trường thứ cấp phục vụ cho hai mục đích chính: thúc đẩy sự tạo vốn cho các doanh nghiệp, chính phủ và tạo ra các công cụ đầu tư có khả năng sinh lời cho các nhà đầu tư 1.2.3. Căn cứ vào phương thức giao dịch: Thị trường giao ngay là thị trường mua bán chứng khoán theo giá của ngày giao dịch nhưng việc thanh toán và chuyển giao chứng khoán sẽ diễn ra tiếp theo sau đó vài ngày theo qui định. Thị trường tương lai là thị trường mua bán chứng khoán theo một loạt hợp đồng định sẵn, giá cả được thoả thuận trong ngày giao dịch nhưng việc thanh toán và chuyển giao chứng khoán sẽ diễn ra trong một ngày kỳ hạn nhất định trong tương lai. 1.2.4. Căn cứ vào đặc điểm hàng hóa: Thị trường trái phiếu là nơi mua bán các trái phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các trái phiếu đã được phát hành, các trái phiếu này bao gồm các trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ. Thị trường cổ phiếu là nơi mua bán các cổ phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi. Thị trường phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính khác như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn... Hình1.1. : sơ đồ phân loại thị trường chứng khoán Tính chất pháp lý TTCK chính thức TTCK OTC TT phát hành Quá trình luân chuyển Phương Thức Giao Dịch TT giao dịch TT giao ngay TT tương lai Cổ Phiếu Đặc điểm hàng hóa Trái Phiếu Thị trường phái sinh 1.3. Chức năng của thị trường chứng khoán. 1.3.1. Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế: Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội. 1.3.2. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại hàng hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình. 1.3.3. Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường càng cao. 1.3.4. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp Thông qua chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm. 1.3.5. Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng; ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, TTCK là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế. 1.4. Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán: 1.4.1 Nguyên tắc cạnh tranh: Theo nguyên tắc này, giá cả trên TTCK phản ánh quan hệ cung cầu về chứng khoán và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty. Trên thị trường sơ cấp, các nhà phát hành cạnh tranh với nhau để bán chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư, các nhà đầu tư được tự do lựa chọn các chứng khoán theo các mục tiêu của mình. Trên thị trường thứ cấp, các nhà đầu tư cũng cạnh tranh tự do để tìm kiếm cho mình một lợi nhuận cao nhất, và giá cả được hình thành theo phương thức đấu giá. 1.4.2 Nguyên tắc công bằng: Công bằng có nghĩa là mọi người tham gia thị trường đều phải tuân thủ những qui định chung, được bình đẳng trong việc chia sẻ thông tin và trong việc gánh chịu các hình thức xử phạt nếu vi phạm vào những qui định đó. 1.4.3 Nguyên tắc công khai: Chứng khoán là loại hàng hoá trừu tượng nên TTCK phải được xây dựng trên cơ sở hệ thống công bố thông tin tốt. Theo luật định, các tổ chức phát hành có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin đầy đủ theo chế độ thường xuyên và đột xuất thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, Sở giao dịch, các công ty chứng khoán và các tổ chức có liên quan. 1.4.4 Nguyên tắc trung gian: Nguyên tắc này có nghĩa là các giao dịch chứng khoán được thực hiện thông qua tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư không mua trực tiếp của nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh, các công ty chứng khoán mua, bán chứng khoán giúp các khách hàng, hoặc kết nối các khách hàng với nhau qua việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình. 1.4.5 Nguyên tắc tập trung: Các giao dịch chứng khoán chỉ diễn ra trên sở giao dịch và trên thị trường OTC dưới sự kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tự quản. 1.5. Hàng hóa của thị trường chứng khoán: 1.5.1 Trái phiếu Trái phiếu là giấy tờ có giá xác định số vốn đầu tư và xác nhận quyền đòi nợ bao gồm những điều kiện và thu nhập trong một khoảng thời gian nào đó và có khả năng chuyển nhượng. Từ khái niệm trên ta thấy trái phiếu có đặc điểm là có thu nhập ổn định, có khả năng chuyển nhượng, có thời gian đáo hạn. Đồng thời trái chủ không có quyền tham gia bầu cử, ứng cử vào Hội đồng quản trị. Nhưng trái phiếu đem lại cho trái chủ quyền được ưu tiên trong phân chia lợi nhuận cũng như thanh lý tài sản khi công ty phá sản. 1.5.1.1.Trái phiếu của Chính phủ Đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Chính phủ, chính phủ phát hành trái phiếu để huy động tiền nhàn rỗi trong dân và các tổ chức kinh tế, xã hội. Chính phủ luôn được coi là Nhà phát hành có uy tín nhất trên thị trường; Vì vậy, Trái phiếu Chính phủ được coi là loại chứng khoán có ít rủi ro nhất. 1.5.1.2 Trái phiếu của công ty: Là những trái phiếu do doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn, ngân hàng và các tổ chức tài chính phát hành để tăng vốn hoạt động. Trái phiếu doanh nghiệp có nhiều loại và rất đa dạng. 1.5.2. Cổ phiếu Cổ phiếu là những giấy tờ có giá xác định số vốn đầu tư và nó xác nhận quyền sở hữu về tài sản và những điều kiện về thu nhập trong một khoảng thời gian nào đó và có khả năng chuyển nhượng. Có hai loại cổ phiếu là cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. 1.5.2.1 Cổ phiếu thường Cổ phiếu thường là cổ phiếu không có thời gian đáo hạn, không có thu nhập ổn định mà thu nhập của nó phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh hay chính sách chi trả cổ tức của công ty. Cổ phiếu thường có khả năng chuyển nhượng dễ dàng. Người nắm giữ cổ phiếu thường có quyền tham gia bầu cử vào Hội đồng quản trị nhưng không được ưu tiên trong phân chia lợi nhuận cũng như thanh lý tài sản khi công ty phá sản. Ngoài ra cổ phiếu thường còn đem lại quyền đặt mua cổ phiếu mới cho các cổ đông. 1.5.2.2 Cổ phiếu ưu đãi Cổ phiếu ưu đãi là loại cổ phiếu có sự ưu tiên hơn cổ phiếu thường trong việc phân chia lợi nhuận cũng như chi trả cổ tức và thanh lý tài sản khi công ty phá sản. Cổ phiếu ưu đãi cũng như cổ phiếu thường là nó không có thời gian đáo hạn. Nó tồn tại ở sự tồn tại của công ty. Nó cũng có khả năng chuyển nhượng nhưng phải thêm một số điều kiện nhất định. Cổ tức của cổ phiếu ưu đãi lẫn cổ phiếu thường đều không phải là nợ của công ty do đó không có thu nhập ổn định trong điều kiện bình thường và nó có thể được mua lại bởi nhà phát hành. Cổ phiếu ưu đãi còn có một số điều khoản kèm theo. Thứ nhất, cổ phiếu ưu đãi có tính chất tham dự trong phân chia lợi nhuận khi công ty làm ăn có lãi, vượt một mức nào đó. Thứ hai, cổ phiếu ưu đãi có tính chất bỏ phiếu. Trong điều kiện bình thường, cổ phiếu ưu đãi không có tính chất bỏ phiếu. Nhưng khi công ty làm ăn thua lỗ, cổ phiếu ưu đãi sẽ có tính chất bỏ phiếu. Thứ ba, cổ phiếu ưu đãi có tính chất tích luỹ hay không tích luỹ tức là do côgn ty làm ăn không hiệu quả, công ty sẽ không trả cổ tức. Nhưng khi công ty làm ăn có lãi công ty có thể trả cổ tức cho những năm bị thua lỗ trước đó hoặc không trả cổ tức của những năm chưa trả được 1.5.3 Chứng khoán phái sinh và chứng chỉ quỹ 1.5.3.1 Chứng khoán phái sinh: Chứng khoán phái sinh: là những chứng khoán được phát hành trên cơ sở những chứng khoán đã có như cổ phiếu, trái phiếu. * Chứng khoán phái sinh gồm: - Quyền mua cổ phần: là chứng khoán do công ty cổ phần phát hành kèm theo đợt phát hành cổ phiếu bổ sung nhằm bảo đảm cho cổ đông hiện hữu quyền mua cổ phiếu mới theo những điều kiện đã được xác định.( mua một số lượng cổ phần mới tương ứng với tỷ lệ cổ phần hiện có của họ trong công ty, tại một mức giá xác định thấp hơn mức giá chào mời ra công chúng và trong một thời hạn nhất định). - Chứng quyền: là chứng khoán cho phép người sở hữu được quyền mua một số lượng xác định một loại chứng khoán khác (thường là cổ phiếu thường) với một mức giá xác định và trong một thời hạn nhất định. è Chứng quyền thường được phát hành khi tổ chức lại công ty, hoặc khi công ty muốn khuyến khích các nhà đầu tư mua các trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi có những điều kiện kém thuận lợi. - Quyền lựa chọn: là quyền được ghi trong hợp đồng cho phép người nắm giữ nó được mua (nếu là quyền chọn mua) hoặc bán (nếu là quyền chọn bán) một số lượng chứng khoán xác định với một mức giá xác định và trong một thời gian nhất định. - Hợp đồng tương lai: là cam kết mua hoặc bán các loại chứng khoán, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán nhất định với một số lượng và mức giá nhất định vào ngày xác định trước trong tương lai. 1.5.3.2 Chứng chỉ quỹ: - Chứng chỉ quỹ đầu tư: là chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với 1 phần vốn góp của quỹ đại chúng. Quỹ đại chúng: Quỹ mở (quỹ mua lại chứng chỉ do quỹ phát hành) và quỹ đóng (quỹ không mua lại các chứng chỉ quỹ). - Quyền của nhà đầu tư tham gia quỹ: hưởng lợi từ hoạt động của quỹ hoặc từ tài sản được chia tương ứng với tỷ lệ góp vốn. Yêu cầu công ty quản lý quỹ hoặc ngân hàng giám sát mua lại chứng chỉ quỹ mở. Tham dự quyết định tại đại hội nhà đầu tư. Chuyển nhượng chứng chỉ quỹ. 1.6. Các chủ thể của thị trường chứng khoán: Các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường chứng khoán có thể được chia thành các nhóm sau: nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan đến chứng khoán. 1.6.1 Nhà phát hành Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán - hàng hoá của thị trường chứng khoán. - Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu Chính phủ và trái phiếu địa phương. - Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty. - Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu, chứng chỉ thụ hưởng... phục vụ cho hoạt động của họ. 1.6.2 Nhà đầu tư Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức. - Các nhà đầu tư cá nhân: là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên thị trường chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. - Các nhà đầu tư có tổ chức:là các tổ chức thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Các tổ chức này có thể là: công ty đầu tư, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, ngân hàng thương mại và các công ty chứng khoán. 1.6.3 Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán - Công ty chứng khoán: CTCK là tổ chức tài chính trung gian thực hiện một hoặc một số nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán bao gồm: môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, lưu ký chứng khoán. - Ngân hàng thương mại: ngân hàng thương mại có thể đầu tư kinh doanh chứng khoán và thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành. 1.6.4 Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán - Cơ quan quản lý Nhà nước : UBCKNN thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán - Sở giao dịch chứng khoán: Sở giao dịch chứng khoán là cơ quan thực hiện vận hành thị trường và ban hành những quyết định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán trên Sở phù hợp với các quy định của luật pháp và UBCKNN - Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán - Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán - Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán: - Các tổ chức tài trợ chứng khoán: là tổ chức phụ trợ, phục vụ các giao dịch chứng khoán. - Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm: là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và theo những điều khoản đã cam kết của công ty phát hành đối với một đợt phát hành cụ thể. 1.7. Cơ chế giao dịch trên thị trường chứng khoán 1.7.1. Các loại giao dịch trên thị trường chứng khoán Cho đến nay, có năm loại hình giao dịch đã và đang được sử dụng phổ biến trên thị trường chứng khoán các nước. 1.7.1.1. Giao dịch bằng tiền mặt sẵn có Theo loại hình giao dịch này, nhà đầu tư được yêu cầu phải thanh toán đủ số chứng khoán mua được bằng nguồn tiền riêng có vào ngay hoặc trước ngày thanh toán các giao dịch. Đối với phần lớn các giao dịch, ngày thanh toán rơi vào 2-5 ngày làm việc sau ngày giao dịch. 1.7.1.2. Giao dịch bằng nguồn tiền vay mượn Khác với loại hình giao dịch bằng tiền mặt sẵn có, trong loại hình giao dịch bằng nguồn tiền vay mượn (giao dịch bằng tín dụng), để mua một số lượng chứng khoán nhất định, nhà đầu tư chỉ phải đặt cọc trước một phần tiền tối thiểu theo một tỷ lệ ký quỹ bắt buộc so với tổng trị giá tính theo giá thị trường của các chứng khoán định mua (Luật các nước quy định tỷ lệ này là 30 - 50%) và vay từ các công ty chứng khoán phần tiền còn lại. Theo loại hình giao dịch này, tất cả các chứng khoán được mua bằng nguồn tiền vay mượn đều phải được giữ tại các công ty chứng khoán và được đăng ký dưới tên của các công ty chứng khoán (cũng gọi là street name) bởi vì chính những chứng khoán này lại được sử dụng như vật thế chấp. Mặc dù loại hình giao dịch bằng tín dụng cho phép nhà đầu tư có thể mua nhiều hơn khả năng hiện có, nghĩa là tạo ra một đòn bẩy tài chính, nhưng loại hình giao dịch mày có kỹ thuật khá phức tạp và không phải là loại hình thích hợp với mọi nhà đầu tư. Về mặt kỹ thuật, nếu thị giá của chứng khoán sụt giảm nhanh và tỷ lệ tiền ký quỹ so với tổng giá trị chứng khoán thấp so với tỷ lệ ký quỹ bắt buộc, công ty chứng khoán sẽ yêu cầu nhà đầu tư thêm tiền và tài khoản để duy trì tỷ lệ ký quỹ tối thiểu, nếu nhà đầu tư đặt thêm tiền vào tài khoản sẽ bán số cổ phiếu đó và tiền thu được để hoàn trả khoản vay này. 1.7.1.3. Bán khống Loại hình giao dịch này cho phép nhà đầu tư bán các chứng khoán không thuộc sở hữu của mình (chứng khoán vay mượn) ở thời điểm bán với kỳ vọng là sẽ mua lại các chứng khoán đó ở giá thấp hơn trong một thời điểm nào đó trong tương lai để hoàn trả lại cho người sở hữu. 1.7.1.4. Giao dịch khối Giao dịch khối (giao dịch lô lớn) là giao dịch gắn liền với hoạt động đầu tư chứng khoán của các tổ chức đầu tư. Đó là giao dịch với số lượng lớn một loại chứng khoán nhất định. 1.7.1.5. Giao dịch bằng chương trình Các nhà đầu tư là các tổ chức cũng có thể mua, bán đồng thời một số lượng lớn các cổ phiếu của các công ty khác nhau trong một kỹ thuật giao dịch khác được gọi là giao dịch bằng chương trình. Đó là loại giao dịch sử dụng các chương trình vi tính phức tạp, có thể ra quyết định mua bán một cách tự động. 1.7.2. Các loại lệnh được sử dụng trong giao dịch Việc mua bán chứng khoán trên các thị trường chứng khoán để dựa vào các nhà môi giới và nhà kinh doanh chứng khoán. Để thực hiện việc giao dịch, nhà đầu tư phải cung cấp cho nhà môi giới những thông tin nhất định. Một trong những thông số mà nhà đầu tư phải cung cấp cho nhà môi giới là các loại lệnh mua bán. Trên thực tế, mặc dù có rất nhiều loại lệnh được sử dụng trên thị trường chứng khoán các nước những lệnh thị trường, lệnh giới hạn, lệnh dừng vẫn là 3 loại lệnh cơ bản được áp dụng phổ biến tại các sở giao dịch chứng khoán. 1.7.2.1. Lệnh thị trường Lệnh thị trường (lệnh mua bán theo giá thị trường) là lệnh chỉ thị cho nhà môi giới mua hoặc bán một chứng khoán theo giá tốt nhất có thể có được trên thị trường (giá cao nhất đối với lệnh bán hoạc giá thấp nhất đối với lệnh mua). Lệnh thị trường là loại lệnh phổ biến nhất được áp dụng trong mua bán chứng khoán. Hầu hết các lệnh thực hiện trên thị trường chứng khoán là lệnh thị trường. 1.7.2.2. Lệnh giới hạn Lệnh giới hạn là chỉ nhà môi giới không được mua một chứng khoán quá mức giá ấn định trước hoặc bán một chứng khoán thấp hơn mức giá đã chỉ định. Lệnh giới hạn là một lệnh có điều kiện: khi nhận được lệnh này người môi giới phải mua và bán một số lượng chứng khoán nhất định theo giá đã được ấn định hoặc tốt hơn. Một lệnh mua có giới hạn chỉ có thể được người môi giới thực hiện ở mức giá đã được ấn định hoặc thấp hơn. Ngược lại, một lệnh bán có giới hạn chỉ được thực hiện ở mức giá đã được ấn định hoặc ở mức giá cao hơn. Khi thực hiện lệnh này, trong mọi truờng hợp, người môi giới có trách nhiệm tìm kiếm giá tốt hơn so với giá được ấn định cho khách hàng của mình. 1.7.2.3. Lệnh dừng Một loại lệnh có điều kiện khác là lệnh dừng. Lệnh dừng là lệnh chỉ cho người môi giới không được thực hiện việc mua bán cho đến khi giá thị trường lên xuống phù hợp với giá đã ấn định. Có hai loại lệnh dừng mua khi giá chưa lên đến giá ấn định và lệnh dừng bán khi giá chưa tụt xuống tới mức ấn định. Lệnh dừng mua khi giá chưa đến mức ấn định chỉ định rằng lệnh sẽ không được thực hiện cho đến khi giá thị trường lên tới hoặc cao hơn mức giá đã được ấn định. Ngược lại, lệnh dừng bán khi giá chưa tụt xuống tới mức ấn định hoặc thấp hơn. Như vậy, về bản chất, cả hai loại lệnh dừng đều là loại lệnh thị trường có điều kiện. Đó là loại lệnh mua bán theo thời giá được tạm thời hoãn thực hiện. Lệnh này chỉ có hiệu lực thực hiện khi giá chứng khoán trượt đến hoặc vượt qua một mức giá ấn định. Một khi giá ấn định trong lệnh dừng được thoả mãn, lệnh dừng trở thành lệnh thị trường. 1.7.3. Chu trình giao dịch Trước khi thực hiện giao dịch, nhà đầu tư phải mở một tài khoản tại công ty chứng khoán. Sau khi đã có tài khoản và đã lưu ký tiền hoặc chứng khoán vào tài khoản, nhà đầu tư có thể đặt lệnh mua bán theo nhiều phương thức khác nhau. Phương thức cổ điển nhất có lẽ là trực tiếp đến công ty chứng khoán để đặt lệnh. Cùng với những tiến bộ của kỹ thuật, lệnh có thể được đặt thông qua điện thoại, qua hệ thống máy vi tính cá nhân vàqua mạng internet. Mặc dù lệnh có thể được thực hiện thông qua nhiều phương thức khác nhau, chu trình thực một lệnh giao dịch ở các hệ thống giao dịch đều tương tự nhau. Tất cả các lệnh được thực hiện trên cơ sở giao dịch phải được thanh toán trong tổng n ngày nhất định. Yêu cầu này thường được gọi là T + n, tức là ngày giao dịch (T) cộng thêm n ngày. Tuỳ thuộc vào sự phát triển của hệ thống giao dịch mà n có thể thay đổi khác nhau trong thị trường chứng khoán của các nước. Trong khi thị trường chứng khoán Hồng Kông áp dụng hệ thống thanh toán T + 2 thì Mỹ, Đài Loan, Thái Lan... sử dụng hệ thống T + n, người mua phải chuyển tiền mua chứng khoán đến các công ty chứng khoán và công ty chứng khoán phục vụ người bán chuyển tiền bán chứng khoán vào tài khoản người giao chứng khoán. Các thông tin giao dịch cũng được thông báo tới các công ty thanh toán bù trừ Hình 1.2. Lộ trình thực hiện một lệnh mua bán qua các hệ thống giao dịch Nhà đầu tư Công ty môi giới Máy điện toán của Công ty môi giới Sở giao dịch chứng khoán quốc gia Khớp lệnh điện tử Nhân viên kinh doanh Thị trường OTC Khớp lệnh điện tử Nhân viên kinh doanh Sở giao dịch chứng khoán quốc tế Khớp lệnh điện tử Nhân viên kinh doanh CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 2.1.. Mô hình chứng khoán Việt Nam. 2.1.1. Về cơ quan quản lý thị trường chứng khoán. Đối với Việt Nam, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã được thành lập để quản lý và giám sát thúc đẩy cho thị trường phát triển theo định hướng XHCN và bảo vệ quyền lợi cho các nhà đâu tư. Đây là bước đi đúng phù hợp với điều kiện của Việt Nam và xu hướng quốc tế. 2.2.2. Về trung tâm giao dịch chứng khoán. Trung tâm giao dịch chứng khoán tại thành phố Hồ Chí Minh đã được thành lập. Còn trung tâm giao dịch chứng khoán tại Hà Nội đang được xem xét thành lập. Hệ thống giao dịch của trung tâm tự động hoá với trạm làm việc có công suất nhỏ. 2.2.3. Về sở giao dịch chứng khoán. 2.2.3.1 Hình thức sở hữu. Đối với Việt Nam, Sở giao dịch chứng khoán sẽ do Nhà nước sử hữu, để đảm bảo an toàn, công bằng theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc thành lập, đình chỉ hoạt động hoặc giải thể Sở giao dịch chứng khoán do Thủ tướng chính phủ quyết định theo đề nghị của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam là một tổ chức hoạt động không vì lợi nhuận đặt dưới sự quản lý trực tiếp của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. 2.2.3.2. Số lượng Sở giao dịch chứng khoán. Để tránh những bất lợi của việc tồn tại nhiều Sở giao dịch chứng khoán mà các nước đang gặp phải, chúng ta cũng chỉ nên xây dựng một Sở giao dichj chứng khoán thống nhất với các sàn giao dịch tại một, hai thành phố được nối mạng với nhau. 2.2.3.3. Địa điểm thiết lập Sở giao dịch chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán được đặt ở thành phố Hồ Chí Minh vì hiện nay thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm thương mại tài chính lớn nhất trongnước và để cho Sở giao dịch phát triển. Với hệ thống giao dịch điện tử, các công ty môi giới tại Hà Nội vẫn có thể dễ dàng sẽ được tiếp cận thị trường. 2.2.3.4.Giao dịch ngoài Sở. Đối với Việt Nam, để công khai hoá tất cả các hoạt động giao dịch, Nhà nước đang xem xét thành lập Sở giao dịch chứng khoán tập trung cho tất cả các chứng khoán (kể cả công ty và và nhỏ) có đủ điều kiện niêm yết, hay không đủ điều kiện niêm yết được mua bán tại Sở giao dịch chứng khoán. Tuy nhiên, việc giao dịch những chứng khoán của công ty lớn (đủ điều kiện niêm yết) tách biệt với khu vực giao dịch những chứng khoán của những công ty vừa và nhỏ không đủ điều kiện niêm yết. 2.2.3.5. Hệ thống giao dịch. Việt Nam áp dụng hệ thống ghép lệnh. Hệ thống này đơn giản cho phép có được giá cả, cạnh tranh tốt nhất nên đang được nhiều nước mới nổi áp dụng. ở Việt Nam trong thời gian đầu khi thị trường chưa phát triển, khối lượng giao dịch còn nhỏ, nên áp dụng phương thức ghép lệnh từng đợt để giảm bớt sự biến động của giá cả. 2.2.3.6. Mức độ tự động hoá. Trong điều kiện chi phí cho hệ thống tự động hoá ngày càng có xu hướng giảm thì Việt Nam cần thiết và sử dụng chương trình tự động hoá ngay từ đầu. Nếu bắt đầu bằng giao dịch thủ công, sau đó lại thay thế bằng hệ thống tự động thì sẽ tốn kém. Để tiết kiệm chi phí cho thời gian đầu ở Việt Nam chỉ lắp đặt thiết bị với công suất xử lý thấp. Các thiết bị lắp đặt ở trạng thái mở để khi khối lượng giao dịch tăng lên có thể lắp đặt thêm nhằm mổ rộng công suất xử lý của hệ thống. 2.3.4. Về lĩnh vực đăng ký, thanh toán - bù trừ và lưu giữ chứng khoán. Hệ thống đăng ký, thanh toán - bù trừ và lưu giữ chứng khoán. Các chức năng đăng ký, thanh toán, bù trù và lưu giữ được kết hợp vào một trung tâm duy nhất trong cả nước. Các công ty chứng khoán và các ngân hàng được cho phép trở thành công ty lưu ký. 2.3.5. Về các tổ chức trung gian. Ở Việt Nam, các ngân hàng chỉ được phép kinh doanh chứng khoán dưới hình thức thành lập các công ty độc lập, hoạt động tách rời với kinh doanh tiền tệ. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cho phép cả các công ty chứng khoán độc lập hình thành từ các công ty tài chính, các tổng công ty lớn. Ở Việt Nam các công ty chứng khoán được phép thực hiện tất cả các hình thức như : bảo lãnh phát hành chứng khoán, môi giới chứng khoán, tư doanh chứng khoán, tư vấn chứng khoán và quản lý quỹ đầu tư. Riêng hình thức quản lý quỹ đầu tư, yêu cầu phải hoạt động tách rời dưới hình thức một công ty độc lập nhằm bảo vệ lợi ích của những cổ đông của quỹ. Ngoài ra hiện nay, Nhà nước còn cho phép hai loại doanh nghiệp tham gia kinh doanh chứng khoán là công ty cổ phần và doanh nghiệp liên doanh. Trên thế giới có hai loại quỹ đầu tư chứng khoán chủ yếu là quỹ đóng, vaf quỹ mở. Trong thời gian đầu Việt Nam dự kiến áp dụng hình thức quỹ đầu tư chứng khoán dạng quỹ đóng (quỹ không mua lại cổ phần của cổ đông muốn rút vốn) để đảm bảo an toàn trong điều kiện khả năng thanh toán của thị trường còn thấp. 2.3.6. Về sự tham gia của bên nước ngoài. Việt Nam cho phép bên nước ngoài được sở hữu một tỷ lệ phần trăm nhất định và cho phép công ty chứng khoán nước ngoài được liên doanh với công ty chứng khoán trong nước theo một tỷ lệ liên doanh nhất định 2.2.Những cột mốc đáng nhớ và chỉ số chứng khoán Việt Nam: 2.2.1 Những cột mốc đáng nhớ: Ngày 11-7-1998 Chính phủ đã ký Nghị định số 48/CP ban hành về chứng khoán và TTCK chính thức khai sinh cho Thị trường chứng khoán Việt Nam. Cùng ngày, Chính phủ cũng ký quyết định thành lập Trung tâm Giao dịch Chứng khoán đặt tại TP.HCM và Hà Nội. Việc chuẩn bị cho TTCKVN thực ra đã do Uỷ Ban Chứng khoán Việt Nam ra đời bằng Nghị định 75/CP ngày 28-11-1996. Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (TTGDCK TP.HCM) được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11-7-1998 và chính thức đi vào hoạt động thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28-7-2000. Trung tâm Giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Hà Nội đã chính thức chào đời vào ngày 8/3/2005. Khác với TTGDCK TP.HCM (vốn là nơi niêm yết và giao dịch chứng khoán của các công ty lớn), TTGDCK Hà Nội sẽ là “sân chơi” cho các DN nhỏ và vừa (với vốn điều lệ từ 5 đến 30 tỷ đồng). 2.2.2 Chỉ số chứng khoán Việt Nam: * Chỉ số VN – Index VN - Index là ký hiệu của chỉ số chứng khoán Việt Nam. VN - Index xây dựng căn cứ vào giá trị thị trường của tất cả các cổ phiếu được niêm yết. Với hệ thống chỉ số này, nhà đầu tư có thể đánh giá và phân tích thị trường một cách tổng quát. Chỉ số VN -Index so sánh giá trị thị trường hiện hành với giá trị thị trường cơ sở vào ngày gốc 28-7-2000, khi thị trường chứng khoán chính thức đi vào hoạt động. Giá trị thị trường cơ sở trong công thức tính chỉ số được điều chỉnh trong các trường hợp như niêm yết mới, huỷ niêm yết và các trường hợp có thay đổi về vốn niêm yết. Công thức tính chỉ số VN - Index: Chỉ số VN-Index=(Giá trị thị trường hiện hành/Giá trị thị trường cơ sở)x100 Hoặc Chỉ số VN-INDEX Trong đó: Pit: Giá thị trường hiện hành của cổ phiếu i Qit: Số lượng niêm yết hiện hành của cổ phiếu i Pi0: Giá thị trường vào ngày gốc của cổ phiếu i Qi0: Số lượng niêm yết vào ngày gốc của cổ phiếu i 2.3.Các giai đoạn phát triển của TTCK Việt Nam: 2.3.1 Giai đoạn 2008: Cùng trong xu thế chung của nền kinh tế, TTCK Việt Nam khép lại năm 2008 với sự sụt giảm mạnh. Nhìn lại thị trường sau 01 năm giao dịch, những điểm nổi bật của thị trường: Index giảm điểm, thị giá các loại cổ phiếu sụt giảm mạnh (nhiều mã CP rơi xuống dưới mệnh giá), tính thanh khoản kém, sự thoái vốn của khối ngoại, sự can thiệp của các cơ quan điều hành và sự ảm đạm trong tâm lý các NĐT.Tính từ đầu năm đến hết ngày 31/12/2008, TTCKVN trải qua 03 giai đoạn chính. Trong năm 2008, lượng cung tiếp tục được bổ sung đáng kể thông qua việc Chính phủ đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN, đặc biệt là các DN quy mô lớn, kinh doanh hiệu quả và việc bán bớt CP Nhà nước trong các DN đã CPH, chưa kể hàng loạt ngân hàng, Công ty chứng khoán, doanh nghiệp... phát hành trái phiếu, cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, dẫn đến tình trạng thị trường CK có nguy cơ thừa "hàng". Biểu đồ VN-Index năm 2008 - Nguồn: VNDS. • Giai đoạn 1: Từ tháng 01 tới tháng 06 - Thị trường giảm mạnh do tác động từ tác động của kinh tế vĩ mô Khởi đầu năm tại mức điểm 921,07, VNIndex đã mất đi gần 60% giá trị và trở thành một trong những thị trường giảm điểm mạnh nhất trên thế giới trong nửa đầu năm 2008. Các thông tin tác động xấu tới tâm lý nhà đầu tư trong giai đoạn này chủ yếu xuất phát từ nội tại nền kinh tế. Trong đó nổi bật là sự gia tăng lạm phát, chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN, sự leo dốc của giá xăng dầu và sức ép giải chấp từ phía ngân hàng đối với các khoản đầu tư vào TTCK. Nhằm mục đích ngăn chặn đà suy giảm của thị trường, các cơ quan điều hành bắt đầu đưa ra những chủ trương và biện pháp hỗ trợ: (1) UBCKNN thu hẹp biên độ giao dịch; (2) SCIC tham gia mua vào cổ phiếu; (3) NHTM được vận động ngừng giải chấp; (4) Tổ chức niêm yết được khuyến khích mua vào cổ phiếu quỹ. Tuy nhiên, phần lớn các biện pháp này chỉ phát huy hiệu quả trong ngắn hạn, và thị trường tiếp tục sụt giảm, cơn bão giải chấp cổ phiếu không ngừng tác động tới tâm lý các nhà đầu tư. Trong 103 phiên giao dịch của giai đoạn này, có tới 71 phiên VNIndex giảm điểm. Đỉnh điểm là chuỗi 34 phiên VN-Index giảm điểm liên tiếp từ giữa tháng 04 đến đầu tháng 06/2008. Sau 103 phiên giao dịch,VNIndex giảm mất 550,52 điểm- tương đương 59,77%. Bình quân trong mỗi phiên, toàn thị trường có 8,02 triệu CP&CCQ được chuyển nhượng, tương đương khoảng 482 tỷ đồng. Trong đợt suy giảm này, nhóm cổ phiếu chịu nhiều tác động nhiều nhất là nhóm cổ phiếu tài chính ngân hàng, công nghệ và công nghiệp (chủ yếu là các doanh nghiệp BĐS). Trong lịch sử hoạt động của TTCK, chưa có năm nào UBCKNN phải can thiệp vào thị trường bằng các biện pháp mạnh tay nhiều như năm 2008. Tổng cộng trong năm 2008, UBCKNN đã có 04 lần thay đổi biên độ dao động giá trên cả 2 sàn chứng khoán. Nhằm hỗ trợ thêm cho sức cầu trên thị trường, ngăn đà suy giảm mạnh của các chỉ số chứng khoán, ngày 04/03/2008, Chính phủ đã đưa ra nhóm 19 giải pháp ứng cứu thị trường: Cho phép SCIC mua vào cổ phiếu trên thị trường, kêu gọi và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp niêm yết mua vào cổ phiếu quỹ.... Sự tăng trưởng nóng trong năm 2007, đặc biệt vào những tháng cuối năm đã đưa đến những dấu hiệu bất ổn về kinh tế vĩ mô. Chỉ số tiêu dùng băt đầu gia tăng với mức trung bình 2,07%/tháng trong 02 cuối năm 2007. Tiếp nối xu thế này, trong quý I/ 2008, chỉ số CPI tiếp tục gia tăng với tốc độ bình quân 3,06%/tháng và đạt đỉnh vào tháng 05/200822 với mức tăng 3,91%. Trong chu kỳ tăng giá nửa đầu năm 2008, tại đa số thời điểm, lương thực được coi là yếu tố tác động chủ yếu đến chỉ số giá. Tính đến tháng 06, giá lương thực đã tăng 57,22% so với tháng 12/2007. Chịu ảnh hưởng trực tiếp của tỷ lệ lạm phát tăng cao trong nước và sự biến động mạnh của giá cả hàng hóa trên thế giới, thị trường hàng hóa và thị trường tiền tệ Việt Nam tiếp tục có những biến động mạnh. Trên thị trường hàng hóa, xăng dầu - loại hàng hóa cơ bản thuộc sự kiểm soát của Chính phủ - đã được điều chỉnh mạnh. Trên thị trường tiền tệ, lãi suất từ NHNN và NHTM liên tiếp xác định các mặt bằng mới. Chịu tác động sức ép từ lạm phát, l ãi suất từ các NHTM tăng mạnh trong cuối quý II, dao động từ 16 - 18% đối với huy động tiền gửi và 20-21% đối với các khoản vay. Đặc biệt các sản phẩm huy động vốn với kỳ hạn ngắn, lãi suất cao là tiêu điểm của hệ thống NH trong giai đoạn này. Sự căng thẳng về thanh khoản và sự xáo trộn về dòng chảy của tiền gửi huy động là nỗi lo của các NHTM trong giai đoạn này. Thâm hụt thương mại cao nhất vào trong năm tháng đầu năm với mức trung bình là khoảng 2,6 tỷ USD/tháng. Trước thực trạng này chính phủ đã đề ra 8 nhóm giải pháp vào tháng 3/2008 với mục tiêu kiềm chế lạm phát và thâm hụt thương mại. Các chính sách chủ yếu được thực hiện thông qua việc sử dụng công cụ điều hành lãi suất cơ bản và thắt chặt đầu tư công để hạn chế nguồn cung tiền trên thị trường. • Giai đoạn 2: Tháng 06 tới đầu tháng 09 - Phục hồi trong ngắn hạn : Nhờ vai trò dẫn dắt của một số cổ phiếu blue -chip như STB, FPT, DPM…và đặc biệt là SSI với sức cầu hỗ trợ từ đối tác nước ngoài, cả hai sàn chứng khoán đã có được những phiên tăng điểm mạnh trong giai đoạn này. VNIndex và Hastc-Index liên tiếp vượt qua các ngưỡng cản tâm lý quan trọng và thường xuyên có đư ợc những chuỗi tăng điểm kéo dài. Đây cũng là giai đoạn thị trư ờng hoạt động sôi động nhất. Sức cầu mạnh, kéo theo khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch thường xuyên ở mức cao. VNIndex tăng được 168,55 điểm, tương đương 45,52%. Khối lượng giao dịch bình quân đạt 16,9 triệu CP&CCQ, tương đương 599,18 tỷ đồng/phiên. Trong giai đoạn này, nhóm cổ phiếu được ưa thích nhất là nhóm cổ phiếu dầu khí (tăng 80,33%), nguyên vật liệu v à công nghệ (tăng 89,78%). Các đại diện tiêu biểu cho nhóm cổ phiếu này bao gồm: PVS, PVD, PTC, HPG, FPT… • Giai đoạn 3: Từ tháng 09 tới tháng 12 - Thị trường rơi trở lại chu kỳ giảm do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu Đây là thời kỳ VNIndex rơi trở lại xu hướng giảm, thậm chí đã phá vỡ đáy thiết lập được trong giai đoạn đầu của năm 2008. Tổng kết cả giai đoạn này, VNIndex mất 223,48 điểm, tương đương 41,45%. Khối lượng giao dịch trung bình đạt 15,82 triệu CP&CCQ, tương đương 497,58 tỷ đồng/phiên. Nguyên nhân tác động lớn nhất tới TTCK trong giai đoạn này chính là sự lan tỏa mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính trên toàn thế giới. Hòa cùng xu thế giảm điểm của TTCK các nước, 02 chỉ số chứng khoán tại sàn HoSE và HaSTC liên tiếp giảm điểm. Trong 86 phiên giao dịch tại HoSE, 49 phiên VNIndex mất điểm. Đáy mới thiết lập trong giai đoạn này là 286,85 điểm vào ngày 10/12/2008. Cùng với nỗ lực giải cứu nền kinh tế của Chính phủ và động thái từ NHNN, xen lẫn giữa những phiên giảm điểm , TTCK Việt Nam vẫn có những phiên phục hồi mạnh. Tuy nhiên, các “con sóng” trên thị trường thường rất ngắn và không ổn định. Kết thúc giai đoạn này, VNIndex giảm mất 239,52 điểm, tương đương 43,15%. Tốc độ giảm mạnh nhất trong giai đoạn này thuộc nhóm cổ phiếu các ngành nguyên vật liệu, công nghiệp, tài chính và công nghệ. Nguyên nhân của sự suy giảm trong giai đoạn này được nhận định một phần do sự tác động của xu thế chung thị trường, ngoài ra, cũng là hệ quả của việc tăng khá chóng mặt của các các cổ phiếu n ày trong giai đoạn trước đó. Một trong những đề tài nóng hổi và được báo giới chú ý trong những tháng cuối năm là phong trào trả cổ tức bằng tiền mặt, với tỷ lệ khá cao của các công ty niêm yết. Nguồn vốn FDI vào Việt Nam chủ yếu thông qua các quỹ đầu tư. Tuy nhiên, kể từ cuối tháng 08/2008 cùng với sự sụt giảm của TTCK thế giới nói chung, TTCK Việt Nam cũng giảm mạnh. Tính đến tháng 12/2008, những dấu hiệu về khả năng nhà đ ầu tư nước ngoài rút vốn ra khỏi thị trường chứng khoán cũng bắt đầu xuất hiện, thể hiện qua việc bán ròng của khối ngoại trong những tháng cuối năm. Ngoài ra, mặc dù lạm phát được kiềm chế nhưng lại có sự lo ngại về giảm phát do chỉ số CPI tăng trưởng âm trong những tháng cuối năm. Trong quý cuối năm, CPI đã giảm 0,23% trong tháng 10 và tăng lên thành 0,81% trong tháng 12 (so từng tháng). Tính cả năm 2008 , tỷ lệ lạm phát là 19,89% (so với tháng 12/2007) và xấp xỉ 23% (so với bình quân 2007) Giải pháp tài chính kịp thời trong những tháng cuối năm 2008 được thực hiện thông qua việc điều chỉnh giảm lãi su ất cơ bản nhằm kíchcầu sản xuất tiêu dùng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận vay vốn một cách dễ dàng hơn, đồng thời giảm áp lực tín dụng cho các ngân hàng thương mại. 2.3.2. Từ năm 2009 đến năm 2010 Giai đoạn phục hồi và phát triển Trên sàn HoSE, chỉ số VN-Index đã tăng 57% trong năm 2009, từ mức 315.62 điểm vào ngày 31/12/08 lên mức 494.77 điểm vào ngày 31/12/09. So với mức đáy 235.5 điểm được thiết lập ngày 24/02, VN-Index đã tăng 110%. Trong năm 2009, TTCK Việt Nam đã tăng trưởng mạnh mẽ nhờ các chính sách kích thích kinh tế của Chính phủ, đặc biệt là chính sách hỗ trợ lãi suất, miễn giảm và hoãn thuế thu nhập. Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao trong năm 2009 một mặt góp phần thúc đẩy tăng trưởng nhưng cũng góp phần giúp TTCK tăng mạnh trở lại. Ngoài ra, lạm phát giảm bớt trong năm này cũng tạo thêm lòng tin về ổn định kinh tế vĩ mô. Thanh khoản của thị trường cũng dần được cải thiện. Khối lượng cổ phiếu khớp lệnh từ mức 7.8 triệu đơn vị/phiên vào 2 tháng đầu năm đã tăng lên mức 17.58 triệu đơn vị/phiên vào tháng 3; 35.86 triệu đơn vị vào tháng 4 và 51.75 triệu đơn vị/phiên vào tháng 6. Đỉnh điểm của tính thanh khoản của thị trường rơi vào tháng 10 khi khối lượng khớp lệnh phiên cao nhất lên tới 133.48 triệu đơn vị. Tính trung bình trong tháng 10, khối lượng giao dịch lên tới 78.3 triệu đơn vị. Tính thanh khoản của thị trường tăng mạnh không chỉ do lượng cổ phiếu niêm yết tăng mà còn do dòng tiền đã đổ vào thị trường một cách mạnh mẽ trong giai đoạn này. Sự thăng trầm của TTCK trong năm 2009 có quan hệ khá chặt chẽ với những chính sách tiền tệ và dòng tiền đổ vào thị trường. Kể từ lúc phục hồi từ mức thấp nhất vào tháng 2, thị trường đã trải qua 2 lần điều chỉnh mạnh. Sự phục hồi của thị trường từ mức 235.5 lên 512 đểm vào tháng 6 gắn liền với cung tiền trong nền kinh tế tăng nhanh do các chính sách kích cầu của chính phủ. Dư nợ từ gói hỗ trợ lãi suất tăng lên nhanh chóng, người tiêu dùng được khuyến khích vay tiền. Từ mức đỉnh 512 điểm vào tháng 6, VN-Index giảm xuống còn 412.88 điểm vào 20/7. Sự sút giảm của đợt này trùng khớp với sự kiện NHNN đưa ra những tuyên bố mạnh mẽ trong việc kiểm soát tăng trưởng tín dụng ở mức 25-27%. Nhiều NHTM vượt trần tăng trưởng tín dụng bị “tuýt còi”. Cơn sóng phục hồi thứ 2 của thị trường từ mức 421.88 lên mức 624.1 điểm vào ngày 20/10, cũng xuất phát từ việc tăng trưởng tín dụng quá mức. Vào cuối quý 3 mức tăng trưởng tín dụng đã lên tới trên 32%. Thêm vào đó, các ngân hàng và công ty chứng khoán cũng khuyến khích nhà đầu tư thực hiện các nghiệp vụ repo và thế chấp chứng khoán. Đòn bẩy tài chính được tận dụng một cách tối đa đã đẩy thị trường lên cao. Thanh khoản, của thị trường cũng tăng lên mạnh mẽ. Từ mức đỉnh cao thứ 2 ở mức 624.1 vào này 20/10, thị trường sau đó giảm xuống mức 434.87 vào ngày 12/11 (gần bằng mức đáy hồi tháng 7). Đợt giảm này cũng bằt nguồn từ những hoạt động siết chặt tín dụng của NHNN. NHNN đưa ra một loạt các biện pháp hạn chế cho vay đầu tư chứng khoán, kiểm soát chặt đối tượng cho vay tiêu dùng. Ngoài ra, NHNN cũng hạn chế cung tiền qua thị trường mở. Hình 1.1. VN-Index năm 2009 Năm 2010 Vn Index đã giảm 11.93 điểm, tương đương 2.3% . Trong những phiên giao dịch của tháng 6, dù thị trường vẫn đang giao động trong biên độ hẹp, nhưng nỗi lo của các nhà đầu tư trước diễn biến khủng hoảng nợ Châu âu hay những biến động trên thị trường chứng khoán thế giới… đang tạm lắng. Đứng trước nguy cơ lạm phát quay trở lại trong năm 2010, chính sách thắt chặt tín dụng được áp dụng trong những tháng cuối năm 2009. Dòng tiền hạn chế bơm vào nền kinh tế nói chung và thị tường chứng khóan nói riêng, Vn Index điều chỉnh giảm mạnh vào cuối năm 2009. Tuy nhiên, với nổ lực kèm chế lạm phát đồng thời duy trì đà tăng trưởng kinh tế sáu tháng đầu năm 2010, chính sách tiền tệ dần được nới lỏng. Điều này là một trong những nguyên nhân chính đã góp phần tạo nên đợt hồi phục trong giai đoạn vừa qua, từ mức 477 điểm lên 549,51 điểm của Vn Index. Năm 2010 do áp lực lạm phát và lãi suất tăng cao, nhập siêu cao, trong khi đó tăng trưởng tín dụng, cung tiền giảm so với năm 2009 nên chỉ số VNIndex đã giảm 2,04%. Mặc dù vậy, TTCK Việt Nam tiếp tục đạt được những kết quả rất tích cực trên các mặt quan trọng: giá trị vốn hóa đạt 39% GDP, tăng 17,1% so với năm2009; huy động vốn thực tế đạt 98,7 nghìn tỷ đồng, gấp 3 lần so với năm 2009; giá trị giao dịch bình quân mỗi phiên đạt 2.480 tỷ đồng; dòng vốn nước ngoài vào thuần trên 1 tỷ USD; số lượng tài khoản các nhà đầu tư tăng 38%... 2.3.3. Giai đoạn năm 2011 TTCK năm 2011 có nhiều cơ hội và cũng có nhiều thách thức, yêu cầu các nhà đầu tư phải vô cùng tỉnh táo khi quyết định đầu tư vào một cổ phiếu nào đó, và kiên quyết không đầu tư vào một cổ phiếu mà mình chưa có nhiều thông tin về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Cty đó. Hãy tự tin và luôn tuân thủ lời khuyên: “Hãy tham lam khi người ta hoảng sợ và hãy hoảng sợ khi người ta tham lam”. Trong những tháng đầu năm 2011, TTCK có xu hướng sụt giảm. Cho đến hết tháng 4, chỉ số VNIndex giảm 4,58 điểm, tương đương 0,9% nhưng riêng tháng 5 có sự sụt giảm mạnh, giảm 58,71 điểm tương đương 12,2% do lo ngại về vấn đề giải chấp nhằm đáp ứng yêu cầu về giảm dư nợ tín dụng phi sản xuất của Ngân hàng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan