1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRẦN ANH NGỌC
DẠY - HỌC PHẦN VĂN HỌC CÁCH MẠNG 1945-1975
TRONG CÁC TRƯỜNG THPT TẠI QUẬN 3 TP HỒ CHÍ
MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn Văn và tiếng Việt
Mã số: 60.14.01.11
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS ĐINH TRÍ DŨNG
Vinh - 2014
2
BẢNG QUY ƯỚC VIẾT TẮT
STT
Viết tắt
Viết đầy đủ
1
CNXH
2
GV
Giáo viên
3
HS
Học sinh
4
PPDH
Phương pháp dạy học
5
TPVH
Tác phẩm văn học
6
THPT
Trung học phổ thông
7
VB
8
VHCM
Chủ nghĩa xã hội
Văn bản
Văn học cách mạng
3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU………….……………………………….…………………………..5
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
Lí do chọn đề tài………………………………………………………….5
Lịch sử vấn đề………………………………………………………….…6
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu………………………………….……..9
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………….…….9
Phương pháp nghiên cứu……………………………………………….10
Đóng góp của luận văn…………………………………………………10
Cấu trúc của luận văn……………………………………………………12
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC PHẦN VĂN HỌC CÁCH MẠNG 1945-1975 Ở
TRƯỜNG THPT………………………………………………………………13
1.1. Cơ sở lý luận………………………………………………………………13
1.1.1. Một số khái niệm liên quan………………………………….…..13
1.1.2. Những định hướng cơ bản của việc đổi mới dạy học văn hiện
nay………………………………………..……………………….……19
1.2. Cơ sở thực tiễn…………………………………………………………...22
1.2.1. Chương trình phần văn học cách mạng 1945-1975 ở trường
THPT………………………………………………………………….…22
1.2.2. Những thuận lợi và khó khăn trong dạy học phần văn học cách
mạng……………………………………………………………….….…29
1.2.3. Thực trạng dạy học phần văn học cách mạng trên địa bàn Quận 3,
TP Hồ Chí Minh…………………………………….…31
Chương 2. ĐỊNH HƯỚNG CHUNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY
HỌC PHẦN VĂN HỌC CÁCH MẠNG 1945-1975 Ở TRƯỜNG THPT……39
4
2.1. Định hướng chung đối với phương pháp dạy học phần văn học cách
mạng…………………………………………………………………………..39
2.1.1. Bám sát đặc trưng thẩm mỹ của văn học cách mạng……….……..39
2.1.2. Nhận ra tính thống nhất và tính đa dạng của phong cách các nhà văn
cách mạng………………………………………………………………………45
2.1.3. Bám sát đặc trưng thể loại của từng tác phẩm văn học cách mạng...53
2.2. Những nội dung cần dạy học ở phần văn học cách mạng 1945-1975 ở
trường THPT…………………………………………………………………58
2.2.1. Tri thức chung về bộ phận văn học cách mạn………………………58
2.2.2. Tri thức về các tác giả: Tố Hữu, Nguyễn Trung Thành, Nguyễn
Thi…………………………………………………………………………….62
2.2.3. Tri thức về thể loại: truyện ngắn, thơ trữ tình……………………..66
2.2.4. Tri thức về tác phẩm………………………………………………..74
2.3. Phương pháp cần thiết để dạy học phần văn học cách mạng 19451975…………………..……………………………………………………....83
2.3.1. Phương pháp đọc diễn cảm………………………………………...84
2.3.2. Phương pháp gợi mở……………………………………………….85
2.3.3. Dạy học nêu vấn đề…………………………………………………88
2.3.4. Phương pháp đọc – hiểu……………………………………………89
Chương 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM…………………………………….. 93
5
3.1. Mục đích, yêu cầu thực nghiệm………………………………………… 93
3.2. Địa bàn thực nghiệm: Một số trường THPT Quận 3, TP Hồ Chí Minh…93
3.3. Kế hoạch thực nghiệm…………………………………………………… 93
3.4. Thiết kế giáo án thực nghiệm……………………………………………..94
3.5. Thuyết minh giáo án thực nghiệm ……………………………………….126
3.6. Đánh giá kết quả thực nghiệm ………………………………………….128
3.6.1. Biện pháp đánh giá…………………………………………….….128
3.6.2. Hướng đánh giá……………………………………………..……..128
3.6.3. Kết quả thực nghiệm và nhận xét, đánh giá.……………….…..…129
KẾT LUẬN………………………………….…………………………….. 135
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………….….138
PHỤ LỤC………………………………………………………………..…..142
6
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin chân thành cám ơn Trường Đại học Vinh, Quý thầy
cô ở khoa Sư phạm Ngữ văn trường Đại học Vinh và trường Đại Sài Gòn,
đã giảng dạy chúng tôi trong suốt hai năm học cao học tại trường; Ban giám
hiệu và quý thầy cô ở tổ Văn Trường THPT Nguyễn Thị Diệu, THPT Lê
Qúy Đôn, THPT Nguyễn Thị Minh Khai, đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
trong quá trình thực nghiệm.
Xin cám ơn PGS.TS. Đinh Trí Dũng, người đã hướng dẫn tôi thực hiện
đề tài này, người đã luôn hỗ trợ tôi về mặt kiến thức cũng như phương pháp
tiếp cận, để tôi có thể hoàn thành luận văn.
Tôi xin cảm ơn cô Tô Lê Ngọc Linh, tổ Văn trường THPT Lê Qúy Đôn,
người đã trực tiếp ở bên hướng dẫn tôi tận tình suốt thời gian thực nghiệm.
Xin cám ơn gia đình đã tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, cho tôi được nói lời tri ân tất cả.
Tác giả
Trần Anh Ngọc
7
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chúng tôi chọn đề tài “Dạy - học phần văn học cách mạng 1945-1975 trong
nhà trường THPT tại quận 3 TP HCM” bởi những lí do sau:
1.1.Trong những năm gần đây, học sinh các cấp, đặc biệt là học sinh cấp
trung học phổ thông đang có thái độ lơ là, xem nhẹ môn Văn, coi môn Văn chỉ
như môn phụ, học cho có, cho qua, còn giành phần lớn thời gian để học các môn
khác để thi đại học. Cơ chế thị trường, và nhu cầu việc làm của xã hội cũng tác
động nhiều đến tâm lý các em, vì thế môn Văn ngày càng yếu thế hơn so với các
môn học khác.
1.2. Văn học cách mạng (VHCM) 1945 – 1975 là giai đoạn văn học quan
trọng trong nền văn học hiện đại của nước nhà, cũng là phần quan trọng trong
chương trình Ngữ văn bậc trung học phổ thông (THPT). Nhưng hiện nay, việc
đánh giá VHCM giai đoạn này không phải không tồn tại những ý kiến khác
nhau. Thậm chí có người cho rằng đây là “nền văn học mậu dịch”, “văn học
bao cấp” không có mấy giá trị nghệ thuật. Vì thế, cần phải tiếp tục khẳng định
những giá trị đích thực, giá trị nhân văn của văn học cách mạng giai đoạn 1945
-1975, điều này càng quan trọng đối với thế hệ trẻ trong nhà trường THPT.
1.3. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng việc dạy học VHCM nói chung, văn
học cách mạng giai đoạn 1945-1975 nói riêng hiện nay đang gặp những khó
khăn. Thời gian chưa lùi bao xa, nhưng không khí xã hội sôi động của thời kỳ
một dân tộc “xẻ dọc Trường Sơn” ra trận, vẻ đẹp sử thi cao cả của hình tượng
nhân vật, giọng điệu hào hùng của văn chương... một thời không phải là dễ đến
với các em trong bối cảnh xã hội phức tạp hiện nay. Với những lý do trên, chúng
8
tôi chọn đề tài: Dạy - học phần văn học cách mạng 1945-1975 trong trường
THPT tại quận 3 TP HCM, nhằm giúp phần nào tháo gỡ những khó khăn, đề
xuất những giải pháp có tính khả thi để nâng cao chất lượng dạy học phần văn
học cách mạng giai đoạn 1945-1975 trong nhà trường THPT.
2. Lịch sử vấn đề
Sau đại thắng mùa xuân 1975, âm hưởng hai cuộc chiến thắng lợi của
dân tộc còn vang vọng. Trước thời kì Đổi mới, nhiều nhà nghiên cứu đã có
những công trình mang tính chất tổng kết đóng góp của văn học cách mạng
Việt Nam, ta có thể kể đến: Cuộc sống và tiếng nói nghệ thuật, Tiểu thuyết
Việt Nam hiện đại của Phan Cự Đệ, Văn xuôi Việt Nam trên con đường hiện
thực xã hội chủ nghĩa của Phong Lê… Đến khi văn học chuyển sang thời bình
với đúng nghĩa của nó, tinh thần dân chủ được đặt ra, nhiều tác giả đã hướng
đến việc nhìn nhận văn học cách mạng từ nhiều góc độ khác nhau, từ ưu điểm
đến hạn chế. Hướng vào đánh giá văn học chiến tranh cách mạng trong cái
nhìn tương đối toàn diện có một số công trình đáng chú ý như: Mấy vấn
đề lý luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi mới (1991), Chặng đường mới của
văn học Việt Nam (1998) do Hà Minh Đức chủ biên, 50 năm văn học Việt Nam
sau Cách mạng tháng Tám (1996) do Đại học quốc gia Hà Nội, Trường viết
văn Nguyễn Du và Tạp chí Văn nghệ quân đội hợp tác xuất bản. Đặc biệt với
50 năm văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, cuốn sách đã tập hợp
được một lực lượng lớn các tác giả tham gia bàn luận, có giới nghiên cứu, có
cả những nhà văn mặc áo lính một thời. Ngoài ra, cũng có thể kể đến các công
trình có đề cập đến đặc điểm của văn học cách mạng hoặc đi vào một tác giả cụ
thể như: Trần Đình Sử, Thi pháp thơ Tố Hữu (NXB TPM, Hà Nội, 1987);
Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên), Văn học Việt nam 1945-1975, 2 tập, NXB Giáo
dục, Hà Nội, 1988,1990; Hoàng Trung Thông (chủ biên), Văn học Việt Nam
9
chống Mỹ cứu nước, NXB KHXH, Hà Nội, 1979...Vào đầu thế kỉ XXI, với
công trình Nhìn lại Văn học Việt Nam thế kỉ XX (2001) do Hà Minh Đức chủ
biên, người tiếp cận văn học của thế kỉ mới có dịp nhìn nhận văn học hiện
đại Việt Nam trong bức tranh toàn cảnh, trong nhiệm vụ hiện đại hóa văn
học, gìn giữ và phát huy truyền thống và cả trong nhiệm vụ chính trị của nó.
Vài năm sau, khoảng năm 2003, hai công trình đáng chú ý là Văn học Việt
Nam trong thời đại mới của Nguyễn Văn Long và Văn học Việt Nam hiện
đại - Lịch sử và lý luận của Phong Lê ra đời, đã bổ sung thêm những cách
nhìn về văn học hiện đại Việt Nam, trong đó có văn học cách mạng.
Nhìn chung, các ý kiến về đặc điểm của văn học cách mạng là khá
nhất quán. Các nhà nghiên cứu đã ca ngợi văn học cách mạng ở nội
dung yêu nước, tinh thần dân tộc, chủ nghĩa anh hùng, ở giá trị tuyên
truyền cỗ vũ….Về nghệ thuật, các đặc điểm của văn học cách mạng
cũng được chỉ ra: vẻ đẹp sử thi của nhân vật, giọng điệu, hình ảnh, ngôn
từ đậm chất quần chúng, đậm chất sống…Các bài viết cũng mạnh dạn
chỉ ra những hạn chế của văn học cách mạng: sự hy sinh ít nhiều những
tiêu chí nghệ thuật, sự giới hạn phạm vi hiện thực ở cái hào hùng, cái
đẹp, cái đáng ngợi ca, sự từ chối những đề tài “ngoại vi” như tình yêu
cá nhân, nỗi buồn, sự thất bại…
Với một tầm quan trọng là vậy, Văn học cách mạng nói chung, văn học
cách mạng 1945-1975 nói riêng đã được đưa vào giảng dạy ở nhà trường THPT.
Về văn học cách mạng giai đoạn 1945-1975, trong Sách giáo khoa Văn lớp 12
(sách chỉnh lý hợp nhất năm 2000), GS. Nguyễn Đăng Mạnh đã có bài viết khái
quát sâu sắc, có thể xem là định hướng cho việc dạy học phần văn học này. GS
Nguyễn Đăng Mạnh nêu ra 3 đặc điểm nổi bật của văn học giai đoạn này là: 1.
10
Một nền văn học thống nhất chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện
nhiệm vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu; 2. Một nền văn học hướng về đại chúng,
trước hết là công nông binh; 3. Khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn. Bài
viết cũng đánh giá nét lớn thành tựu của văn học Việt Nam từ cách mạng tháng
8/1945 đến 1975. Khi chương trình phân ban thực hiện trên cả nước, cả hai bộ
sách Ngữ văn 12 (ban cơ bản) và Ngữ văn 12 (ban nâng cao) đều có những bài
khái quát chung về văn học Việt Nam từ cách mạng tháng 8/1945 đến hết thế kỷ
XX.
Phương pháp, cách thức dạy học các bài cụ thể của văn học cách mạng
1945-1975 có thể tìm thấy trong các tài liệu hướng dẫn dạy học, trong các kỷ
yếu hội thảo đổi mới dạy học Ngữ văn, trong Tạp chí Văn học và tuổi trẻ. Theo
chúng tôi, các công trình đáng chú ý nhất là:
- Vẻ đẹp văn học cách mạng, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2010.
- Tuyển tập 15 năm tạp chí văn học và tuổi trẻ, tập 2 (đi tìm vẻ đẹp văn
chương), Hà Nội, 2008.
- Tác phẩm văn học trong nhà trường – Những vấn đề trao đổi (NXB Giáo
dục Việt Nam, Hà Nội, 2012.
Các cuốn sách trên đã đưa lại những gợi ý bổ ích cho người giáo viên khi
dạy những bài văn, bài thơ cụ thể của Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Quang Dũng,
Nguyên Ngọc, Nguyễn Thi...
Tuy đã có những tài liệu cần thiết, nhưng việc dạy học phần văn học cách
mạng nói chung, dạy học văn học cách mạng 1945-1975 nói riêng vẫn cần được
nghiên cứu tìm hiểu thêm. Trong bối cảnh hôm nay, khi mặt trái của nền kinh tế
thị trường đang gây những tác hại không nhỏ đối với đạo đức, lối sống của nhiều
11
người, trong đó có học sinh phổ thông, việc khẳng định những giá trị của nền
văn học cách mạng lại càng là điều cần thiết. Vì vậy, chúng tôi viết luận văn này
nhằm tìm ra một hướng đi tích cực trong việc hiện thực hóa cách dạy, học ở một
địa bàn cụ thể để làm sao văn học cách mạng để lại nhiều ấn tượng tốt đối với
các em, kích thích được niềm yêu văn chương, để các em chủ động tìm hiểu về
một giai đoạn văn học đặc biệt, và nó càng đặc biệt hơn trong tình hình đất nước
đang có nhiều vấn đề chính trị, an ninh căng thẳng như hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Dạy - học phần văn học cách mạng
1945-1975 trong trường THPT tại quận 3 TPHCM.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu cở sở lý luận và thực tiễn của việc dạy các tác phẩm VHCM
1945 -1975 được đưa vào chương trình ngữ văn 12, những nội dung, biện pháp
dạy học giúp học sinh tiếp thu hiệu quả nhất phần văn học này.
Các tư liệu khảo sát là chương trình và sách giáo khoa 12 Ngữ văn (ban cơ
bản), thực trạng dạy học phần văn học cách mạng 1945-1975 ở địa bàn Quận 3,
TP Hồ Chí Minh, và được khảo sát và thực nghiệm tại 3 trường: Trường THPT
Lê Qúy Đôn, Trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai, Trường THPT Nguyễn Thị
Diệu
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Góp phần tháo gỡ những khó khăn trong dạy học phần văn học cách mạng
giai đoạn 1945-1975, giúp học sinh thêm hiểu và yêu thích phần văn học cách
mạng nói chúng, văn học cách mạng 1945-1975 nói riêng.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
12
- Tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nâng cao chất lượng dạy học
phần văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945-1975 trong nhà trường
THPT.
- Nghiên cứu, xác lập định hướng, nội dung, phương pháp dạy học phần
văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945-1975 trong nhà trường THPT.
- Thực nghiệm sư phạm.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết: phân tích, tổng hợp, phân loại,
so sánh.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: điều tra, quan sát, thực nghiệm
sư phạm.
Cụ thể:
- Phương pháp phân tích tổng hợp
Được dùng để phân tích các cứ liệu, tư liệu có trong thực tế để xây dựng
luận điểm cho luận văn, phân tích các số liệu thu thập được để đưa ra những kết
luận cần thiết khi nghiên cứu đề tài. Mặt khác, việc nắm bắt thực tiễn dạy học
tác phẩm văn chương cũng có tác dụng bổ sung và làm phong phú thêm những
đổi mới phương pháp dạy học văn đang đặt ra cấp thiết, nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo của nhà trường
- Phương pháp so sánh đối chiếu
Được sử dụng để so sánh các luận điểm của tác giả này với tác giả khác trên
cùng một vấn đề, so sánh cách tổ chức giờ học của giáo viên này với giáo viên
khác (khi thiết kế giáo án và dự giờ), so sánh giữa mục tiêu cần đạt với hiệu quả
giờ học… Từ đó nhận xét về những vấn đề cần làm khi dạy phần văn học cách
mạng 1945-1975.
13
- Phương pháp quan sát
Thông qua việc dạy thực nghiệm, tiếp xúc, trao đổi, chúng tôi có cơ
hội nắm bắt những phản ứng và năng lực cảm thụ, hiểu biết tác phẩm của HS
trong quá trình học tác phẩm văn chương. Đó là sự thu thập thông tin từ việc tổ
chức hướng dẫn của GV và cách tham gia xây dựng bài học của HS. Trên cơ sở
đó, có thể nắm bắt được những thuận lợi cũng như khó khăn của việc vận dụng
đặc trưng loại thể vào phân tích tác phẩm cụ thể.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế
- Dự giờ trên lớp một số giáo viên ở ba trường đã nêu trên.
- Sử dụng phiếu phỏng vấn điều tra giáo viên và học sinh để nắm thông tin
về: những khó khăn, thuận lợi khi dạy và học văn học cách mạng; mức độ hứng
thú đối với từng thể loại; những đề xuất về SGK, chương trình, thời lượng,…
- Khảo sát SGK, SGV, STK; các bài viết của một số nhà giáo, nhà nghiên
cứu có uy tín trên các tạp chí “Văn học và tuổi trẻ”, “Giáo dục và thời đại” và
các báo có trang văn học.
6. Đóng góp của Luận văn
Lựa chọn đề tài: Dạy - học phần văn học cách mạng 1945-1975 trong
trường THPT tại quận 3, thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi muốn đưa ra những
thao tác chuẩn bị cụ thể, cần thiết cho một giờ dạy văn bản VHCM nhằm giúp
người giáo viên có thêm một sự lựa chọn để thay đổi phương pháp giảng dạy
phù hợp với yêu cầu đổi mới PPDH hiện nay.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nâng cao chất lượng dạy học
văn học cách mạng 1945-1975 trong nhà trường THPT
14
Chương 2. Định hướng chung, nội dung và phương pháp dạy học phần
VHCM 1945-1975 ở trường THPT
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
15
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC PHẦN VĂN HỌC CÁCH MẠNG
1945-1975 Ở TRƯỜNG THPT
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1.1. Phương pháp dạy học
a. Phương pháp dạy học:
- Phương pháp dạy học (PPDH), theo M. Kachurin là “những cách thức
hoạt động của giáo viên và học sinh nhằm đạt tới việc nắm vững kiến thức, kĩ
năng và thói quen, hình thành thế giới quan của học sinh, phát triển năng khiếu
cho các em”. Trong cơ chế dạy học, phương pháp dạy học là nội dung cơ bản, là
yếu tố động nhất. Vì vậy nó có khả năng điều chỉnh kịp thời đối với sự biến đổi
của đối tượng dạy học và tình huống dạy học, nhưng vẫn giữ được định hướng
và mục tiêu dạy học. Đặt trong mối quan hệ với các yếu tố như mục đích, nội
dung, phương pháp học, kết quả dạy học, thì PPDH là một yếu tố được xem là
quan trọng nhất. Nó thể hiện sự thống nhất biện chứng trong khi phối hợp các
hoạt động dạy của GV và hoạt động học của HS nhằm đạt được mục tiêu, nội
dung bài học trong những điều kiện học tập cụ thể.
Những năm gần đây, để thực thi việc đổi mới PPDH, các tài liệu bồi dưỡng
giáo viên tập trung nói đến phương pháp dạy học theo hướng lấy học sinh làm
trung tâm. Tinh thần của PPDH mới này là: tôn trọng HS, tránh áp đặt, linh
hoạt, chủ động và sáng tạo. HS tự mình tiếp xúc với văn bản, tự mình suy nghĩ
16
khám phá ra những đặc điểm nổi bật của văn bản ấy. Công việc của người thầy
rất quan trọng và cũng rất khác trước ở chỗ: phải biết tổ chức hệ thống công việc
để hướng dẫn HS tự tìm hiểu, tự khám phá, tránh làm thay, hiểu thay và nói thay.
Phương pháp mới này đặt học sinh vào vị trí trung tâm của giờ học, mục đích
cao nhất là làm sao để chủ thể học sinh, dưới sự hướng dẫn của thầy, cảm nhận
khám phá, chiếm lĩnh tri thức. Từ đó tự phát triển toàn diện về trí tuệ, tâm hồn,
nhân cách và năng lực. Như vậy so với PPDH truyền thống - lấy GV làm trung
tâm, PPDH mới đổi khác về mục đích, về con đường đạt đến mục đích, do đó
cũng đổi khác về cơ chế hoạt động dạy học cùng hàng loạt vấn đề về môi trường
dạy học, tiến trình tổ chức giờ dạy và cách thức đánh giá.
Cách dạy học và thuyết trình truyền thống lấy GV làm trung tâm là PPDH
thường gặp nhất ở các trường học trên khắp thế giới. Cách dạy học này có thể
rất hiệu quả, đặc biệt đối với:
- Việc chia sẻ thông tin không dễ dàng tìm thấy ở nơi khác
- Việc trình bày thông tin một cách nhanh chóng
- Việc tạo ra sự quan tâm vào thông tin
- Việc dạy học sinh tốt nhất bằng cách nghe
Tuy vậy phương pháp này đã bộc lộ một số hạn chế, cụ thể:
- Không phải học sinh nào cũng học tốt bằng cách nghe
- Thường khó duy trì lâu sự chú ý của học sinh
- Phương pháp này có khuynh hướng ít hoặc không đòi hỏi tư duy
phê phán
- Phương pháp này dựa trên giả định là tất cả học sinh đều có một
phong cách học giống nhau.
Mặc dù có tồn tại những khác biệt giữa hai phương pháp nhưng cũng cần
lưu ý đến vai trò của từng phương pháp trong tiến trình tổ chức dạy học. Sự cực
17
đoan trong phê phán phương pháp cũ và đề cao phương pháp mới trong khi điều
kiện dạy học, môi trường học tập, nội dung chương trình, cách thức đánh giá,…
chưa hoàn chỉnh, tất yếu sẽ dẫn đến sự đổi mới giả tạo hoặc khiên cưỡng. Chẳng
hạn ở mục môi trường lớp học, sự ồn ào trong lúc làm việc nhóm ít nhiều ảnh
hưởng đến lớp học xung quanh, bàn ghế trong nhà trường phổ thông hiện nay
được sắp xếp theo hướng để ngồi nghe và ghi chép hơn là để di chuyển qua lại.
Trong thực tế việc học sinh có nhiều lựa chọn trong một chủ đề học tập chưa khả
thi nếu HS chưa có đủ những kĩ năng tự học cần thiết.
b. Phương pháp dạy học văn:
Nói đến PPDH Văn, trước hết cần nhận diện rõ tác phẩm văn chương trong
nhà trường. Phan Trọng Luận là người rất chú ý đến vấn đề này khi bàn về
PPDH Văn. Theo ông, việc dạy học văn không thể không quan tâm đến ba công
việc chủ yếu sau đây:
- Nhận diện đúng tác phẩm văn chương và tác phẩm văn chương trong nhà
trường
- Xác lập được hệ thống những phương pháp phân tích cắt nghĩa tác phẩm
- Xây dựng những con đường, những cách thức hướng dẫn học sinh đến với
tác phẩm văn chương. [32, 169]
Xét về mục đích, ý đồ sáng tác thì tác phẩm văn chương bao giờ cũng thể
hiện ý định của người cầm bút. Mỗi tác phẩm văn chương là một lời nhắn gửi
trực tiếp hay gián tiếp, kín đáo hay công khai của nhà văn về cuộc đời và với
cuộc sống. Bằng nghệ thuật sáng tạo ngôn ngữ nghệ thuật theo phong cách riêng
của mình, nhà văn tạo nên một hình thức độc đáo của tác phẩm chứa đựng một
nội dung nhất định bao gồm hai yếu tố: khách quan phản ánh và chủ quan biểu
hiện chuyển hóa thâm nhập vào nhau nhằm gây được một tác động đặc biệt đến
tâm hồn và tình cảm của bạn đọc - đối tượng tạo nên mối liên hệ của tác phẩm
18
đối với đời sống. Đi vào SGK nhà trường, tác phẩm trước hết chịu sự lựa chọn
của hội đồng biên soạn SGK và tác phẩm văn chương đến với HS thông qua vai
trò trung gian của người GV. Tài năng sư phạm, kiến thức và vốn sống phong
phú cùng với trái tim nhạy cảm của người giáo viên sẽ góp phần tạo nên và nâng
cao sức mạnh của tác phẩm văn chương. Với ý nghĩa này, tác phẩm văn chương
trong nhà trường không chỉ là một phương tiện nhận thức mà còn là đối tượng
thẩm mĩ đồng thời còn là một cơ sở để hình thành những hiểu biết về lịch sử văn
học lại vừa là công cụ giáo dục đặc biệt giúp học sinh tự phát triển một cách toàn
diện về nhân cách. Mặt khác, với tư cách là một bạn đọc chủ động sáng tạo, HS
sẽ tiếp nhận tác phẩm bằng vốn kinh nghiệm và đặc điểm tâm sinh lí của bản
thân các em. Nhận thức đúng đắn về tác phẩm văn chương trong nhà trường sẽ
đưa đến việc lựa chọn phương pháp dạy học văn tối ưu, hiệu quả. Quá trình
giảng dạy một tác phẩm văn chương là quá trình kết hợp vận dụng những quy
luật về tâm lí giáo dục, những nguyên lí của khoa văn học. Vấn đề đặt ra là
người GV cần xác định rõ Dạy cái gì? và Dạy như thế nào? Một mặt, tìm con
đường tiếp cận, cắt nghĩa nội dung – nghệ thuật của tác phẩm, mặt khác tìm
phương pháp tổ chức cho HS tiếp nhận, chiếm lĩnh tác phẩm văn học một cách
chủ động, tích cực và sáng tạo. Nhìn vào con đường nghiên cứu, cải tiến, đổi mới
PPDH văn của một số nhà nghiên cứu giáo dục, có thể nhận thấy một số PPDH
văn được đề nghị như: phương pháp đọc diễn cảm, phương pháp dạy học nêu
vấn đề, phương pháp gợi mở, phương pháp so sánh trong phân tích, phương
pháp giảng bình,… Thực tế đã có tình trạng giáo viên vận dụng một cách máy
móc một số thủ pháp, tuyệt đối hóa hay cô lập một vài biện pháp, không coi
trọng sự cảm thụ của cá nhân HS, không quan tâm đến những khái quát nghệ
thuật, những hiểu biết cần có về bài văn,… Thực tiễn dạy cho thấy một người
GV giỏi sẽ có hơn một cách dạy học và giờ dạy học tác phẩm văn chương là một
19
quy trình thiết kế với một hệ thống các thao tác linh hoạt, hệ thống việc làm của
thầy và trò vừa phù hợp với quy luật cảm thụ văn chương vừa phát huy tính chủ
động tích cực của người học. Trong quy trình đó phải đảm bảo HS giữ vị trí chủ
thể trực tiếp tiếp nhận, chiếm lĩnh tác phẩm cũng như GV.
1.1.1.2. Khái niệm văn học cách mạng
Văn học Việt Nam ở miền Bắc giai đoạn 1945-1975 (cùng với văn học cách
mạng ở miền Nam) được gọi là nền văn học cách mạng. Sở dĩ có tên gọi như vậy
vì văn học của giai đọan này phản ánh hai cuộc cách mạng của dân tộc: chống
Pháp và chống Mỹ. Văn học thời kì này khá đa dạng về thể loại nhưng tiêu biểu
vẫn là thơ và văn xuôi. Thành công nhất trong thể loại thơ văn là những tác
phẩm viết về người lính. Đây là đề tài xuyên suốt, chủ đạo cho các tác giả khai
thác.
Văn học cách mạng Việt Nam 1945-1975 là một nền văn học gắn liền với
đời sống chính trị của dân tộc, phản ảnh cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc do
Đảng cộng sản lãnh đạo, một nền văn học mang đậm tư tưởng chính trị cách
mạng. Văn học cách mạng do Đảng trực tiếp tổ chức lãnh đạo. Tính chất của nền
văn học ấy trước hết thể hiện ở nội dung chính trị và lịch sử của các tác phẩm,
cũng như trách nhiệm công dân của các nhà văn trong cuộc đấu tranh giải phóng
vĩ đại của dân tộc.
Văn học cách mạng còn bao gồm văn học xây dựng chủ nghĩa xã hội, một
mảng đề tài phong phú và đạt được nhiều giá trị.
Văn học cách mạng là một nền văn học không mang tính tự phát mà hoàn
toàn mang tính định hướng, không chỉ về phương diện tư tưởng mà còn về
phương diện tổ chức, không chỉ về phương diện nội dung mà còn cả phương
diện nghệ thuật. Sự lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp, toàn diện của Đảng đối với văn
học nghệ thuật là nhân tố quan trọng quyết định nội dung, tính chất của nền văn
20
học này. Trong đó, quan niệm nghệ thuật như một vũ khí là một quan niệm nhất
quán, xuyên suốt trong đường lối văn nghệ của Đảng, nhằm phát huy sức mạnh
của văn nghệ, góp phần vào cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm.
Văn học cách mạng Việt Nam là một nền văn học theo quan điểm mĩ học
của chủ nghĩa Mac- Lênin, đó là quan điểm coi văn học là “một cái bánh xe, một
cái đinh ốc” trong bộ máy cách mạng khổng lồ do Đảng của giai cấp công nhân
lãnh đạo. Trong bài viết có tựa là “Tổ chức của Đảng và văn học có tính Đảng”,
V.I.Lênin đã chỉ rõ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với văn học cách mạng: “Giai
cấp vô sản XHCN phải đề ra nguyên tắc là văn học phải có tính Đảng… sự
nghiệp văn học phải trở thành một bộ phận trong toàn bộ sự nghiệp của giai cấp
vô sản, phải trở thành một cái bánh xe nhỏ và một cái đinh ốc nhỏ trong bộ máy
xã hội dân chủ vĩ đại, thống nhất do đội tiên phong hoàn toàn giác ngộ của toàn
bộ giai cấp công nhân mở máy” [45, tr 72-73].
Văn học giai đoạn 1945 – 1975 đã đạt nhiều thành tựu, nhất là văn xuôi.
Các thể loại văn xuôi có những biến đổi hết sức quan trọng cả về nội dung
thể tài và hình thức thể loại theo định hướng của một nền văn học hướng về
hiện thực cách mạng và quần chúng nhân dân. Từ đề tài về sinh hoạt thế sự,
đời tư, các nhà văn chuyển sang đề tài lịch sử dân tộc, hướng vào khai thác
hiện thực đời sống cách mạng với cảm hứng sử thi. Văn học giai đoạn này nảy
sinh và phát triển trên nền tảng của ý thức cộng đồng, với giọng điệu trữ tình
rưng rưng, hào sảng. Giọng điệu ấy không chỉ là giọng điệu chủ đạo của thơ,
mà còn là giọng điệu chủ đạo của văn xuôi, khiến cho các tác phẩm văn xuôi
thời này đầy ắp chất thơ. Câu văn xuôi của các nhà văn, vì thế cũng ngân vang
âm hưởng trữ tình.
Toàn bộ hệ thống thể loại văn học Việt Nam 1945 – 1975 rất thống nhất
với nhau trong khuynh hướng cảm hứng. Từ truyện cho tới thơ, từ kịch cho tới
- Xem thêm -