Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Dau thi tu van - b16qth2 - mssv 162330920...

Tài liệu Dau thi tu van - b16qth2 - mssv 162330920

.DOC
81
275
140

Mô tả:

Khoá luận tốt nghiệp DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT DN : Doanh nghiệp KH : Khách hàng CB_CNV : Cán bộ công nhân viên VHDN : Văn hóa doanh nghiệp PR : Public Relations TNHH : Trách nhiệm hữu hạn XH : Xã hội KH : Khách hàng NV : Nhân viên LĐ : Lao động SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2 Khoá luận tốt nghiệp DANH SÁCH CÁC BẢNG Bảng 2.1: Bảng thống kê máy móc thiết bị chính................................................. Bảng 2.2 Cơ cấu nhân sự..................................................................................... Bảng 2.2: Bảng cân đối kế toán 2010-2011.......................................................... Bảng 2.3: Bảng báo cáo hoạt động kinh doanh của công ty Hoàng Tống năm 2010-2011............................................................................................................ SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2 Khoá luận tốt nghiệp DANH MỤC HÌNH VẼ Hình 1.1: Bốn nhóm nhân tố cấu thành văn hóa doanh nghiệp............................ Hình 2.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần Hoàng Tống....................... SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2 Khoá luận tốt nghiệp 1 MỞ ĐẦU Văn hóa doanh nghiệp là vấn đề đang được bàn luận sôi nổi của các chuyên gia kinh tế và những nhà kinh doanh hiện nay. Nó được xem là một loại tài sản vô hình của doanh nghiệp và có tầm quan trọng lớn đối với không chỉ công ty mà đối với cả nền kinh tế nói chung. Vậy có nên đặt vấn đề xây dựng và phát triển một môi trường văn hoá riêng gọi là văn hoá doanh nghiệp hay không? Biện pháp xây dựng và phát triển văn hoá doanh nghiệp đó như thế nào? Làm thế nào để hiểu rõ và nhận thức được một cách sâu sắc về văn hóa của doanh nghiệp? Nhìn chung phần lớn các doanh nghiệp trẻ của nước ta, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân, chưa chú ý tới việc xây dựng và phát triển một nền văn hoá đặc thù cho doanh nghiệp của mình và quan trọng hơn hết đó là nhận thức về văn hóa doanh nghiệp của con người thì chưa thực sự phát triển. Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đã bước vào sân chơi thương mại toàn cầu. Thời cơ có nhiều, nhưng thách thức cũng rất lớn. Đó là nguy cơ tụt hậu, hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh thấp, sự tụt hậu về trình độ văn hoá, năng lực chuyên môn, nghề nghiệp của người lao động… dẫn đến sự suy yếu của sản phẩm dịch vụ, yếu kém của sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của hàng hoá. Để đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, không ít doanh nghiệp chỉ nghĩ đến việc mua sắm, thay đổi công nghệ, mà không quan tâm đến bồi dưỡng các phẩm chất văn hoá cho các thành viên trong công ty, nên cán bộ lãnh đạo vẫn quản lý tồi, công nhân lại không phát huy được công suất, hiệu quả của công nghệ mới…Thậm chí, có những doanh nghiệp máy móc nhập về vài năm mà vẫn không vận hành được. Đáng chú ý là hàm lượng văn hoá thấp trong quan hệ giữa chủ doanh nghiệp và công nhân, giữa công nhân với công nhân, giữa doanh nghiệp với khách hàng và doanh nghiệp với xã hội đã cản trở rất nhiều đến sự bền vững của các doanh nghiệp. SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2 Khoá luận tốt nghiệp 2 Khi mà cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, sản phẩm kinh doanh trở nên bão hòa thì yếu tố quan trọng và quyết định để khách hàng lựa chọn sẽ và nên sử dụng sản phẩm nào và của công ty nào đó chính là văn hóa doanh nghiệp - tài sản vô hình - sức mạnh và ưu thế cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp ngày càng chứng tỏ tầm quan trọng của mình trong cạnh tranh và phát triển những lợi thế khác biệt đối với đối thủ. Và đặc biệt trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với rất nhiều các quan hệ kinh tế đan xen nhau bên cạnh mặt tích cực, đã xuất hiện nhiều mặt tiêu cực làm nảy sinh các hành vi kinh doanh thiếu đạo đức – phi văn hoá, chạy theo lợi nhuận ảnh hưởng đến văn hoá kinh doanh, đến các giá trị kinh doanh nền tảng của nền kinh tế thị trường – làm cho các giá trị đó bị đảo lộn, đe doạ sự bất ổn cho hoạt động kinh tế. Ngành xây dựng công trình dân dụng, sản xuất lắp đặt các loại kính, cửa nhựa cao cấp, trang trí nội, ngoại thất, là những ngành đang có sự cạnh tranh rất lớn trên phạm vi nước ta nói chung, ở địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng. Công ty cổ phần Hoàng Tống cũng không thể tránh khỏi sự cạnh tranh gay gắt đó. Công ty Cổ Phần Hoàng Tống là một điển hình trong việc xây dựng và phát triển cho mình một lợi thế riêng về văn hóa. Công ty đã có một số chuẩn mực về văn hóa tương đối đầy đủ với những quy tắc ứng xử, làm việc trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc thực hiện, phát triển và làm việc theo những tiêu chí văn hóa đó của đội ngũ cán bộ nhân viên vẫn còn lơ là và chưa được chú trọng. Nhận thấy được những vấn đề còn tồn tại trên, nhận thức được tầm quan trọng của văn hóa doanh nghiệp trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh của mỗi công ty, người nghiên cứu đã lựa chọn đề tài “Biện pháp phát triển Văn hóa Doanh nghiệp” Tuy nhiên, văn hoá doanh nghiệp là một phạm trù rộng lớn có nhiều mối quan hệ tác động qua lại hết sức đa dạng và phức tạp đòi hỏi phải được tiếp tục đi sâu nghiên cứu, thảo luận trong thời gian tới. Cho nên đề tài của em có thể có nhiều hạn SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2 Khoá luận tốt nghiệp 3 chế nhất định. Em mong nhận được những ý kiến đóng góp xây dựng quý báu của các thầy cô và các bạn. Em xin chân thành cảm ơn! SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2 Khoá luận tốt nghiệp 4 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA DOANH NGHIỆP 1.1. Khái quát về Doanh nghiệp 1.1.1. Khái niệm Về góc độ pháp lý, theo Khoản 1 Điều 4 Luật doanh nghiệp ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2005 của Việt Nam, khái niệm về doanh nghiệp như sau: "Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện ổn định các hoạt động kinh doanh". Trên thực tế doanh nghiệp được gọi bằng nhiều thuật ngữ khác nhau: cửa hàng, nhà máy, xí nghiệp, hãng,... Theo quan điểm của viện thống kê và nghiên cứu kinh tế của Pháp “ Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế mà chức năng chính của nó là sản xuất ra của cải vật chất và dịch vụ để bán” Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và thông tin, các hình thức tổ chức doanh nghiệp ngày càng đa dạng, các loại sở hữu doanh nghiệp ngày càng phong phú. Do đó nếu đứng trên các quan điểm khác nhau thì có các định nghĩa khác nhau về doanh nghiệp. Theo quan điểm của nhà tổ chức: Doanh nghiệp là tổng thể các phương tiện, máy móc, thiết bị và con người được tổ chức lại nhằm đạt được một mục đích. Mục đích được đề cập ở đây là làm lợi vốn đầu tư, làm lợi cho công nhân viên và đảm bảo sự phát triển trong tương lai. Theo quan điểm lợi nhuận: Doanh nghiệp là một tổ chức sản xuất, thông qua đó, trong khuôn khổ một số tài sản nhất định người ta kết hợp nhiều yếu tố sản xuất khác nhau nhằm tạo ra sản phẩm và dịch vụ để bán trên thị trường nhằm thu về một khoản chênh lệch giữa giá thành và giá bán sản phẩm. SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2 Khoá luận tốt nghiệp 5 Theo quan điểm chức năng: Doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất kinh doanh nhằm thực hiện một, hoặc một số, hoặc tất cả các công đoạn trong quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, hoặc thực hiện các nhiệm vụ nhằm mục đích sinh lãi. Theo quan điểm lý thuyết hệ thống: Doanh nghiệp là một bộ phận hợp thành trong hệ thống kinh tế, mỗi đơn vị trong hệ thống đó phải chịu sức tác động tương hỗ lẫn nhau, phải tuân thủ những điều kiện hoạt động mà nhà nước đặt ra cho hệ thống kinh tế đó nhằm phục vụ cho mục đích tiêu dùng của xã hội. Mỗi định nghĩa nêu trên đều được phát biểu dựa trên các quan điểm khác nhau, nếu tổng hợp các định nghĩa của các quan điểm khác nhau đó sẽ có khái niệm toàn diện hơn về doanh nghiệp. Doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất kinh doanh được tổ chức nhằm tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ đáp ứng yêu cầu tiêu dùng trên thị trường, thông qua đó để tối đa hóa lợi nhuận, trên cơ sở tôn trọng pháp luật nhà nước và quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng. Nhìn chung doanh nghiệp đều có những đặc điểm: - Là một tổ chức kinh tế thực hiện chức năng kinh doanh - Là một sự kết hợp giữa các nhân tố đầu vào như vốn và lao động để tạo ra các sản phẩm dịch vụ và tiêu thụ trên thị trường - Là một chủ thể doanh nghiệp có quy mô đủ lớn - Là một tổ chức sống theo nghĩa luôn luôn vận động 1.1.2. Phân loại doanh nghiệp 1.1.2.1. Căn cứ vào hình thức sở hữu Căn cứ vào chủ sở hữu phần vốn thành lập nên doanh nghiệp là một trong những tiêu chí quan trọng nhất để quyết định về cấu trúc tổ chức và quản lý của doanh nghiệp. Tiêu chí này phân ra những loại doanh nghiệp sau: SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2 Khoá luận tốt nghiệp 6  Doanh nghiệp nhà nước: là doanh nghiệp mà nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ. Doanh nghiệp nhà nước hiện nắm giữ 75% tài sản cố định quốc gia, 20% vốn đầu tư xã hội, gần 50% vốn đầu tư của nhà nước, 60% tín dụng ngân hàng trong nước, hơn 70% vốn vay nước ngoài, được hưởng nhiều ưu đãi nhưng kinh doanh kém hiệu quả, chỉ đóng góp 50% thu ngân sách, trong đó thuế thu nhập chỉ có 9%. Đây là khu vực cơ chế quản lý kém hiệu quả nhất, có nhiều tiêu cực lãng phí.  Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: là một tổ chức kinh tế do cá nhân hay pháp nhân nước ngoài thành lập tại Việt Nam, có vốn đầu tư nước ngoài toàn bộ hay một phần và hoạt động kinh doanh theo pháp luật Việt Nam. Nói cách khác đó là những doanh nghiệp mà nguồn vốn của doanh nghiệp được hình thành từ toàn bộ hay một phần vốn của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Hiện doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có hơn 5.300 dự án có hiệu lực đang hoạt động, chiếm 15,7% tổng vốn đầu tư xã hội, 40% giá trị sản xuất công nghiệp, tạo ra 54,6% kim ngạch xuất khẩu, thu hút gần 70 vạn lao động. Do có vốn lớn, công nghệ tương đối hiện đại, kỹ năng quản lý tiên tiến, doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả rõ rệt mang lại nhiều kinh nghiệm tốt cho kinh doanh của các doanh nghiệp  Doanh nghiệp dân doanh là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật do một hay nhiều cá nhân trong nước thành lập, đầu tư vốn và quản lí với tư cách chủ sở hữu nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp dân doanh thường hoạt động kinh doanh theo một trong các hình thức: doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH (một hoặc hai thành viên trở lên), công ty cổ phần và công ty hợp danh. Thời gian gần đây, doanh nghiệp dân doanh thường có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong các loại hình doanh nghiệp. Năm 2005, loại hình doanh nghiệp này chiếm 32,1% tổng vốn đầu tư xã hội, 30% giá trị sản xuất công nghiệp cả nước. Đây thực sự là khu vực kinh tế dân sự SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2 Khoá luận tốt nghiệp 7 rộng lớn, do dân tự chủ kinh doanh đang trên đà phát triển mạnh mẽ, năng động trở thành lực lượng chủ lực của công cuộc phát triển kinh tế nước ta. Việc phân chia thành ba loại doanh nghiệp như trên sẽ chỉ rõ vị trí vai trò và những đóng góp trong phát triển kinh tế- xã hội của nước ta của từng loại hình doanh nghiệp qua đó giúp Nhà nước xây dựng các chính sách phù hợp nhằm phát triển cân đối các loại hình doanh nghiệp, góp phần tạo nên thành công trong sự nghiệp phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 1.1.2.2. Căn cứ vào số lượng chủ sở hữu a. Doanh nghiệp một chủ sở hữu Doanh nghiệp nhà nước: Theo điều 1 luật Doanh nghiệp Nhà nước: DNNN là một tổ chức kinh tế do Nhà nước- người đại diện toàn dân thành lập đầu tư vốn và quản lý với tư cách chủ sở hữu hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế do Nhà nước giao, đồng thời là một pháp nhân kinh tế, hoạt động theo pháp luật và bình đẳng trước pháp luật. Doanh nghiệp tư nhân: là doanh nghiệp do cá nhân làm chủ, tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân. Công ty TNHH một thành viên: là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu; chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và loại hình doanh nghiệp này không được quyền phát hành cổ phần. b. Doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu : Doanh nghiệp được hình thành trên cơ sở liên kết của các thành viên, thể hiện qua việc cùng nhau góp vốn thành lập doanh nghiệp, như công ty cổ phần, công ty SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2 Khoá luận tốt nghiệp 8 trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên hay công ty hợp danh theo Luật Việt Nam. Công ty cổ phần: là doanh nghiệp mà vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cổ đông là cá nhân hay tổ chức sở hữu cổ phần của doanh nghiệp (số lượng cổ đông tối thiểu là ba) chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp và có quyền chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác ngoại trừ trường hợp cổ phần ưu đãi biểu quyết.Công ty cổ phần có quyền phát hành các loại chứng khoán để huy động vốn. Công ty TNHH hai thành viên: là doanh nghiệp trong đó thành viên là các tổ chức cá nhân (số lượng không quá 50 người) chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp, phần vốn góp của công ty chỉ được chuyển nhượng cho công ty, thành viên của công ty và đối tượng khác theo thứ tự ưu tiên. Công ty TNHH hai thành viên có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên không được quyền phát hành cổ phiếu để huy động vốn. Công ty hợp danh: là doanh nghiệp, trong đó có ít nhất hai thành viên hợp danh, ngoài các thành viên hợp danh, có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh là cá nhân, có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Ngoài ra, thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp đăng ký kinh doanh và không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào để huy động vốn. Thành viên hợp danh có quyền quản lý công ty và tiến hành các hoạt động kinh doanh nhân danh công ty, cùng liên đới chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn có quyền được chia lợi nhuận theo tỷ lệ được quy định SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2 Khoá luận tốt nghiệp 9 tại Điều lệ công ty; không được tham gia quản lý công ty và hoạt động kinh doanh nhân danh công ty. Các thành viên hợp danh có quyền ngang nhau khi quyết định các vấn đề quản lý công ty. 1.1.2.3. Căn cứ vào quy mô của Doanh nghiệp - Doanh nghiệp quy mô lớn. - Doanh nghiệp quy mô vừa. - Doanh nghiệp quy mô nhỏ. Để phân biệt các doanh nghiệp có quy mô như trên, hầu hết các nước dựa vào những tiêu chuẩn chư tổng số vốn đầu tư của doanh nghiệp, số lượng lao động doanh nghiệp, doanh thu các doanh nghiệp và lợi nhuận hàng năm. 1.1.2.4. Căn cứ mục tiêu hoạt động Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh là nhằm mục tiêu thu lợi nhuận; tạo việc làm ổn định cho người lao động; thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và đáp ứng yêu cầu phát triển của Công ty. Doanh nghiệp hoạt động công ích là DNNN độc lập hoặc DNNN là thành viên hạch toán độc lập của Tổng công ty Nhà nước trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ công cộng theo chính sách của Nhà nước, do Nhà nước giao kế hoạch hoặc đặt hàng và theo giá, khung giá hoặc phí do Nhà nước quy định, hoạt động chủ yếu không vì mục tiêu lợi nhuận. 1.1.2.5. Căn cứ lĩnh vực kinh doanh Doanh nghiệp được phân loại thành - Doanh nghiệp nông nghiệp là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp hướng vào sản xuất ra những sản phẩm là cây, con và phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2 Khoá luận tốt nghiệp - 10 Doanh nghiệp công nghiệp là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp nhằm tạo ra những sản phẩm bằng cách sử dụng những thiết bị máy móc để khai thác hoặc chế biến nguyên vật liệu thành thành phẩm. Trong công nghiệp có công nghiệp xây dựng, công nghiệp điện tử, công nghiệp chế tạo… - Doanh nghiệp thương mại là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại, hướng vào việc khai thác các dịch vụ trong khâu phân phối hàng hóa cho người tiêu dùng tức thực hiện các dịch vụ mua vào bán ra để kiếm lời. Doanh nghiệp thương mại có thể tổ chức dưới hình thức buôn bán sỉ hoặc buôn bán lẻ và hoạt động của nó có thể hướng vào xuất nhập khẩu - Doanh nghiệp hoạt động dịch vụ: những doanh nghiệp trong ngành dịch vụ không ngừng phát triển về doanh thu và số lượng mà còn rất đa dạng phong phú ở lĩnh vực này như ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính viễn thông, vận tải, du lịch, y tế… 1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp Doanh nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng của nền kinh tế, là bộ phận chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nước (GDP). Hoạt động của doanh nghiệp những năm gần đây đã có bước phát triển đột biến, góp phần giải phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế xã hội, góp phần quyết định vào phục hồi và tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách (1) Doanh nghiệp tạo ra của cải vật chất, tạo ra thu nhập, cải thiện và nâng cao đời sống của người lao động. (2) Sự phát triển của nền kinh tế thể hiện ở sự phát triển của hệ thống doanh nghiệp. (3) Thông qua hệ thống doanh nghiệp, nhà nước thực hiện được các chủ trương của mình. SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2 Khoá luận tốt nghiệp 11 (4) Doanh nghiệp tăng trưởng và phát triển là yếu tố quyết định đến tăng trưởng cao và ổn định của nền kinh tế những năm qua. (5) Doanh nghiệp cũng là yếu tố quan trọng, quyết định đến chuyển dịch các cơ cấu lớn của nền kinh tế quốc dân và trong nội bộ mỗi ngành như: Cơ cấu nhiều thành phần kinh tế, cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu kinh tế giữa các vùng, địa phương. (6) Doanh nghiệp phát triển, đặc biệt là DN ngành công nghiệp tăng nhanh là nhân tố đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nâng cao hiệu quả kinh tế, giữ vững ổn định và tạo thế mạnh hơn về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội nhập. (7) DN không chỉ quyết định sự phát triển bền vững về mặt kinh tế mà còn quyết định đến sự ổn định và lành mạnh hoá các vấn đề xã hội. 1.2. Văn hóa doanh nghiệp 1.2.1. Khái niệm văn hóa Việt Nam, trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế kinh tế, các doanh nghiệp dễ nhận thấy rằng: Những vấn đề về mặt kỹ thuật không đưa lại những thách thức bằng vấn đề hiểu và động viên các nhân viên cống hiến hết khả năng của mình. Và doanh nghiệp muốn thành công thì phải luôn sáng tạo ra những giá trị mới cho xã hội, mà điều này lại cần tới sự trợ giúp của các nhân viên. Hướng tiếp cận doanh nghiệp dưới góc độ văn hóa sẽ giúp đạt hiệu quả cao hơn trong việc huy động sự tham gia của con người trong tổ chức, (mặc dù hướng tiếp cận tổ chức về mặt kỹ thuật - cơ cấu ở Việt Nam hiện nay vẫn là vấn đề chưa thể bỏ qua). Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn hoá. Theo E.Heriôt thì “Cái gì còn lại khi tất cả những cái khác bị quên đi - cái đó là văn hoá”. Còn UNESCO lại có một định nghĩa khác về văn hoá: “Văn hoá phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và của mỗi cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ, cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao nhiêu thế kỷ SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2 Khoá luận tốt nghiệp 12 nó đã cấu thành một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống và dựa trên đó từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình”. Theo giáo trình quản lý xã hội khái niệm văn hoá là một thiết chế xã hội cơ bản, là một phức thể, tổng thể các đặc trưng – diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức, tình cảm...khắc hoạ nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng miền quốc gia, xã hội....văn hoá có thể là hữu thể, có thể là vô hình. Văn hóa là tất cả những giá trị vật thể do con người sáng tạo ra trên nền của thế giới tự nhiên, là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra. Như vậy, dù theo định nghĩa, mọi định nghĩa văn hoá đều chứa một nét chung là “con người” đều thừa nhận và khẳng định mối liên hệ mật thiết giữa văn hoá với con người. Văn hoá và con người là hai khái niệm không tách rời nhau. Con người là chủ thể sáng tạo ra văn hoá. Trong suốt lịch sử hình thành và phát triển của mình, con người luôn sáng tạo không ngừng để làm nên giá trị văn hoá. Một trong số những giá trị văn hoá được con người sáng tạo ra ấy chính là bản thân con người – con người có văn hoá. Con người sáng tạo ra văn hoá, đồng thời chính con người cũng là sản phẩm của văn hoá. 1.2.2. Khái niệm văn hóa doanh nghiệp 1.2.2.1. Khái niệm Văn hoá doanh nghiệp(VHDN) là toàn bộ các giá trị văn hoá được gây dựng nên trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp, trở thành các SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2 Khoá luận tốt nghiệp 13 giá trị, các quan niệm và tập quán, truyền thống ăn sâu vào hoạt động của doanh nghiệp ấy và chi phối tình cảm, nếp suy nghĩ và hành vi của mọi thành viên của doanh nghiệp trong việc theo đuổi và thực hiện các mục đích. Hay: Văn hóa doanh nghiệp là luật không thành văn quy định cách thức thực sự mà con người đối xử với nhau hàng ngày trong tổ chức, cách thức thực sự mà doanh nghiệp giải quyết công việc, đáp ứng nhu cầu khách hàng. Văn hóa doanh nghiệp ăn sâu vào niềm tin nên có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của tổ chức. Theo Georges de Saite Marie, chuyên gia Pháp về doanh nghiệp vừa và nhỏ, "VHDN là tổng hợp các giá trị, các biểu tượng, huyền thoại, nghi thức, các điều cấm kị các quan điểm triết học, đạo đức tạo thành nền móng sâu xa của doanh nghiệp". Theo ILO, "VHDN là sự tổng hợp đặc biệt các giá trị, các tiêu chuẩn, các thói quen và truyền thống, những thái độ ứng xử và lễ nghi mà toàn bộ chúng là duy nhất đối với một tổ chức đã biết". Theo Edgar H.Schein, chuyên gia nghiên cứu các tổ chức, "VHDN (hay văn hoá công ty) là tổng hợp những quan niệm chung mà thành viên trong doanh nghiệp học được trong quá trình giải quyết các vấn đề nội bộ và xử lý các vấn đề với môi trường xung quanh". Hoặc Marvin Bower - Tổng giám đốc, McKinsey Co. đã nói 'VHDN là tất cả các thành tố mà chúng ta đang thực hiện trong quá trình kinh doanh và di sản để lại cho thế hệ kế tiếp. Theo các tài liệu nghiên cứu và giảng dạy ở nước ta, VHDN là trạng thái tinh thần và vật chất đặc sắc của một doanh nghiệp được tạo nên bởi hoạt động quản lý và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một điều kiện lịch sử xã hội nhất định. SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2 Khoá luận tốt nghiệp 14 Nhìn chung, “văn hóa là sâu, rộng và phức tạp” (Schein, 1992) và có thể hiểu rằng văn hóa công ty chính là nền tảng cho các hành vi và hoạt động của mỗi cá nhân trong tổ chức, là sản phẩm và tài sản của mỗi doanh nghiệp. 1.2.2.2. Đặc điểm của văn hóa doanh nghiệp Văn hóa doanh nghiệp là toàn bộ hệ thống các chuẩn mực về tinh thần và vật chất quy định mối quan hệ, thái độ và hành vi ứng xử của tất cả các thành viên trong doanh nghiệp, hướng tới những giá trị tốt đẹp được xã hội đồng tình, tạo ra nét riêng độc đáo đồng thời là sức mạnh lâu bền của doanh nghiệp thể hiện qua sức mạnh sản phẩm của doanh nghiệp trên thương trường. Những chuẩn mực đó được quy định trên cơ sở đặc điểm riêng về loại hình và ngành hàng của từng doanh nghiệp và các thể chế văn hóa xã hội nơi doanh nghiệp hoạt động, nên nó không giống nhau đối với từng doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp tạo nên thương hiệu, đó là hình tượng hay biểu tượng về chất lượng hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp, đồng thời nó cũng “đúc” nên những nét nhân cách, phong thái riêng rất dễ nhận ra của các thành viên của doanh nghiệp ở trong xã hội. Cho nên không thể có một chuẩn mực chung về văn hóa doanh nghiệp cho mọi xí nghiệp. Phải có sự nghiên cứu công phu và quá trình thực thi đúc rút bền bỉ mới mong tạo được những tập tục, tập quán hay truyền thống quý báu trong nếp sống của tập thể và mỗi thành viên. Văn hóa doanh nghiệp thể hiện ở thương hiệu của doanh nghiệp. Thương hiệu đó phải được chăm lo xây dựng và quảng bá không ngừng để in đậm dấu ấn vào tâm trí người tiêu dùng. Làm sao cứ nghĩ đến loại hàng đó là người ta nghĩ ngay đến thương hiệu của doanh nghiệp. Ví dụ nói đến giày dép thì tìm ngay đến Biti’s. Cốt lõi của thương hiệu doanh nghiệp là chất lượng hàng hóa và phải được đăng ký sở hữu bản quyền ở trong nước cũng như nước ngoài. Văn hóa doanh nghiệp còn là hệ thống các ký hiệu, biểu trưng cho doanh nghiệp như: Hình ảnh biểu tượng chung của hãng thể hiện ở khắp mọi nơi có liên quan đến doanh nghiệp, ngày truyền thống doanh nghiệp. Những quy định về áo quần, giày mũ, găng tay, áo đi mưa… đồng phục giống nhau từ giám đốc đến nhân viên, và giống nhãn hiệu hàng hóa, không ai SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2 Khoá luận tốt nghiệp 15 được phép thay đổi: Biển tên, số hiệu nhân viên, ký hiệu công việc (hay bộ phận công tác) từng người; phong bì, giấy viết thư, phong bao dùng để phát lương hoặc các thiết bị đặc biệt khác… nhất nhất phải theo mẫu thương hiệu quy định, và được sử dụng rộng rãi liên tục, không thay đổi, tạo thành ấn tượng xã hội, thành niềm tự hào của các thành viên trong doanh nghiệp và gia đình họ từ đời này qua đời khác. Văn hóa doanh nghiệp hiện đại hiện nay còn là nghiệp vụ giao dịch đối ngoại (Marketing gọi là Public Relations (PR)) nhằm xây dựng và nâng cao hình ảnh và tên tuổi của doanh nghiệp trong xã hội và trên thị trường. Nghiệp vụ đối ngoại còn tìm mọi cách để quảng bá sản phẩm và uy tín của doanh nghiệp, tổ chức tiếp tân, diễn thuyết, tạo lập các “thông cáo báo chí trung thực và định hướng” để cung cấp cho các nhà báo. Nghiệp vụ này còn rất mới lạ ở Việt Nam, nhưng cũng đã được rất nhiều doanh nghiệp áp dụng. Hệ thống tập tục về thái độ và hành vi ứng xử hàng ngày cho mỗi thành viên là một bộ phận tạo nên văn hóa doanh nghiệp. Các nguyên tắc đó gồm: Quy định về bảo mật, về giờ giấc làm việc, nghỉ ngơi; quy định về trang phục, đồng phục, phù hiệu, tư thế, tác phong khi làm việc; các nguyên tắc về giao dịch, tiếp khách; nguyên tắc và hình thức tuyên dương khen thưởng; nguyên tắc về ghi chép chứng từ, báo cáo ghi nhật ký sản xuất; nội quy sử dụng bảo quản máy móc, thiết bị, về bảo vệ môi trường, phòng chống cháy, sử dụng điện, nước v.v… Tất cả các quy định này phải rõ ràng, tránh chung chung, có kèm theo thưởng phạt trở thành quy tắc văn hóa, thành nếp sống tự thân của mỗi thành viên doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp còn bao gồm những tập tục không thành văn, do các thành viên trong doanh nghiệp tự nguyện lập nên vì lợi ích chung. Doanh nghiệp phải tạo ra được những tập quán tốt đẹp như: tập quán trung thực, cởi mở, đấu tranh thẳng thắn, tập quán mừng sinh nhật, mừng năm mới, ngày cưới, ngày thôi nôi con, thưởng con em công nhân học giỏi, hay tục chia buồn, thăm ốm đau viếng tang người trong đơn vị, giúp đỡ gia đình khó khăn v.v... Tập quán đẹp này sẽ gắn bó mọi người trong doanh nghiệp, biến thành chính cuộc sống của họ, biến thành năng suất và chất lượng công nghiệp. SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2 Khoá luận tốt nghiệp 16 Để biến một doanh nghiệp thành một thực thể văn hóa, không phải cứ định ra vô số những quy tắc này nọ, mà cốt yếu là làm sao biến các quy tắc đó thành hơi thở cuộc sống, biến thành sức mạnh cạnh tranh và trường tồn của doanh nghiệp. Quá trình tạo dựng nền văn hóa doanh nghiệp này, vai trò chủ tịch Hội đồng quản trị, giám đốc có tính quyết định. Một hành vi nhỏ của người giám đốc như xin lỗi công khai những sai sót của mình trước cấp dưới, đi thăm nhân viên bị ốm v.v... đều tạo nên hiệu quả to lớn trong xây dựng văn hóa doanh nghiệp. Dưới đây là một số nhiều định nghĩa về văn hóa doanh nghiệp có thể được tìm thấy. Nói một cách khác, văn hóa doanh nghiệp chính là bản sắc của một công ty, và vì lý do đó, trong một số cách, nó sẽ trở thành một bản sắc của những người làm việc ở đó, nhân viên, con người trong cùng một công ty sẽ có những tác phong, phong cách và chuẩn mực làm việc, sinh hoạt tập thể giống nhau. Vì vậy, trong khi có nhiều định nghĩa về văn hóa doanh nghiệp, tất cả trong số họ tập trung vào những điểm giống nhau: “Kinh nghiệm tập thể, thói quen, niềm tin, các giá trị, mục tiêu, và hệ thống”. Đây là những kinh nghiệm học được, tiếp tục truyền đạt lại cho nhân viên mới, và tiếp tục như là một phần của bản sắc cốt lõi của công ty. 1.2.2.3. Đặc trưng của văn hoá doanh nghiệp Văn hóa doanh nghiệp là sản phẩm của những người cùng làm trong một doanh nghiệp và đáp ứng nhu cầu giá trị bền vững. Nó xác lập một hệ thống các giá trị được mọi người làm trong doanh nghiệp chia sẻ, chấp nhận, đề cao và ứng xử theo các giá trị đó giúp nâng cao năng suất, chất lượng và đào tạo con người. Văn hoá doanh nghiệp còn góp phần tạo nên sự khác biệt giữa các doanh nghiệp và được coi là truyền thống của riêng mỗi doanh nghiệp. Cũng có thể nói, văn hóa của doanh nghiệp giống như “cá tính” của doanh nghiệp đó. Ở mỗi cá nhân, cá tính giúp phân biệt người này với người khác, “văn hóa” cũng chính là bản sắc riêng giúp một doanh nghiệp không thể lẫn với doanh nghiệp khác dù có cùng hoạt động trong một SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2 Khoá luận tốt nghiệp 17 lĩnh vực và cung cấp những sản phẩm tương tự ra thị trường. Nhìn chung lại, đặc trưng của văn hóa doanh nghiệp được thể hiện qua - Tính nhân sinh: tức là gắn với con người. Trong một tổ chức, tập hợp những người làm việc với nhau sẽ hình thành nên những thói quen, đặc trưng của đơn vị đó. Do đó, văn hóa doanh nghiệp chủ yếu hình thành trên ý thức tự giác. Theo thời gian, những thói quen này sẽ dần càng rõ ràng hơn và hình thành ra “cá tính” của đơn vị. Chủ động tạo ra những giá trị văn hoá mong muốn là điều cần thiết nếu doanh nghiệp muốn văn hóa thực sự phục vụ cho định hướng phát triển chung, góp phần tạo nên sức mạnh cạnh tranh của mình. - Tính giá trị: Không có VHDN “tốt” và “xấu”, chỉ có văn hoá phù hợp hay không phù hợp. Giá trị là kết quả đánh giá của chủ thể đối với đối tượng theo một hoặc một số thang độ nhất định và những nhận định này được thể hiện ra thành “đúngsai”, “tốt-xấu”, “đẹp-xấu”..., nhưng bản chất của “sai” của “xấu” đều là “không phù hợp”. Giá trị cũng là khái niệm có tính tương đối, phụ thuộc vào chủ thể, không gian và thời gian. Trong thực tế, người ta hay áp đặt giá trị của mình, của tổ chức mình cho người khác, đơn vị khác, nên dễ có những nhận định “đúng-sai” về văn hoá của một doanh nghiệp nào đó. - Tính ổn định: Văn hoá doanh nghiệp khi đã được định hình thì “khó thay đổi”. Qua thời gian, các hoạt động khác nhau của các thành viên doanh nghiệp sẽ giúp các niềm tin, giá trị được tích lũy và tạo thành văn hoá. Sự tích lũy các giá trị tạo nên tính ổn định của văn hoá. 1.2.2.4. Vai trò của văn hóa doanh nghiệp Văn hóa doanh nghiệp quyết định sự trường tồn của doanh nghiệp. Nó giúp doanh nghiệp trường tồn vượt xa cuộc đời của những người sáng lập. Theo đề cương tọa đàm xây dựng văn hóa doanh nghiệp tổng công ty thương mại Sài Gòn- SATRA thì văn hóa doanh nghiệp có những vai trò sau: SVTH: Đậu Thị Tú Vân - Lớp B16QTH2
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng