Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Dấu hiệu hậu quả phạm tội trong mặt khách quan của tội phạm theo luật hình sự vi...

Tài liệu Dấu hiệu hậu quả phạm tội trong mặt khách quan của tội phạm theo luật hình sự việt nam luận văn ths. luật

.PDF
113
532
128

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THU TRANG DẤU HIỆU HẬU QUẢ PHẠM TỘI TRONG MẶT KHÁCH QUAN CỦA TỘI PHẠM THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THU TRANG DẤU HIỆU HẬU QUẢ PHẠM TỘI TRONG MẶT KHÁCH QUAN CỦA TỘI PHẠM THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Tiến Việt HÀ NỘI - 2012 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THU TRANG DẤU HIỆU HẬU QUẢ PHẠM TỘI TRONG MẶT KHÁCH QUAN CỦA TỘI PHẠM THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THU TRANG DẤU HIỆU HẬU QUẢ PHẠM TỘI TRONG MẶT KHÁCH QUAN CỦA TỘI PHẠM THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Tiến Việt HÀ NỘI - 2012 2 MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA Lời cam đoàn MỤC LỤC Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DẤU HIỆU HẬU QUẢ PHẠM 8 TỘI TRONG MẶT KHÁCH QUAN CỦA TỘI PHẠM THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC DẤU HIỆU TRONG MẶT KHÁCH 8 QUAN CỦA TỘI PHẠM 1.1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc nghiên cứu mặt khách quan 8 của tội phạm 1.1.2. Các dấu hiệu trong mặt khách quan của tội phạm 10 1.2. Khái niệm, các đặc điểm của dấu hiệu hậu quả phạm tội trong 19 mặt khách quan của tội phạm và ý nghĩa của dấu hiệu này 1.2.1. Khái niệm hậu quả phạm tội 19 1.2.2. Các đặc điểm của dấu hiệu hậu quả phạm tội 21 1.2.3. ý nghĩa của dấu hiệu hậu quả phạm tội 28 1.3. Mối quan hệ giữa dấu hiệu hậu quả phạm tội với các dấu 31 hiệu khác trong mặt khách quan của tội phạm 1.3.1. Mối quan hệ giữa dấu hiệu hậu quả phạm tội với dấu hiệu 31 hành vi phạm tội 1.3.2. Mối quan hệ giữa dấu hiệu hậu quả phạm tội với các dấu hiệu 1 32 không bắt buộc khác trong mặt khách quan của tội phạm Chương 2: Sự thể hiện dấu hiệu hậu quả phạm tội trong Bộ luật hình 33 sự Việt Nam năm 1999 hiện hành và thực tiễn áp dụng 2.1. SỰ THỂ HIỆN DẤU HIỆU HẬU QUẢ PHẠM TỘI THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 HIỆN HÀNH 33 2.1.1. Sự thể hiện dấu hiệu hậu quả phạm tội với tƣ cách là dấu hiệu định tội theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành 33 2.1.2. Sự thể hiện dấu hiệu hậu quả với tƣ cách là dấu hiệu định khung theo Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành 39 2.2. Thực tiễn áp dụng dấu hiệu hậu quả phạm tội, một số tồn tại và những nguyên nhân cơ bản 47 2.2.1. Thực tiễn áp dụng dấu hiệu hậu quả phạm tội 47 2.2.1.1. Tình hình giải quyết các loại án có dấu hiệu hậu quả phạm tội là dấu hiệu bắt buộc trong phạm vi toàn quốc giai đoạn 2001-2010 47 2.2.1.2. Thực tiễn áp dụng dấu hiệu hậu quả phạm tội qua một số bản án 51 2.2.2. 67 Một số tồn tại và những nguyên nhân cơ bản 2.2.2.1. Một số tồn tại 67 2.2.2.2. Những nguyên nhân cơ bản 69 Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu 72 quả áp dụng các quy định của bộ luật hình sự việt nam năm 1999 hiện hành liên quan đến dấu hiệu hậu quả phạm tội 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành liên quan đến dấu hiệu hậu quả phạm tội 72 3.1.1. Về phƣơng diện thực tiễn 72 2 3.1.2. Về phƣơng diện lập pháp 73 3.1.3. Về phƣơng diện lý luận 74 3.2. Nội dung hoàn thiện một số quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành về dấu hiệu hậu quả phạm tội 74 3.2.1. Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành về dấu hiệu hậu quả phạm tội liên quan đến việc định tội danh 74 3.2.2. Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành về dấu hiệu hậu quả phạm tội liên quan đến việc định khung hình phạt 79 3.2.3. Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành liên quan đến tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự 84 3.3. Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về dấu hiệu hậu quả phạm tội theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành 85 3.3.1. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn và ý thức pháp luật của những ngƣời có thẩm quyền đặc biệt là đội ngũ thẩm phán và hội thẩm 85 3.3.2. Tiếp tục ban hành các văn bản hƣớng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật 87 3.3.3. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân 88 3.3.4. Tăng cƣờng vai trò của Viện kiểm sát trong việc thực hiện quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tƣ pháp 91 kết luận 94 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 96 3 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1 Số liệu thống kê số tội phạm có dấu hiệu hậu quả phạm tội là dấu hiệu bắt buộc theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành 34 2.2 Số liệu thống kê dấu hiệu hậu quả phạm tội với tƣ cách là dấu hiệu định khung trong Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành 39 2.3 Thống kê số liệu các loại án có dấu hiệu hậu quả phạm tội là dấu hiệu bắt buộc phải giải quyết tƣơng quan với tổng số vụ án phải quyết trong toàn quốc giai đoạn 2001 2010 48 4 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong đời sống xã hội, "nếu thừa nhận: Tội phạm là một hiện tƣợng tiêu cực xã hội, thì cuộc đấu tranh chống tội phạm đƣợc coi là một điều tất yếu khách quan không thể thiếu đƣợc của mọi chế độ xã hội" [28, tr. 5]. Về vấn đề này, C. Mác đã cho rằng: "Cũng nhƣ pháp luật, tội phạm là hành vi của cá nhân riêng biệt đấu tranh chống lại quan hệ thống trị chứ không phải phát sinh từ một ý muốn đơn thuần. Trái lại, điều kiện phát sinh ra tội phạm cũng giống nhƣ điều kiện phát sinh ra nền thống trị hiện hành" [58, tr. 11]. Do đó, trong bất kỳ một xã hội nào pháp luật ra đời không chỉ thuần túy là nhu cầu cai trị của nhà nƣớc, là công cụ bảo vệ giai cấp thống trị mặc dù đó là một phần chủ yếu. Pháp luật còn đáp ứng nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội, thiết lập, duy trì kỷ cƣơng cho xã hội ấy. Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP "Về tăng cường công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới" ngày 31/7/1998 của Chính phủ đã nhận định: ... Tình hình tội phạm ở nƣớc ta hiện nay vẫn có xu hƣớng gia tăng và diễn biến phức tạp. Cơ cấu thành phần tội phạm có những thay đổi, số thanh niên phạm tội chiếm tỷ lệ ngày càng cao. Đặc biệt là tình trạng phạm tội có tổ chức nhƣ tham nhũng, buôn lậu, mua bán phụ nữ, xâm hại trẻ em... phạm tội có sử dụng bạo lực, cƣớp của, giết ngƣời, chống ngƣời thi hành công vụ, đâm thuê, chém mƣớn, bảo kê nhà hàng và các hành vi phạm tội khác có tính chất côn đồ hung hãn; gây ra những hậu quả hết sức nghiêm trọng gây lo lắng cho toàn xã hội... [12]. Nhƣ vậy, yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm đòi hỏi không chỉ bảo vệ các quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự xác lập và bảo vệ đã bị tội phạm 5 xâm hại, mà cần bảo vệ chúng (quan hệ xã hội đó) trong những trƣờng hợp chƣa bị xâm hại. Đây còn là yêu cầu có ý nghĩa tiên quyết thể hiện chính sách hình sự của Nhà nƣớc ta. Chính sách hình sự, đúng nhƣ GS. TSKH. Đào Trí Úc đã viết, "là một bộ phận của chính sách pháp luật, bởi vì đó là những định hƣớng, những chủ trƣơng trong việc sử dụng pháp luật hình sự vào lĩnh vực đấu tranh chống tội phạm và phòng ngừa tội phạm" [53, tr. 34]. Cho nên, trƣờng hợp nếu tội phạm đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội thì cũng cần có sự nhìn nhận, đánh giá mức độ cho khách quan, chính xác và công bằng, bảo đảm sự phân hóa trách nhiệm hình sự đối với ngƣời phạm tội. Tuy nhiên, hiện nay Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành qua những lần sửa đổi, bổ sung (gần đây nhất là năm 2009) mặc dù đã có những bƣớc phát triển vƣợt bậc để đáp ứng nhu cầu thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm, song vẫn còn tồn tại, hạn chế cần phải hoàn thiện, trong đó có quy định về dấu hiệu hậu quả phạm tội với tƣ cách là dấu hiệu định tội, dấu hiệu định khung; chƣa hƣớng dẫn thống nhất về nó trong cấu thành tội phạm vật chất hay với tƣ cách là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt dẫn tới thực tế còn nhầm lẫn giữa cấu thành tội phạm vật chất và cấu thành tội phạm hình thức, ảnh hƣởng tới việc định tội danh và quyết định hình phạt, qua đó bỏ lọt tội phạm và ảnh hƣởng đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Chính vì vậy, trong bối cảnh hiện nay khi quá trình hội nhập diễn ra mạnh mẽ với xu thế toàn cầu hóa, tình hình xã hội ngày càng diễn biến phức tạp đặc biệt đòi hỏi gắt gao của công cuộc cải cách tƣ pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 với nội dung: "Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tƣ pháp phù hợp với mục tiêu của chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật", xây dựng nhà nƣớc pháp quyền thì việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói riêng để nó trở thành công cụ đắc lực của nhà nƣớc ta trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ, cũng nhƣ quyền làm chủ của nhân dân trở nên 6 vô cùng cấp thiết. Do đó, học viên đã chọn đề tài: "Dấu hiệu hậu quả phạm tội trong mặt khách quan của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Hiện nay, việc nghiên cứu về tội phạm và cấu thành tội phạm nói chung đã đƣợc quan tâm dƣới những góc độ và bình diện khác nhau. Tuy nhiên, việc nghiên cứu độc lập, riêng rẽ, và có hệ thống dấu hiệu "hậu quả phạm tội" trong mặt khách quan của tội phạm mới chỉ đƣợc đề cập gián tiếp thông hay việc phân tích chung về tội phạm, trong các sách chuyên khảo hay các Giáo trình hoặc các bài viết cụ thể theo ba nhóm nhƣ sau: * Nhóm thứ nhất, bao gồm giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình sau: 1) GS. TSKH. Lê Văn Cảm, Mục IV, phần II, Chương thứ tư - Tội phạm, Trong sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; 2) PGS.TS. Kiều Đình Thụ, Chương IX, Mặt khách quan của tội phạm, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007 (Tập thể tác giả do GS. TSKH. Lê Văn Cảm chủ biên); 3) GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1991; 4) GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2004, 2008; 5) PGS.TS. Kiều Đình Thụ, Tìm hiểu về luật hình sự Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1996; Nxb Đồng Nai, 1998; 6) TS. Trịnh Tiến Việt, Bình luận khoa học - thực tiễn về một số vấn đề của luật hình sự, Nxb Tƣ pháp, Hà Nội, 2004; 7) Viện luật học, Những vấn đề lý luận cơ bản về tội phạm trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1986; 9) Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, Tập 1, Phần các tội phạm - Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Nxb Hà Nội, 1987; v.v... 7 * Nhóm thứ hai, bao gồm các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ sau: 1) Lê Đăng Doanh, Chủ thể của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 1999; 2) Nguyễn Thị Ngọc Linh, Hành vi nguy hiểm cho xã hội với tư cách là dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010. * Nhóm thứ ba, còn có nhiều bài báo khoa học được công bố liên quan đến dấu hiệu hậu quả phạm tội như: 1) GS. TSKH. Lê Cảm, Những vấn đề lý luận về bốn yếu tố cấu thành tội phạm (Trên cơ sở Bộ luật hình sự năm 1999), Tạp chí Tòa án nhân dân số 7(4)/2005; 2) GS. TSKH. Lê Cảm, Lý luận về cấu thành tội phạm trong luật hình sự, Tạp chí Luật học, số 2/2004; 3) TS. Trịnh Tiến Việt, Bàn về mối quan hệ giữa cấu thành tội phạm và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Tạp chí Khoa học (Chuyên san kinh tế - Luật) của Đại học Quốc gia Hà Nội, số 3/2003; 4) TS. Trịnh Tiến Việt và Phan Thị Thủy, Bàn về mối quan hệ giữa cấu thành tội phạm và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, Tạp chí Khoa học (Chuyên san kinh tế - Luật) của Đại học Quốc gia Hà Nội, số 2/2003; 5) Nguyễn Phúc Lƣu, Hậu quả của tội phạm và vấn đề định khung hình phạt trong Bộ luật hình sự 1999, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật, số 2/2007; 6) Vũ Ngọc Tiếu, Lỗi cố ý gián tiếp trong mối quan hệ nhân quả, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 4/1994; v.v... Tuy nhiên, qua nghiên cứu nội dung các công trình trên cho thấy các công trình nghiên cứu sâu về cấu thành tội phạm nói chung mà những vấn đề về dấu hiệu hậu quả phạm tội chỉ chỉ chiếm một phần nhỏ, hoặc đƣợc đề cập gián tiếp qua nội dung các yếu tố cấu thành tội phạm thực sự đi sâu nghiên cứu về nó. Nói một cách khác, đến nay chƣa có một công trình khoa học nào nghiên cứu độc lập, riêng rẽ và có hệ thống ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học về vấn đề này. Do đó, việc nghiên cứu hoàn thiện pháp luật cũng nhƣ việc đƣa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự có ý nghĩa rất lớn trên các bình diện lý luận, thực tiễn áp dụng, chính trị - xã hội. 8 Vì những lý do trên, việc lựa chọn và triển khai đề tài "Dấu hiệu hậu quả phạm tội trong mặt khách quan của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam" là cần thiết. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề pháp lý cơ bản về dấu hiệu hậu quả phạm tội trong mặt khách quan của tội phạm nhƣ: Khái niệm, đặc điểm, phân loại, ý nghĩa, mối quan hệ của nó với các dấu hiệu cấu thành mặt khách quan khác, sự thể hiện dấu hiệu hậu quả phạm tội trong Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành, thực tiễn áp dụng dấu hiệu này trong thực tế đồng thời cũng đi sâu tìm hiểu các vƣớng mắc còn tồn tại trong lý luận cũng nhƣ trong thực tiễn áp dụng để đề xuất những giải pháp, kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về dấu hiệu hậu quả phạm tội trong mặt khách quan của tội phạm trong các tội phạm cụ thể và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về vấn đề này. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở mục đích nghiên cứu ở trên, luận văn có các nhiệm vụ chính sau đây: 1) Làm rõ khái niệm và các dấu hiệu trong mặt khách quan của tội phạm; phân tích khái niệm, các đặc điểm của dấu hiệu hậu quả phạm tội trong mặt khách quan của tội phạm, mối quan hệ giữa dấu hiệu hậu quả phạm tội với các dấu hiệu khác trong mặt khách quan của tội phạm; 2) Phân tích sự thể hiện dấu hiệu hậu quả phạm tội trong mặt khách quan của tội phạm theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành; 3) Phân tích và đánh giá các ví dụ, bản án điển hình về việc áp dụng dấu hiệu hậu quả phạm tội trong mặt khách quan của tội phạm trong thực tiễn xét xử ở nƣớc ta thời gian vừa qua; 4) Nghiên cứu việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành về dấu hiệu hậu quả phạm tội 9 5) Luận văn đƣa ra những giải pháp để nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành về dấu hiệu hậu quả phạm tội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu đúng nhƣ tên gọi của nó - Dấu hiệu hậu quả phạm tội trong mặt khách quan của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu những vấn đề xung quanh dấu hiệu hậu quả phạm tội, và thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan tới nó dƣới góc độ khoa học luật hình sự. Trên cơ sở đó, chỉ ra những tồn tại, hạn chế cần khắc phục. Đồng thời, đƣa ra những kiến giải nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng dấu hiệu hậu quả phạm tội trong thực tiễn xét xử. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và những chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, nhà nƣớc ta về công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu tác giả có tiếp thu chọn lọc các công trình khoa học đã công bố, các đánh giá của cơ quan chuyên môn và các chuyên gia nghiên cứu về vấn đề có liên quan đến dấu hiệu hậu quả phạm tội. 5.2. Các phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ sau: Phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội học; phƣơng pháp so sánh, đối chiếu; phân tích thuần túy các quy định của pháp luật; khảo sát thực tế...để phân tích các vấn đề khoa học trong luận văn. 10 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Về lý luận, kết quả nghiên cứu luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về dấu hiệu hậu quả phạm tội trong mặt khách quan của tội phạm. Cụ thể đã làm rõ đƣợc các vấn đề chung về dấu hiệu hậu quả phạm tội, phân tích nó trong tƣơng quan với các dấu hiệu khác trong mặt khách quan của tội phạm, chỉ ra các mâu thuẫn, bất cập của quy định hiện hành, chỉ ra các sai sót trong quá trình áp dụng các quy định đó, đồng thời cũng chỉ ra những nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về vấn đề này. Về thực tiễn, luận văn đã phân tích và đánh giá các ví dụ, bản án điển hình về việc áp dụng dấu hiệu hậu quả phạm tội trong mặt khách quan của tội phạm trong thực tiễn xét xử ở nƣớc ta trong thời gian vừa qua; qua đó, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo, học tập. Đặc biệt, những đề xuất của luận văn có ý nghĩa góp phần hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về vấn đề này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, kết luận danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu ba chƣơng với nội dung sau đây: Chương 1: Các vấn đề chung về dấu hiệu hậu quả phạm tội trong mặt khách quan của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam Chương 2: Sự thể hiện dấu hiệu hậu quả phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành và thực tiễn áp dụng Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành liên quan tới dấu hiệu hậu quả phạm tội 11 Chương 1 CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DẤU HIỆU HẬU QUẢ PHẠM TỘI TRONG MẶT KHÁCH QUAN CỦA TỘI PHẠM THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC DẤU HIỆU TRONG MẶT KHÁCH QUAN CỦA TỘI PHẠM 1.1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc nghiên cứu mặt khách quan của tội phạm * Khái niệm mặt khách quan của tội phạm Cố Tổng Bí thƣ Lê Duẩn đã nói: Con ngƣời vốn là sản phẩm của lịch sử, hành động của họ ít nhiều bị chi phối bởi hoàn cảnh xã hội khách quan. Trong những trƣờng hợp phạm pháp, có ngƣời không hiểu mà làm điều sai trái, có ngƣời phạm tội vì tham lam, vì ghen ghét, có ngƣời vì hoàn cảnh đau ốm, túng thiếu thúc bách, có ngƣời vì nhẹ dạ mà bị mua chuộc, phỉnh phờ [14, tr. 58]. Dù bị chi phối bởi yếu tố nào đi nữa, có thể khẳng định tội phạm là một hiện tƣợng xã hội pháp lý gắn liền với sự ra đời của nhà nƣớc và pháp luật, cũng nhƣ sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng mà "xét về mặt cấu trúc, tội phạm đƣợc hợp thành bởi bốn yếu tố là chủ thể, khách thể, mặt khách quan và mặt chủ quan của tội phạm. Sự thống nhất của bốn yếu tố này là hình thức cấu trúc, thể hiện nội dung chính trị, xã hội của tội phạm" [20, tr. 111]. Mỗi một yếu tố đó có một vị trí, vai trò khác nhau trong cấu thành các tội phạm cụ thể. Đề cập đến một cấu thành tội phạm không thể không nói tới mặt khách quan của tội phạm. Theo đó, khi một ngƣời nào đó thực hiện hành vi 12 nguy hiểm cho xã hội cấu thành tội phạm cụ thể thì tất yếu nó phải bao gồm cả yếu tố bên ngoài và yếu tố bên trong. Các dấu hiệu bên ngoài cấu thành mặt khách quan của tội phạm bao gồm: Hành vi nguy hiểm cho xã hội; hậu quả phạm tội; mối quan hệ giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả phạm tội; cùng với các yếu tố khác nhƣ: Phƣơng pháp, phƣơng tiện, thủ đoạn và hoàn cảnh phạm tội. Nói một cách chung nhất thì mặt khách quan của tội phạm chính là sự tổng hòa mặt bên ngoài bao gồm các dấu hiệu biểu hiện của tội phạm diễn ra trong thế giới khách quan. * Ý nghĩa của việc nghiên cứu mặt khách quan của tội phạm Mặt khách quan của tội phạm có thể gây ra những thay đổi nguy hiểm trong hiện thực khách quan, nếu xác định đúng mặt khách quan của tội phạm có ý nghĩa trƣớc hết đối việc định tội, nó giúp cho hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhƣ Toà án, các cơ quan bảo vệ pháp luật khác phân biệt đúng từng tội phạm cụ thể. Ví dụ: Do thù hằn với B nên A đã chuẩn bị dao và dùng dao đâm B nhiều nhát cho đến khi B ngừng thở. Nhƣ vậy, hành vi của A đã trực tiếp xâm phạm tới tính mạng của B, dẫn tới việc B chết. Hành vi của A và hậu quả là B chết có mối quan hệ nhân quả với nhau.Việc xem xét các dấu hiệu này có ý nghĩa quan trọng đối với việc định tội. Bên cạnh đó, trong cấu thành tội phạm tăng nặng của một số tội phạm cụ thể dấu hiệu hậu quả phạm tội biểu hiện thuộc mặt khách quan của tội phạm có ý nghĩa là dấu hiệu định khung hình phạt. Ví dụ: Gây tổn hại sức khỏe cho nạn nhân mà tỷ lệ thƣơng tật từ 31% đến 60% là dấu hiệu định khung tăng nặng đƣợc quy định tại điểm c khoản 2 Điều 112 Tội hiếp dâm trẻ em đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999. Thậm chí, trong các tình tiết tăng nặng, hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự có những tình tiết thuộc mặt khách quan của tội phạm có ý nghĩa trong việc xác định mức độ nguy hiểm 13 của hành vi phạm tội và vấn đề trách nhiệm hình sự đối với ngƣời thực hiện tội phạm. Ví dụ: Hành vi tự nguyện sửa chữa, bồi thƣờng thiệt hại, khắc phục hậu quả quy định tại điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, là trƣờng hợp ngƣời phạm tội gây ra thiệt hại cho khách thể của tội phạm thì hoàn toàn tự nguyện không có sự ép buộc nào đã thực hiện hành vi sửa chữa, bồi thƣờng và khắc phục thiệt hại do mình gây ra. Hay theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 46 thì trƣờng hợp phạm tội chƣa gây thiệt hại hay thiệt hại không lớn cũng là một tình tiết quan trọng để tòa án xem xét khi quyết định hình phạt đối với ngƣời đã thực hiện hành vi phạm tội. Cuối cùng, trong một chừng mực nhất định từ các dấu hiệu trong mặt khách quan của tội phạm, ta có thể xác định đƣợc mặt chủ quan của tội phạm. Ví dụ: Hành vi của A cầm dao đâm B, B bỏ chạy nhƣng A cố chạy theo và đâm nhiều nhát vào những chỗ hiểm dẫn tới B chết. Qua việc A dùng hung khí nguy hiểm và chạy theo truy sát tới cùng, có thể xác định lỗi của A khi thực hiện hành vi phạm tội của mình là lỗi cố ý. 1.1.2. Các dấu hiệu trong mặt khách quan của tội phạm Nhƣ đã trình bày ở trên, mặt khách quan của tội phạm bao gồm nhiều dấu hiệu đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả phạm tội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả phạm tội, phƣơng tiện phạm tội, phƣơng pháp, thủ đoạn thực hiện tội phạm, thời gian phạm tội địa điểm phạm tội, hành động phạm tội, mỗi dấu hiệu có một vị trí, vai trò khác nhau trong các cấu thành tội phạm. Có dấu hiệu bắt buộc mang tính chất quyết định không thể thiếu trong bất kỳ tội phạm nào. Bên cạnh đó cũng có những dấu hiệu khác tuy không đóng vai trò quyết định nhƣng có ý nghĩa nhất định khi định khung hình phạt. Các dấu hiệu trên có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mặt khách quan của tội phạm. Trƣớc hết, phải kể tới dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội với ý nghĩa là một dấu hiệu bắt buộc cấu thành mặt khách quan của tội phạm. 14 * Hành vi nguy hiểm cho xã hội Là một dấu hiệu bắt buộc trong tất cả các cấu thành tội phạm, cho tới nay vẫn chƣa có một khái niệm, phân loại thống nhất về hành vi nguy hiểm cho xã hội. Tuy nhiên, có thể hiểu: "Hành vi nguy hiểm cho xã hội là cách xử sự của con ngƣời thể hiện ra bên ngoài thế giới khách quan dƣới những hình thức nhất định, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ" [38, tr. 167]. Nói đến hành vi, chúng ta có thể hiểu đó là những biểu hiện thể hiện ra bên ngoài thế giới khách quan dƣới những hình thức nhất định có sự kiểm soát của ý thức và sự điều khiển của ý chí. Hành vi gây nên những thiệt hại cho khách thể của tội phạm. Nói một cách khác, "Hành vi nguy hiểm cho xã hội chính là cầu nối giữa khách thể và chủ thể" [20, tr. 63], sẽ không có tội phạm và ngƣời phạm tội nếu nhƣ không có hành vi nguy hiểm cho xã hội. Theo luật hình sự Việt Nam, hành vi nguy hiểm cho xã hội có các đặc điểm sau: Thứ nhất, hành vi nguy hiểm cho xã hội với ý nghĩa là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của tội phạm phải có tính nguy hiểm cho xã hội. Đây là đặc điểm có tính chất quan trọng và quyết định nhất trong việc phân biệt một hành vi là vi phạm pháp luật khác với hành vi phạm tội. Về mặt khách quan, hành vi nguy hiểm cho xã hội gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại tới những quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự xác lập và bảo vệ. Những quan hệ xã hội đó đƣợc quy định trong khoản 1, Điều 8 của Bộ luật hình sự bao gồm: Độc lập, chủ quyền, thống nhất và sự toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức chính trị, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, quyền và những lợi ích hợp pháp khác của công dân, trật tự xã hội chủ nghĩa. Có nghĩa là, nếu không xâm phạm những quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ thì hành vi đó dù có nguy hiểm cho xã hội thì cũng không phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Điều đó có nghĩa là quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự xác lập và bảo vệ đóng vai trò quan trọng 15 trong việc quyết định hành vi nào đó là tội phạm hay không phải là tội phạm. Theo đó, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phụ thuộc vào tính chất và tầm quan trọng của những quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự xác lập và bảo vệ cũng nhƣ mức độ thiệt hại do hành vi đó gây ra. Tính chất quan trọng của quan hệ xã hội phụ thuộc vào ý nghĩa của nó đối với giai cấp thống trị và ý nghĩa này có thể thay đổi qua các giai đoạn lịch sử khác nhau. Tuy nhiên, nó không phải là yếu tố duy nhất phản ánh tính nguy hiểm cho xã hội mà nó phải kết hợp với các yếu tố khác trong cấu thành tội phạm nhƣ lỗi, động cơ phạm tội của ngƣời thực hiện hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã hội đó. Thứ hai, hành vi nguy hiểm cho xã hội với ý nghĩa là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của tội phạm phải là hoạt động có ý thức và ý chí. Hành vi của con ngƣời là sự thống nhất giữa yếu tố bên ngoài và bên trong. Điều này có nghĩa, một ngƣời bình thƣờng, khỏe mạnh về mặt tâm lý, có lý trí, tự do ý chí thì hoàn toàn có thể lựa chọn cho mình một xử sự phù hợp với lợi ích của mình, của cộng đồng. Nhƣ vậy, đòi hỏi hành vi của con ngƣời phải có ý thức và ý chí. Về mặt ý thức, ngƣời đó phải nhận thức đƣợc đầy đủ tính chất nguy hiểm và tính trái pháp luật của hành vi mà mình gây ra cho xã hội. Về ý chí, hành động của ngƣời đó phải đƣợc cân nhắc, suy nghĩ, có kế hoạch, biện pháp để thực hiện những mục đích đó. Không thể có hành vi khách quan của tội phạm mà những biểu hiện ra bên ngoài của nó không đƣợc ý thức của họ kiểm soát hoặc ý chí của họ điều khiển. Đối với trƣờng hợp ngƣời bị bệnh tâm thần họ mất khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình và do đó họ là ngƣời không có năng lực trách nhiệm hình sự cho nên dù họ có thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhƣ gây thƣơng tích, phá hoại tài sản của ngƣời khác thì cũng không bị coi là tội phạm và không phải chịu trách nhiệm hình sự. Đặc biệt, đối với những ngƣời dƣới 14 tuổi không có khả năng nhận thức đƣợc đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi hoặc không đủ 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan