Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đánh giá tiềm năng và xây dựng định hướng phát triển bền vững khu du lịch sinh t...

Tài liệu đánh giá tiềm năng và xây dựng định hướng phát triển bền vững khu du lịch sinh thái bình châu phước bửu (tỉnh bà rịa vũng tàu)

.PDF
103
260
61

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Hồng Chuyên ngành : Địa lí học Mã số : 60 31 95 LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM XUÂN HẬU Thành phố Hồ Chí Minh – 2009 LỜI CẢM ƠN  Tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Khoa học Công nghệ và Sau Đại học, Ban Chủ nhiệm khoa Địa lí và các Thầy Cô trong khoa Địa lí trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.  Xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Phạm Xuân Hậu Thầy đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn.  Xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu và các Thầy Cô trong trường THPT Hắc Dịch tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn.  Cuối cùng, Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn gia đình, những người thân yêu, bạn hữu đã dành tình cảm, động viên và giúp đỡ trong những ngày học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Thành phố Hồ Chí Minh 2009 Tác giả Nguyễn Thị Hồng MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Hiện nay, dưới áp lực của công việc và cuộc sống văn minh, hiện đại và tiện nghi… Nhu cầu được nghỉ ngơi, thư giãn của con người ngày càng tăng. Mặt khác, cùng với sự sang trọng, tiện nghi và văn minh của cuộc sống ngày càng cao, hàng loạt các công trình, nhà máy, cơ sở bê tông, cốt thép đã mọc lên san bằng, lấp đầy các cánh đồng, khu vườn, khu rừng, các hệ sinh thái… kết hợp với hàng loạt các chất thải từ chính cuộc sống của con người (dù đã được xử lí) đã làm cho môi trường sống của con người phần nào giảm sút. Nhu cầu được sống với tự nhiên, thư giãn trong môi trường thông thoáng, mát mẻ, trong lành cùng tự nhiên là một điều tất yếu. Chính vì vậy, trong những thập niên gần đây, nhu cầu đi du lịch của người dân ngày càng tăng, đặc biệt là nhu cầu du lịch sinh thái (DLST). Do vậy, những nơi có điều kiện để phát triển loại hình DLST hiện nay đang là mảnh đất rất màu mỡ của các nhà đầu tư bởi những món lợi khổng lồ mà họ sẽ có được. Tuy nhiên, loại hình DLST này muốn tồn tại và phát triển liên tục theo thời gian, đem lại hiệu quả kinh tế lâu dài rất cần có sự quy hoạch, khai thác, sử dụng và bảo vệ một cách hợp lí bởi tính rất nhạy cảm của nó trong quá trình khai thác và sử dụng. Khu bảo tồn thiên nhiên (BTTN) Bình Châu - Phước Bửu có tiềm năng rất lớn để phát triển loại hình du lịch (LHDL) này. Vì vậy, khu bảo tồn đã tiến hành khai thác, phát triển LHDL này theo Quyết định số 4102/QĐ.UB ngày 20 tháng 5 năm 2002 của uỷ ban nhân dân (UBND) Tỉnh về việc phê duyệt dự án phát triển DLST ở khu BTTN Bình Châu - Phước Bửu giai đoạn 2002 – 2006. Trong quá trình khai thác, phát triển DLST tại khu bảo tồn đã nảy sinh một số vấn đề như: bê tông hoá tự nhiên, một số nguồn tài nguyên thiên nhiên bị tác động ngược, hiệu quả kinh tế, bảo vệ môi trường… vẫn còn hạn chế. Do đó, khi được tiếp cận với bộ môn “các vấn đề tổ chức lãnh thổ du lịch”, Tác giả đã chọn đề tài “Đánh giá tiềm năng và xây dựng định hướng phát triển bền vững khu du lịch sinh thái Bình Châu Phước Bửu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu” để nghiên cứu. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích - Tìm hiểu, củng cố những lí luận về DLST và phát triển bền vững (PTBV) du lịch. - Đánh giá tiềm năng và hiện trạng khai thác tài nguyên phát triển DLST tại khu Bình Châu – Phước Bửu. - Xây dựng định hướng PTBV du lịch. 2.2. Nhiệm vụ - Nghiên cứu những lí luận về DLST và PTBV du lịch. - Điều tra, khảo sát, thu thập tư liệu, thông tin phục vụ cho việc đánh giá tiềm năng và hiện trạng khai thác tài nguyên phát triển DLST tại khu Bình Châu – Phước Bửu. - Xây dựng định hướng PTBV du lịch. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Trong đề tài nghiên cứu này, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu các nguồn tài nguyên DLST (địa hình, khí hậu, sinh vật, biển và bờ biển, các lễ hội, di tích văn hoá lịch sử, các hệ sinh thái nông nghiệp…), các điều kiện phục vụ cho hoạt động du lịch (HĐDL) như: cơ sở hạ tầng du lịch (CSHTDL), cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch (CSVCKTDL), nguồn nhân lực du lịch, nguồn vốn đầu tư cho du lịch và thực trạng khai thác, phát triển tại khu DLST Bình Châu - Phước Bửu thuộc huyện Xuyên Mộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu từ năm 2002 đến năm 2007. 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu - Về mặt khoa học: Đề tài góp phần củng cố cơ sở lí luận PTBV du lịch. - Về mặt thực tiễn: Đề tài giúp cho các nhà quản lí doanh nghiệp du lịch, quản lí địa phương lập kế hoạch, điều chỉnh phát triển du lịch nói riêng kinh tế nói chung của địa phương, Tỉnh và khu vực. 5. Lịch sử nghiên cứu đề tài 5.1. Trên thế giới Trong vài chục năm gần đây, du lịch trên thế giới phát triển rộng rãi và bắt đầu nảy sinh những ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế, văn hoá – xã hội và môi trường của lãnh thổ đón khách. Vì thế các nhà du lịch thế giới quan tâm nhiều tới việc nghiên cứu những tác động xấu do du lịch gây ra đối với môi trường và đề xuất một chiến lược phát triển du lịch mới tôn trọng môi trường. Ngay từ những năm 1980, khi các vấn đề về PTBV bắt đầu được đề cập đã có nhiều nhà nghiên cứu khoa học thực hiện nhằm phân tích những ảnh hưởng của du lịch đến sự PTBV. Trọng tâm của các nhà nghiên cứu này nhằm giải thích cho sự cần thiết phải đảm bảo tính trọn vẹn của môi trường sinh thái trong khi tiến hành các hoạt động khai thác tài nguyên phục vụ cho phát triển du lịch tạo nền tảng cho sự PTBV. Krippendorf (1975) và Jungk (1980) là những nhà khoa học đầu tiên trên thế giới cảnh báo về những suy thoái do hoạt động du lịch (HĐDL) gây ra và đưa ra khái niệm về loại “Du lịch rắn – hard tourism” để chỉ LHDL ồ ạt và “Du lịch mềm – soft tourism” để chỉ một chiến lược du lịch mới tôn trọng môi trường. Ngày 14/6/1992, tại Hội nghị của Liên hợp quốc về môi trường và phát triển (UNCED) đã diễn ra Hội nghị thượng đỉnh về Trái Đất (Earth sumit). Tại hội nghị này, 182 chính phủ đã thông qua chương trình nghị sự 21 (Agenda 21), một chương trình hành động toàn diện nhằm bảo đảm một tương lai bền vững cho nhân loại bước vào thế kỉ XXI. Từ đầu những năm 1990, nhiều nhà nghiên cứu về phát triển du lịch bền vững nhằm hạn chế các tác động tiêu cực của hành động du lịch, đảm bảo sự phát triển lâu dài đã được tiến hành. Một số LHDL quan tâm đến môi trường đã bắt đầu xuất hiện như : “DLST”, “Du lịch khám phá”, “Du lịch gắn với thiên nhiên”, “Du lịch thay thế”, “Du lịch mạo hiểm”,… đã góp phần nâng cao hình ảnh về một LHDL có trách nhiệm, đảm bảo sự PTBV. Năm 1996, hưởng ứng chương trình hành động của Hội nghị Earth Sumit, ngành du lịch toàn cầu đại diện bởi 3 tổ chức quốc tế gồm Hội đồng lữ hành du lịch thế giới (WTTC), Tổ chức du lịch thế giới và Hội đồng Trái Đất (Earth council), đã ứng dụng những nguyên tắc của Agenda 21 vào du lịch, phối hợp xây dựng một chương trình hành động với tên gọi “Chương trình nghị sự 21 về du lịch hướng tới PTBV về môi trường”. Chương trình này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp du lịch, các Chính phủ, các cơ quan du lịch quốc gia, các tổ chức thương mại và người đi du lịch. Chương trình nghị sự 21 về du lịch đã đưa ra các lĩnh vực ưu tiên hành động với mục đích xác định và dự kiến các bước tiến hành. Chương trình này nhấn mạnh sự cần thiết phải phối hợp hành động giữa Chính phủ, ngành du lịch và các tổ chức phi Chính phủ, phân tích tầm quan trọng về chiến lược và kinh tế của ngành du lịch, đồng thời nêu bật những lợi ích to lớn của việc phát triển du lịch theo hướng bền vững. 5.2. Ở Việt Nam Các công trình nghiên cứu về du lịch được quan tâm nhiều từ thập niên 90 của thế kỉ XX trở lại đây cùng với sự khởi sắc của ngành du lịch nước ta. Các công trình nổi bật như: “Tổ chức lãnh thổ du lịch Việt Nam” của Viện nghiên cứu phát triển du lịch (1991); “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam 1995 – 2010” của Tổng cục du lịch (1994); “Địa lí du lịch” của nhóm tác giả: Nguyễn Minh Tuệ - Vũ Tuấn Cảnh – Lê Thông - Phạm Xuân Hậu - Nguyễn Kim Hồng (1996); … với quy mô và phạm vi lãnh thổ khác nhau. Trong những năm gần đây, các tác động của du lịch đến môi trường tự nhiên và xã hội đang là mối quan tâm lớn của nhiều nhà nghiên cứu. Điều này cho thấy sự quan tâm đến môi trường trong HĐDL đang ngày càng trở nên bức thiết. Hàng loạt các cuộc hội thảo như: “Hội thảo quốc tế về phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam” do Tổng cục du lịch Việt Nam kết hợp với quỹ Hains Seidel (Cộng hoà liên bang Đức) tổ chức tại Huế (tháng 5/1997), “Hội thảo về DLST với PTBV ở Việt Nam” tại Hà Nội, tháng 4/1998…và các công trình nghiên cứu về DLST đã ra đời như: “Du lịch sinh thái, những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển ở Việt Nam” của Phạm Trung Lương (2002); “Phát triển bền vững du lịch biển Cửa Lò thực trạng và những vấn đề đặt ra” của Phạm Trung Lương (2006); “Quy hoạch không gian để bảo tồn thiên nhiên ở khu bảo tồn thiên nhiên Vũ Quang, một phương pháp tiếp cận sinh thái” trong Dự án bảo tồn khu bảo tồn thiên nhiên Vũ Quang IUCN WWF;… Bà Rịa – Vũng Tàu, với tiềm năng phát triển DLST vốn có của mình cũng đã và đang hoà nhập cùng với xu thế phát triển du lịch chung của cả nước và thế giới, hướng đến phát triển du lịch bền vững, tăng cường đầu tư phát triển LHDL mới có khả năng góp phần quan trọng vào phát triển du lịch bền vững, đó là DLST. Song do đây là một LHDL còn mới mẻ đối với cả nước nên nhận thức về LHDL này còn nhiều hạn chế và việc khai thác LHDL này như thế nào để đạt hiệu quả còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, trong thời gian qua, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã đầu tư rất nhiều cho việc nghiên cứu, đánh giá tiềm năng, thực trạng phát triển DLST tại Tỉnh nhà như: công trình nghiên cứu khoa học “Nghiên cứu phát triển DLST tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu” của Công ty du lịch dịch vụ dầu khí Việt Nam (OSC Việt Nam), “Dự án phát triển DLST ở Khu BTTN Bình Châu - Phước Bửu” của Phân viện điều tra quy hoạch rừng II, “Dự án đầu tư xây dựng Khu BTTN Bình Châu - Phước Bửu giai đoạn II (2002 – 2006)” của Sở NN&PTNT Bà Rịa – Vũng Tàu,… Như vậy, đề tài này đã và đang được rất nhiều cơ quan ban ngành, cá nhân và tập thể tập trung nghiên cứu nhưng hầu hết đều tập trung nghiên cứu ở tầm vĩ mô, chiến lược và chưa nghiên cứu cụ thể. Đây sẽ là những tài liệu tham khảo quý giá để tác giả hoàn thành đề tài luận văn của mình. 6. Hệ quan điểm và phương pháp nghiên cứu 6.1. Những quan điểm chủ yếu 6.1.1. Quan điểm hệ thống lãnh thổ Phát triển DLST ở bất kì cấp vùng hoặc trung tâm nào cũng phải là một phần cấu thành không tách rời trong hệ thống du lịch chung của cả nước. Quan điểm hệ thống còn đặc biệt có ý nghĩa trong quá trình nghiên cứu các hệ sinh thái đặc thù với sự phân hóa theo lãnh thổ từ cấp quốc gia tới cấp vùng và điểm. Mặt khác, các đối tượng nghiên cứu của sinh thái cần được xác định trên lãnh thổ để phân tích, nghiên cứu tìm ra những khác biệt và mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. 6.1.2. Quan điểm tổng hợp Quan điểm tổng hợp là quan điểm truyền thống của địa lí học nói riêng và nghiên cứu tự nhiên nói chung được xét dưới hai góc độ khác nhau: - Nghiên cứu đồng bộ toàn diện về các điều kiện tự nhiên, tài nguyên DLST đứng từ góc độ tự nhiên và nhân văn, các yếu tố kinh tế, sự phân bố và biến động của chúng, những mối quan hệ tương tác, chế ngự lẫn nhau giữa các yếu tố hợp phần của các tổng thể địa lí. - Sự kết hợp, phối hợp có quy luật, có hệ thống trên cơ sở phân tích đồng bộ và toàn diện các yếu tố hợp phần của các thể tổng hợp lãnh thổ du lịch, phát hiện và xác định những đặc điểm đặc thù của các thể tổng hợp lãnh thổ địa lí. 6.1.3. Quan điểm môi trường – sinh thái Du lịch hiện nay đã thực sự trở thành một ngành kinh tế, mà hoạt động kinh tế rõ ràng phải tính đến lợi ích và chi phí. Những lợi ích thu về trong HĐDL không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế và văn hoá mà còn phải tính đến lợi ích về môi trường sinh thái. Do đó phải tính đến những thiệt hại tới môi trường, tới hệ sinh thái ở các điểm - tuyến du lịch do tác động của HĐDL. Điều này có ý nghĩa đặc biệt đối với phát triển DLST bởi sự tồn tại của LHDL này phụ thuộc hoàn toàn vào tình trạng của các hệ sinh thái và môi trường. 6.1.4. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh Quan điểm này được thể hiện ở chỗ: - Chú ý tới khía cạnh địa lí, lịch sử khi xác định tổ chức không gian DLST trên phạm vi khu vực và cả nước nói chung. - Phân tích quá trình hình thành và phát triển tuyến điểm DLST trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể. 6.2. Các phương pháp nghiên cứu 6.2.1. Phương pháp phân tích tổng hợp và phân tích hệ thống Đây là phương pháp cơ bản được sử dụng phổ biến trong hầu hết các công trình nghiên cứu khoa học. Phương pháp này được sử dụng đặc biệt có hiệu quả trong nghiên cứu tự nhiên và tổ chức khai thác lãnh thổ du lịch. Phát triển DLST có liên quan chặt chẽ tới các điều liện tự nhiên, KT - XH. Vì vậy, trong nghiên cứu đây là phương pháp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. 6.2.2. Phương pháp điều tra thực địa và phỏng vấn Đây là phương pháp thường xuyên được sử dụng trong việc nghiên cứu địa lí KT - XH nhằm thu thập thêm thông tin tin cậy đồng thời giúp người nghiên cứu kiểm nghiệm lại độ chính xác của một số thông tin để từ đó đưa ra những kết luận chính xác hơn. Công tác thực địa có mục đích cơ bản là kiểm tra chỉnh lí bổ sung những tư liệu về tài nguyên, cơ sở hạ tầng phục vụ trực tiếp cho hoạt động DLST và các tài liệu liên quan khác, đối chiếu và lên danh mục cụ thể từng địa danh, thể loại liên quan du lịch và sơ bộ đánh giá các yếu tố cần thiết cho việc hình thành tổ chức không gian DLST khu Bình Châu - Phước Bửu. 6.2.3. Phương pháp sơ đồ, bản đồ Đây là phương pháp cần thiết trong quá trình nghiên cứu bất kì tổ chức không gian lãnh thổ du lịch nào, đặc biệt là khi nghiên cứu cơ sở khoa học cho phát triển DLST nói chung và tổ chức không gian hoạt động DLST nói riêng. Bản đồ được sử dụng chủ yếu theo hướng chuyên ngành với việc thể hiện sự phân bố lãnh thổ của các khu bảo tồn tự nhiên, các hệ sinh thái đặc thù, hệ thống cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật. Phương pháp bản đồ sẽ đặc biệt có hiệu quả khi sử dụng công nghệ GIS để phân tích đánh giá tiềm năng DLST căn cứ vào mức độ quan trọng và phân hoá lãnh thổ của các tài nguyên và điều kiện có liên quan cũng như để phân tích phát hiện mối quan hệ trong tổ chức không gian DLST. 6.2.4. Phương pháp thu thập tài liệu Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã tiến hành thu thập các số liệu, tư liệu từ nhiều nguồn khác nhau: sách, báo, các báo cáo của Sở du lịch, Sở kế hoạch đầu tư, báo cáo của Ban quản lí các khu du lịch, phòng kinh tế huyện Xuyên Mộc, khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu - Phước Bửu, khu du lịch suối khoáng nóng Bình Châu, niên giám thống kê tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, các Website… 6.2.5. Phương pháp so sánh, phân tích tổng hợp Các tư liệu sau khi tiến hành thu thập từ các nguồn khác nhau luôn có những chênh lệch và mang tính rải rác, liệt kê. Do đó, để các tư liệu đó thể hiện được đầy đủ, chính xác, rõ ràng vấn đề, tác giả đã tiến hành xử lí, so sánh đối chiếu các số liệu, dữ liệu với nhau và phân tích, tổng hợp thành nội dung hoàn chỉnh. 6.2.6. Phương pháp phân tích hệ thống Đối tượng nghiên cứu địa lí KT - XH là những hệ thống động phức tạp, bao gồm nhiều phần tử nhỏ có bản chất khác nhau, thường xuyên tác động và mối quan hệ tác động qua lại của chúng. Do đó, cần phải phân tích mối liên hệ đa dạng, đa chiều trong và ngoài hệ thống về các mặt quy mô số lượng, tốc độ tăng trưởng,… 7. Cấu trúc đề tài Tên đề tài : “Đánh giá tiềm năng và xây dựng định hướng phát triển bền vững khu du lịch sinh thái Bình Châu - Phước Bửu (tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu)” Đề tài gồm có 3 phần: mở đầu, nội dung và kết luận Phần nội dung gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lí luận về phát triển bền vững du lịch sinh thái Chương 2: Đánh giá tiềm năng và hiện trạng phát triển du lịch sinh thái ở Bình Châu - Phước Bửu Chương 3: Những định hướng phát triển bền vững khu du lịch sinh thái Bình Châu - Phước Bửu Ngoài ra, đề tài còn có phần phụ lục và danh mục các tài liệu tham khảo Chương 1 : CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG DU LỊCH SINH THÁI 1.1. Một số khái niệm 1.1.1. Du lịch sinh thái “Du lịch sinh thái” (Ecotourism) là một khái niệm tương đối mới và đã nhanh chóng thu hút được sự quan tâm của nhiều người thuộc các lĩnh vực khác nhau. Đây là một khái niệm rộng, được hiểu khác nhau từ các góc độ khác nhau. Đối với một số người, “DLST” đơn giản được hiểu là sự kết hợp ý nghĩa của 2 từ ghép “du lịch” và “sinh thái” vốn đã quen thuộc. Song đứng ở góc nhìn rộng hơn, tổng quát hơn thì một số người quan niệm DLST là du lịch thiên nhiên, là khái niệm mà trong thực tế đã xuất hiện từ đầu những năm 1980 (Ashton, 1993). Với khái niệm này, mọi HĐDL có liên quan đến thiên nhiên như tắm biển, nghỉ núi,… đều được hiểu là DLST. Cũng có người quan niệm DLST là LHDL có lợi cho sinh thái, ít có tác động tiêu cực đến sự tồn tại và phát triển của các hệ sinh thái nơi diễn ra các HĐDL. Có những ý kiến cho rằng DLST đồng nghĩa với du lịch đạo lí, du lịch có trách nhiệm, du lịch xanh, có lợi cho môi trường hay có tính bền vững. Như vậy, cho đến nay khái niệm DLST vẫn còn được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, mặc dù những tranh luận vẫn còn tiếp tục nhằm đưa ra một định nghĩa chung được chấp nhận về DLST, nhưng đa số ý kiến tại các diễn đàn quốc tế chính thức về DLST đều cho rằng: “DLST là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, hỗ trợ cho các hoạt động bảo tồn và được quản lí bền vững về mặt sinh thái. Du khách sẽ được hướng dẫn thăm quan với những diễn giải cần thiết về môi trường để nâng cao hiểu biết, cảm nhận được những giá trị thiên nhiên và văn hoá mà không gây ra những tác động không thể chấp nhận đối với các hệ sinh thái và văn hoá bản địa”. Về nội dung, DLST là LHDL thăm quan, thám hiểm, đưa du khách tới những môi trường còn tương đối nguyên vẹn, về các vùng thiên nhiên hoang dã, đặc sắc để tìm hiểu nghiên cứu các hệ sinh thái và các nền văn hoá bản địa độc đáo, làm thức dậy ở du khách tình yêu và trách nhiệm bảo tồn, phát triển đối với tự nhiên và cộng đồng địa phương. Nói một cách khác, DLST là LHDL với những hoạt động có sự nhận thức mạnh mẽ về thiên nhiên và ý thức trách nhiệm đối với xã hội. Thuật ngữ “Responsible Travel” (Du lịch trách nhiệm) luôn gắn liền với khái niệm DLST. Đây là hình thức du lịch có trách nhiệm, không làm ảnh hưởng đến môi trường và góp phần duy trì, phát triển cuộc sống của cộng đồng người dân địa phương. Tóm lại, có thể coi DLST là LHDL có những đặc tính cơ bản: - Phát triển dựa vào những giá trị hấp dẫn của thiên nhiên và văn hoá bản địa. - Được quản lí bền vững về môi trường sinh thái. - Có giáo dục và diễn giải về môi trường. - Có đóng góp cho những nỗ lực bảo tồn và phát triển cộng đồng. Định nghĩa tương đối hoàn chỉnh về DLST lần đầu tiên được Hector Ceballos – Lascurain đưa ra năm 1987: “DLST là du lịch đến những khu vực tự nhiên còn ít bị thay đổi với những mục đích đặc biệt: nghiên cứu, thăm quan với ý thức trân trọng Thế giới hoang dã và những giá trị văn hoá được khám phá”. Đến nay, định nghĩa về DLST được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đưa ra, điển hình là: “DLST là du lịch đến các khu vực còn tương đối hoang sơ với mục đích tìm hiểu về lịch sử môi trường tự nhiên và văn hoá mà không làm thay đổi sự vẹn toàn của các hệ sinh thái. Đồng thời tạo những cơ hội về kinh tế để ủng hộ việc bảo tồn tự nhiên và mang lại lợi ích về tài chính cho người dân địa phương” (Wood, 1991). “DLST được phân biệt với những LHDL thiên nhiên khác về mức độ giáo dục cao đối với môi trường và sinh thái, thông qua những hướng dẫn viên có nghiệp vụ lành nghề. DLST tạo ra mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên hoang dã cùng với ý thức được giáo dục để biến bản thân khách du lịch thành những người đi đầu trong công tác bảo vệ môi trường, đảm bảo cho địa phương được hưởng nguồn lợi tài chính do du lịch mang lại và chú trọng đến những đóng góp tài chính cho việc bảo tồn thiên nhiên” (Allen, 1993). Mặc dù có chung những quan niệm cơ bản về DLST, song căn cứ vào những đặc thù và mục tiêu phát triển, mỗi quốc gia, mỗi tổ chức quốc tế đều phát triển những định nghĩa riêng của mình về DLST. Một số định nghĩa về DLST khá tổng quát có thể xem xét đến là: Định nghĩa của Malaixia: “DLST là HĐDL và thăm viếng một cách có trách nhiệm về mặt môi trường, tới những khu thiên nhiên còn nguyên vẹn, nhằm tận hưởng và trân trọng các giá trị của thiên nhiên (và những đặc tính văn hoá kèm theo, trước đây cũng như hiện nay), mà hoạt động này sẽ thúc đẩy công tác bảo tồn, có ảnh hưởng của du khách không lớn và tạo điều kiện cho dân chúng địa phương được tham dự một cách tích cực, có lợi về kinh tế và xã hội”. Định nghĩa của Ôxtrâylia: “DLST là du lịch dựa vào thiên nhiên, có liên quan đến sự giáo dục và diễn giải về môi trường thiên nhiên, được quản lí bền vững về mặt sinh thái”. Định nghĩa của Hiệp hội DLST quốc tế: “DLST là việc đi lại có trách nhiệm tới các khu vực thiên nhiên mà bảo tồn được môi trường và cải thiện phúc lợi cho người dân địa phương”. Định nghĩa của Nêpan: “DLST là LHDL đề cao sự tham gia của nhân dân vào việc hoạch định và quản lí các tài nguyên du lịch để tăng cường phát triển cộng đồng, liên kết giữa bảo tồn thiên nhiên và phát triển du lịch, đồng thời sử dụng thu nhập từ du lịch để bảo vệ các nguồn lực mà du lịch phụ thuộc vào”. Còn rất nhiều định nghĩa khác về DLST, trong đó Buckley (1994) đã tổng quát như sau : “Chỉ có du lịch dựa vào thiên nhiên, được quản lí bền vững, hỗ trợ bảo tồn thiên nhiên và có giáo dục môi trường mới được xem là DLST”. Trong đó, yếu tố quản lí bao hàm cả nội dung hỗ trợ phát triển cộng đồng. Như vậy, từ định nghĩa đầu tiên được đưa ra năm 1987 cho đến nay, nội dung của định nghĩa về DLST đã có sự thay đổi: từ chỗ đơn thuần coi hoạt động DLST là LHDL ít tác động đến môi trường tự nhiên sang cách nhìn tích cực hơn, theo đó DLST là LHDL có trách nhiệm với môi trường, có tính giáo dục và diễn giải cao về tự nhiên, có đóng góp cho hoạt động bảo tồn và đem lại lợi ích cho cộng đồng địa phương. Ở Việt Nam, DLST là lĩnh vực mới được nghiên cứu từ giữa thập kỉ 90 của thế kỉ XX, song đã thu hút được sự quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu. Do trình độ nhận thức khác nhau, ở những góc độ nhìn nhận khác nhau nên khái niệm về DLST cũng còn nhiều quan điểm chưa thống nhất. Theo Phạm Trung Lương và Nguyễn Tài Chung (1998) - Viện nghiên cứu và phát triển du lịch: “DLST là hình thức du lịch thiên nhiên có mức độ giáo dục cao về sinh thái và môi trường, có tác động tích cực tới việc bảo vệ môi trường và văn hóa, đảm bảo mang lại lợi ích kinh tế cho cộng đồng địa phương và có đóng góp cho các nỗ lực bảo tồn”.[12] Theo Lê Huy Bá (2000): “DLST là một LHDL lấy các hệ sinh thái đặc thù, tự nhiên làm đối tượng để phục vụ cho những du khách du lịch yêu thiên nhiên, du ngoạn, thưởng thức những cảnh quan hay nghiên cứu về các hệ sinh thái. Đó cũng là hình thức kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa phát triển kinh tế du lịch với giới thiệu về những cảnh đẹp của quốc gia, cũng như giáo dục tuyên truyền và bảo vệ, phát triển môi trường và tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững”.[1] Để có được sự thống nhất về khái niệm làm cơ sở cho công tác nghiên cứu và hoạt động thực tiễn phát triển DLST, Tổng cục Du lịch Việt Nam đã phối hợp với nhiều tổ chức quốc tế như ESCAP, WWF, IUCN… có sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học Quốc tế và Việt Nam về DLST và các lĩnh vực liên quan, tổ chức hội thảo quốc gia về “Xây dựng chiến lược phát triển DLST ở Việt Nam” từ ngày 7 đến ngày 9/9/1999. Một trong những kết quả quan trọng của hội thảo là lần đầu tiên đã đưa ra định nghĩa về DLST ở Việt Nam, theo đó: “ DLST là LHDL dựa vào thiên nhiên và văn hoá bản địa có gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương”.[3] Như vậy, chúng ta đều nhận thấy mặc dù hiện nay những tranh luận về khái niệm DLST vẫn đang diễn tiến nhằm tìm ra một định nghĩa chung nhất về DLST, nhưng đa số ý kiến của các chuyên gia hàng đầu về DLST đều cho rằng DLST là loại hình dựa vào thiên nhiên, hỗ trợ cho các hoạt động bảo tồn và được nuôi dưỡng, quản lí theo hướng bền vững về mặt sinh thái. DLST nói theo một định nghĩa nào chăng nữa thì phải hội đủ các yếu tố cần: (1) Sự quan tâm tới thiên nhiên và môi trường; (2) Trách nhiệm với xã hội và cộng đồng. Do đó, chúng ta có thể sử dụng định nghĩa về DLST theo Khoản 19 và 20, Điều 4, Chương I của luật du lịch Việt Nam năm 2005 như sau: “DLST là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc địa phương, với sự tham gia của cộng đồng nhằm PTBV”.[26] 1.1.2.Tài nguyên du lịch sinh thái Tài nguyên hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các nguồn nguyên nhiên liệu, năng lượng và thông tin có trên Trái Đất và trong không gian vũ trụ mà con người có thể sử dụng để phục vụ cho cuộc sống và sự phát triển của mình. Tài nguyên được phân loại thành tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn, gắn liền với các nhân tố về con người và xã hội. Tài nguyên du lịch là một dạng đặc sắc của tài nguyên nói chung. Khái niệm tài nguyên du lịch luôn gắn với khái niệm du lịch. Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, di tích cách mạng, giá trị nhân văn, công trình lao động sáng tạo của con người có thể được sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu du lịch; là các yếu tố cơ bản để hình thành các điểm du lịch, khu du lịch nhằm tạo ra sự hấp dẫn du lịch (Pháp lệnh Du lịch Việt Nam, 1999). Du lịch sinh thái là LHDL phát triển dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa, tài nguyên DLST là một bộ phận quan trọng của tài nguyên du lịch bao gồm các giá trị tự nhiên thể hiện trong một hệ sinh thái cụ thể và các giá trị văn hoá bản địa tồn tại và phát triển không tách rời hệ sinh thái tự nhiên đó. Tuy nhiên, không phải mọi giá trị tự nhiên và văn hoá bản địa đều được coi là tài nguyên DLST mà chỉ có các thành phần và các thể tổng hợp tự nhiên, các giá trị văn hoá bản địa gắn với một hệ sinh thái cụ thể được khai thác, sử dụng để tạo ra các sản phẩm DLST, phục vụ mục đích phát triển du lịch nói chung, DLST nói riêng mới được coi là tài nguyên DLST. Tài nguyên DLST rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên một số loại tài nguyên DLST chủ yếu thường được nghiên cứu khai thác nhằm đáp ứng nhu cầu của khách DLST bao gồm: - Các hệ sinh thái tự nhiên đặc thù, đặc biệt là các nơi có tính đa dạng sinh học cao với nhiều loài sinh vật đặc hữu, quý hiếm (các vườn quốc gia, khu BTTN, các sân chim,…) - Các hệ sinh thái nông nghiệp (vườn cây ăn trái, trang trại, làng hoa cây cảnh,…) - Các giá trị văn hoá bản địa hình thành và phát triển gắn liền với sự tồn tại của hệ sinh thái tự nhiên như các phương thức canh tác, các lễ hội, sinh hoạt truyền thống gắn với truyền thuyết… của cộng đồng. Như vậy, có thể hiểu: Tài nguyên DLST là một bộ phận quan trọng của tài nguyên du lịch bao gồm các thành phần và các thể tổng hợp tự nhiên, các giá trị văn hoá bản địa gắn với một hệ sinh thái cụ thể được khai thác, sử dụng để tạo ra các sản phẩm DLST, phục vụ cho mục đích phát triển du lịch nói chung và DLST nói riêng. 1.1.3. Phát triển bền vững Theo Uỷ ban Môi trường và Phát triển của Liên Hợp Quốc năm 1987 đã đưa ra khái niệm PTBV: “PTBV là sự phát triển nhằm thoả mãn các nhu cầu hiện tại của con người nhưng không tổn hại tới sự thoả mãn các nhu cầu của thế hệ tương lai”. Định nghĩa PTBV của Uỷ ban Brundtland: “PTBV là khả năng tạo PTBV để đảm bảo rằng sự phát triển đó đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không làm hại tới cái khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”. Theo Hội nghị thượng đỉnh về Trái Đất tổ chức ở Rio de Janeiro (Brazil) vào tháng 6/1992 thì PTBV được hiểu là “sự phát triển nhằm đáp ứng những yêu cầu của hiện tại nhưng không gây tổn hại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”. Đó là sự phát triển cả về kinh tế, xã hội, văn hoá, môi trường và tài nguyên thiên nhiên nhằm đáp ứng những nhu cầu về vật chất, tinh thần của thế hệ hiện tại mà không làm giảm chất lượng cuộc sống của các thế hệ mai sau. Theo Hội đồng Thế giới về Môi trường và Phát triển (World Commission of Environment and Development, WCED) thì “PTBV là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng của các thế hệ tương lai trong đáp ứng các nhu cầu của họ” Theo ông Jordan Ryan - đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam thì “PTBV là một quá trình bảo đảm tăng tối đa phúc lợi của xã hội và xoá bỏ nghèo đói thông qua việc quản lí ở mức tối ưu và có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên”. Ông khẳng định PTBV nằm ở phần giao nhau của 3 vòng tròn: bền vững về kinh tế, bền vững về xã hội và bền vững về môi trường. Cũng theo ông, không nên coi PTBV như một phương tiện thuận lợi để gom tất cả các vấn đề kinh tế, xã hội và môi trường lại với nhau mà cần có một quan điểm toàn diện để bảo đảm cho các chính sách có tác dụng hỗ trợ thay vì mâu thuẫn nhau. Theo Bà Nguyễn Ngọc Lý (Trưởng ban PTBV – UBND thành phố Hà Nội) đồng ý cách định nghĩa về PTBV của hội nghị Rio de Jannerio cho rằng, khái niệm về PTBV cần được vận dụng linh hoạt tuỳ từng thời kì lịch sử, từng nền KT - XH khác nhau, nền văn hoá khác nhau của mỗi quốc gia. Ngoài ra, còn có một số tác giả lại cho rằng: “PTBV bên cạnh 3 yếu tố là bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường, cần phải có cả sự bền vững về an ninh, chính trị và bảo đảm công bằng xã hội”. Khái niệm PTBV mang tính chất toàn cầu, vậy nên không thể hiểu PTBV chỉ trong phạm vi một nước mà không tính tới những yếu tố hợp tác quốc tế, yếu tố phối hợp cùng phát triển giữa các quốc gia, nhất là những ảnh hưởng trong lĩnh vực môi trường (điển hình như cháy rừng ở Indonesia có ảnh hưởng tới các nước ASEAN...). Mặc dù còn có rất nhiều ý kiến khác nhau xung quanh khái niệm “PTBV”, song nhìn chung tại các Hội thảo quốc tế, các nhà khoa học, các chính trị gia đều thống nhất ở các nội dung sau về PTBV: PTBV là sự phát triển hài hoà cả về 3 mặt: KT - XH - môi trường để đáp ứng những nhu cầu về đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của thế hệ hiện tại nhưng không làm tổn hại, gây trở ngại đến khả năng cung cấp tài nguyên để phát triển KT - XH mai sau, không làm giảm chất lượng cuộc sống của các thế hệ trong tương lai. Như vậy, để PTBV thì phải cùng đồng thời thực hiện 3 mục tiêu: (1) Phát triển có hiệu quả về kinh tế; (2) Phát triển hài hòa các mặt xã hội; nâng cao mức sống, trình độ sống của các tầng lớp dân cư; (3) Cải thiện môi trường môi sinh, bảo đảm phát triển lâu dài vững chắc cho thế hệ hôm nay và mai sau. Thể hiện qua hình 1.1 và hình 1.2 sau đây: Mục tiêu kinh tế Phát triển bền vững Mục tiêu xã hội Mục tiêu sinh thái Hình 1.1: Mô hình phát triển bền vững của ngân hàng Thế giới World Bank Kinh tế Giá trị máy móc Cạnh tranh quốc tế Nông nghiệp bền vững Phát triển Bảo vệ nguồn nước Kiểm soát thuốc BVTV Bảo vệ cuộc sống, văn hóa trong nông nghiệp Hệ thống quata Hợp tác nông trại Chính sách thu nhập Nghiên cứu phát triển Phát triển bền vững Sinh thái Bảo vệ Bảo vệ habitat Chất lượng cảnh quan Chất lượng nước Đa dạng sinh học Du lịch sinh thái Xã hội Bình ổn giá Quản lí và bảo vệ MT vùng nông thôn Sức khỏe và sự an toàn Các giá trị giải trí Chống thất nghiệp Hình 1.2: Mô hình phát triển bền vững của Villen, 1990 1.1.4. Du lịch bền vững Khái niệm về du lịch bền vững mới xuất hiện trên cơ sở cải tiến và nâng cấp khái niệm về du lịch mềm của những năm 90 và thực sự chú ý rộng rãi trong những năm gần đây. Theo Hội đồng Du lịch và Lữ hành quốc tế (WTTC), 1996: “Du lịch bền vững là việc đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du khách và vùng du lịch mà vẫn đảm bảo những khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ du lịch tương lai”. “Du lịch bền vững đòi hỏi phải quản lí tất cả các dạng tài nguyên theo cách nào đó để chúng ta có thể đáp ứng các nhu cầu kinh tế, xã hội và thẩm mỹ trong khi vẫn duy trì được bản sắc văn hoá, các quá trình sinh thái cơ bản, đa dạng sinh học và các hệ đảm bảo sự sống”.(Hens L, 1998) Mục tiêu của du lịch bền vững là: - Phát triển, gia tăng sự đóng góp của du lịch vào kinh tế và môi trường. - Cải thiện tính công bằng xã hội trong phát triển. - Cải thiện chất lượng cuộc sống của cộng đồng bản địa. - Đáp ứng cao độ nhu cầu của du khách. - Duy trì chất lượng môi trường. (Inskeep,1991) Chiến lược để đạt đến du lịch bền vững còn chưa được xây dựng hoàn chỉnh, đang cần cố gắng để được chấp nhận rộng rãi. Mỗi một tình huống đỏi hỏi những tiếp cận và giải pháp khác nhau. Tuy nhiên, nếu thực sự du lịch đem lại lợi ích cho môi trường tự nhiên, xã hội và bền vững lâu dài thì tài nguyên không có quyền được sử dụng quá mức. Tính đa dạng tự nhiên, xã hội và văn hoá phải được bảo vệ, phát triển du lịch phải được lồng ghép vào chiến lược phát triển của địa phương và quốc gia, người địa phương phải được tham gia vào việc hoạch định kế hoạch và triển khai HĐDL, hoạt động nghiên cứu triển khai và giám sát cần được tiến hành. Những nguyên tắc này có tính bền vững cần phải được triển khai trong toàn bộ lĩnh vực phát triển du lịch. Theo Khoản 21, Điều 4, Chương I - Luật du lịch Việt Nam (2005): “Du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch của tương lai”. Để đảm bảo cho sự phát triển du lịch bền vững, trong Khoản 1, Điều 5, Chương I- Luật du lịch Việt Nam (2005) về nguyên tắc phát triển du lịch đã nêu: “Phát triển du lịch bền vững theo quy hoạch, kế hoạch đảm bảo hài hoà giữa KT - XH và môi trường, phát triển có trọng tâm, trọng điểm theo hướng du lịch văn hoá lịch sử, DLST, bảo tồn, tôn tạo phát triển giá trị của tài nguyên”.[26] Như vậy, phát triển du lịch bền vững trở thành định hướng, mục tiêu, chiến lược, nguyên tắc phát triển của du lịch Việt Nam. Phát triển du lịch bền vững cần phải tính đến ba yếu tố: - Mối quan hệ giữa bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường và lợi ích kinh tế. - Quá trình phát triển trong thời gian lâu dài. - Đáp ứng được nhu cầu hiện tại, song không làm ảnh hưởng đến nhu cầu của những thế hệ tiếp theo. Vì vậy, trong quá trình quy hoạch các dự án phát triển du lịch Việt Nam, việc vận dụng quan điểm PTBV là cần thiết, nó giúp cho các dự án quy hoạch du lịch mang tính khả thi và có hiệu quả cao. 1.1.5. Du lịch sinh thái bền vững “DLST bền vững là việc phát triển các HĐDL nhằm đáp ứng các nhu cầu hiện tại của khách du lịch và người dân bản địa trong khi đó vẫn quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên và phát triển du lịch trong tương lai”.[1] “Phát triển DLST bền vững không những đóng góp tích cực cho sự PTBV mà còn làm giảm tối thiểu các tác động của khách du lịch đến văn hoá và môi trường, đảm bảo cho địa phương được hưởng nguồn lợi tài nguyên do du lịch mang lại và cần chú trọng đến những đóng góp tài chính cho việc bảo tồn thiên nhiên. Phát triển DLST bền vững cần có sự cân bằng giữa các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường trong khuôn khổ các nguyên tắc và các giá trị đạo đức”. (Allen K, 1993) 1.2. Các chỉ tiêu đánh giá 1.2.1. Tính đa dạng sinh học Giá trị của đa dạng sinh học trên Trái Đất đã từng được rất nhiều người nhắc đến, song để đánh giá được nó là cả một vấn đề lớn. Những phương thức tiếp cận thông thường và tìm cách đánh giá bằng ước đoán để nhận được giá trị bình quân sau đó nhân với tổng số loài hiện có nếu quả thực chúng ta biết được con số đó. Điều cần được nhấn mạnh ở đây là loài có thể có giá trị về mặt hàng hoá (giá trị sử dụng về kinh tế), thẩm mỹ và giá trị đạo đức. Đối với loại hình DLST, tính đa dạng sinh học là yếu tố có giá trị hàng đầu. Yêu cầu đầu tiên có thể tổ chức được DLST là sự tồn tại của các hệ sinh thái tự nhiên điển hình với tính đa dạng sinh học cao. - Tính rất đa dạng sinh học: Có từ 3 – 5 giá trị về mặt sử dụng kinh tế, đạo đức và thẩm mỹ. - Tính khá đa dạng sinh học: Có từ 2 – 3 giá trị về mặt sử dụng kinh tế, đạo đức và thẩm mỹ. - Tính trung bình về đa dạng sinh học: Có từ 1 – 2 giá trị về mặt sử dụng kinh tế, đạo đức và thẩm mỹ. - Tính kém về đa dạng sinh học: Giá trị về mặt sử dụng kinh tế, đạo đức, thẩm mỹ không có hiệu quả. 1.2.2. Độ hấp dẫn Độ hấp dẫn khách du lịch là yếu tố có tính chất tổng hợp và thường được xác định bằng vẻ đẹp của phong cảnh, sự đa dạng của địa hình, sự thích hợp của khí hậu, sự đặc sắc và độc đáo của các hiện tượng tự nhiên. - Rất hấp dẫn (chỉ mức độ rất thuận lợi): Phải có trên 5 phong cảnh đẹp, đa dạng. Có 3 hiện tượng, di tích tự nhiên đặc sắc, độc đáo, đáp ứng được trên 5 loại hình du lịch (LHDL). - Khá hấp dẫn (chỉ mức độ khá thuận lợi): Có từ 3 – 5 phong cảnh đẹp, đa dạng. Có 3 hiện tượng, di tích tự nhiên đặc sắc, đáp ứng 3 – 5 LHDL. -Trung bình (chỉ mức độ thuận lợi trung bình): Có 1- 2 cảnh đẹp, đáp ứng 1 -2 LHDL. - Kém hấp dẫn (chỉ mức độ kém thuận lợi ): Phong cảnh đơn điệu, đáp ứng 1 LHDL. 1.2.3. Thời gian HĐDL Thời gian hoạt động du lịch (HĐDL) được xác định bởi số thời gian thích hợp nhất của các điều kiện khí hậu đối với sức khỏe của khách du lịch và số thời gian thuận lợi nhất cho việc triển khai các HĐDL. Thời gian HĐDL quyết định tính chất thường xuyên hay mùa vụ của HĐDL, từ đó liên quan trực tiếp đến việc quy hoạch phát triển du lịch. - Rất dài (chỉ mức độ rất thuận lợi): Có trên 200 ngày trong năm triển khai tốt HĐDL. Có trên 180 ngày có điều kiện khí hậu (ĐKKH) thích hợp cho sức khoẻ con người. - Khá dài (chỉ mức độ khá thuận lợi): Có từ 150 – 200 ngày trong năm triển khai tốt HĐDL. Có từ 120 - 180 ngày có ĐKKH thích hợp cho sức khoẻ con người. - Trung bình (chỉ mức độ thuận lợi trung bình): Có từ 100 – 150 ngày trong năm triển khai tốt HĐDL. Có từ 90 - 120 ngày có ĐKKH thích hợp cho sức khoẻ con người. - Ngắn (chỉ mức độ kém thuận lợi): Có dưới 100 ngày trong năm triển khai tốt HĐDL. Có dưới 90 ngày có ĐKKH thích hợp cho sức khoẻ con người. 1.2.4. Sức chứa khách du lịch Sức chứa khách du lịch đối với mỗi khu vực là tổng sức chứa tại mỗi điểm du lịch. Sức chứa khách du lịch phản ánh khả năng và quy mô triển khai HĐDL tại mỗi điểm du lịch và được xác định bằng các chỉ tiêu đã được xác lập qua khảo sát thực tế. - Rất lớn (chỉ mức độ rất thuận lợi): Có sức chứa trên 1000 người/ngày. - Khá lớn (chỉ mức độ khá thuận lợi): Có sức chứa từ 500 đến 1000 người/ngày. - Trung bình (chỉ mức độ thuận lợi trung bình): Có sức chứa từ 100 - 500 người/ngày. - Nhỏ (chỉ mức độ kém thuận lợi): Có sức chứa dưới 100 người/ngày. 1.2.5. Độ bền vững của môi trường tự nhiên Độ bền vững của môi trường tự nhiên nói lên khả năng bền vững của các thành phần và bộ phận tự nhiên trước áp lực HĐDL của khách du lịch và các đối tượng khác hoặc thiên tai. - Rất bền vững (chỉ mức độ rất thuận lợi): Không có thành phần và bộ phận tự nhiên nào bị phá hoại, nếu có thì ở mức độ nhẹ, có khả năng tự phục hồi, tồn tại vững chắc trên 100 năm, HĐDL diễn ra liên tục. - Khá bền vững (chỉ mức độ khá thuận lợi): Có 1 – 2 thành phần và bộ phận tự nhiên bị phá hoại ở mức độ nhẹ, có khả năng tự phục hồi, tồn tại vững chắc từ 50 - 100 năm, HĐDL diễn ra thường xuyên. - Trung bình (chỉ mức độ thuận lợi trung bình): Có 1 – 2 thành phần và bộ phận tự nhiên bị phá huỷ đáng kể, phải có sự hỗ trợ của con người mới phục hồi nhanh được, tồn tại vững chắc từ 10 - 50 năm, HĐDL có thể bị hạn chế. - Kém bền vững (chỉ mức độ kém thuận lợi): Có 1 – 2 thành phần và bộ phận tự nhiên bị phá huỷ nặng, phải có sự phục hồi của con người, tồn tại vững chắc dưới 10 năm, HĐDL bị gián đoạn. 1.2.6. Vị trí của điểm du lịch Vị trí của điểm du lịch đối với nơi cung cấp nguồn khách du lịch để tiến hành HĐDL. - Rất thích hợp (chỉ mức độ khá thuận lợi): Chỉ khoảng cách từ 10 – 100 km, thời gian đi đường không quá 3 giờ, có thể đến bằng 2 – 3 loại phương tiện thông dụng. - Khá thích hợp (chỉ mức độ khá thuận lợi): Chỉ khoảng cách từ 100 – 200 km, thời gian đi đường trên 3 giờ, có thể đến bằng 2 – 3 loại phương tiện thông dụng. - Trung bình (chỉ mức độ thuận lợi trung bình): Chỉ khoảng cách từ 200 – 500 km, thời gian đi đường trên 5 giờ, có thể đến bằng 1 – 2 loại phương tiện thông dụng. - Kém thích hợp (chỉ mức độ kém thuận lợi): Chỉ khoảng cách trên 500 km, thời gian đi đường trên 10 giờ, có thể đến bằng 1 – 2 loại phương tiện thông dụng. 1.2.7. Cơ sở hạ tầng và vật chất kĩ thuật du lịch Cơ sở hạ tầng và vật chất kĩ thuật du lịch (CSHT – CSVCKTDL) tạo điều kiện biến những tiềm năng của tài nguyên trở thành hiện thực. Không có cơ sở hạ tầng nào nhất là cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch, tài nguyên vẫn nằm im dưới dạng tiềm năng. Mặc dù có thuận lợi đến mấy cũng vậy, hoặc nếu thiếu CSHT – CSVCKTDL mà tiến hành HĐDL thì không thể tiến hành thuận lợi mà còn ảnh hưởng đến môi trường. Do những hạn chế nhất định, phần này tác giả chủ yếu tập trung vào việc đánh giá hệ thống khách sạn, nhà hàng (tiêu biểu cho CSVCKT) và mạng lưới giao thông vận tải, viễn thông, điện, nước (tiêu biểu cho CSHT). - Rất tốt (chỉ mức độ rất thuận lợi): Có CSHT – CSVCKTDL đồng bộ, đủ tiện nghi, đạt tiêu chuẩn quốc tế. - Khá tốt (chỉ mức độ khá thuận lợi): Có CSHT – CSVCKTDL tương đối đồng bộ, đủ tiện nghi, đạt tiêu chuẩn quốc gia. - Trung bình (chỉ mức độ thuận lợi trung bình ): Có CSHT – CSVCKTDL nhưng chưa đồng bộ, chưa đủ tiện nghi. - Kém (chỉ mức độ kém thuận lợi): Còn thiếu nhiều CSHT – CSVCKTDL, số đã có thì chất lượng thấp và có tính chất tạm thời. 1.2.8. Tính liên kết Tính liên kết là một chỉ tiêu đánh giá tài nguyên du lịch giúp cho việc liên kết các điểm du lịch thành tuyến, cụm du lịch. - Rất tốt: Có từ 5 điểm du lịch xung quanh trở lên có thể liên kết được (tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn). - Khá tốt : Có từ 3 – 5 điểm du lịch xung quanh có thể liên kết được (tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn). - Trung bình: Có từ 2 - 3 điểm du lịch xung quanh có thể liên kết được (tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn). - Kém: Chỉ có 1 điểm du lịch hoặc không có điểm tài nguyên du lịch nào xung quanh có thể liên kết được. 1.3. Các nguyên tắc phát triển bền vững DLST - DLST nên khởi đầu với sự giúp đỡ của những thông tin cơ bản nhưng đa dạng của cộng đồng và cộng đồng nên duy trì việc kiểm soát sự phát triển của du lịch. - Sử dụng và bảo vệ tài nguyên một cách bền vững: bao gồm cả tài nguyên thiên nhiên, xã hội, văn hoá. Việc sử dụng bền vững tài nguyên là nền tảng cơ bản nhất của việc phát triển DLST bền vững. - Chương trình giáo dục và huấn luyện để cải thiện, quản lí di sản và các tài nguyên thiên nhiên nên được thành lập. Giảm tiêu thụ, giảm chất thải một cách triệt để nhằm nâng cao chất lượng môi trường. - Duy trì tính đa dạng về tự nhiên, văn hoá, xã hội,… (chủng loại thực vật, động vật, bản sắc văn hoá dân tộc,…) - Lồng ghép các chiến lược phát triển du lịch của địa phương với quốc gia. - Phải hỗ trợ kinh tế địa phương, tránh gây thiệt hại cho các hệ sinh thái ở đây. - Phải thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương. Điều này không chỉ đem lại lợi ích cho cộng đồng, cho môi trường sinh thái mà còn nhằm tăng cường khả năng đáp ứng các thị hiếu của du khách. - Phải biết tư vấn các nhóm quyền lợi và công chúng. Tư vấn giữa công nghiệp du lịch và cộng đồng địa phương, các tổ chức và cơ quan nhằm đảm bảo cho sự hợp tác lâu dài cũng như giải quyết các xung đột có thể nảy sinh. - Đào tạo các cán bộ, nhân viên phục vụ trong hoạt động kinh doanh du lịch nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch. Nghiên cứu hỗ trợ cho du lịch. Phải cung cấp cho du khách những thông tin đầy đủ và có trách nhiệm nhằm nâng cao sự tôn trọng của du khách đến môi trường tự nhiên, xã hội và văn hoá khu du lịch, qua đó góp phần thoả mãn các nhu cầu của du khách. 1.4. Những tác động lên môi trường của hoạt động DLST Hoạt động của ngành kinh tế du lịch là hoạt động khai thác các tiềm năng du lịch (tiềm năng tự nhiên và tiềm năng KT - XH và nhân văn) phục vụ kinh doanh du lịch. Vì vậy, HĐDL (khai thác, kinh doanh du lịch) có tác động đến hầu hết các dạng tài nguyên và môi trường giống như các ngành kinh tế khác. Tác động của HĐDL đến tài nguyên và môi trường theo hai mặt: - Mặt tác động tích cực tạo ra hiệu quả tốt đối với việc sử dụng hợp lí và phục hồi tài nguyên, đồng thời tạo cơ sở cho việc phát triển môi trường bền vững. - Mặt tác động tiêu cực gây nên sự lãng phí, tiêu phí tài nguyên và suy thoái môi trường. Trong hoạt động DLST, đây là một LHDL rất nhạy cảm với các tác động của con người, đặc biệt là thông qua các phản ứng dây chuyền trong tự nhiên. Vì vậy, việc phát triển DLST nếu không được quản lí chặt chẽ và tổ chức tốt sẽ có tác động không tốt đến môi trường xung quanh. 1.4.1. Tác động đến tài nguyên thiên nhiên Phát triển DLST và các hoạt động có liên quan đã góp phần không nhỏ làm cho tài nguyên thiên nhiên và môi trường bị xuống cấp một cách trầm trọng. Đó cũng chính là hậu quả của việc sử dụng đất đai, xây dựng các cơ sở du lịch không đúng nơi, hoặc không đảm bảo chất lượng làm ảnh hưởng đến tài nguyên nước, tài nguyên không khí, tài nguyên đất, tài nguyên sinh vật và đa dạng sinh học… Ảnh hưởng đến tài nguyên nước: DLST phát triển kéo theo sự phát triển về khách sạn, nhà cho thuê, cửa hàng ăn uống và các dịch vụ khác làm tăng lượng nước thải sinh hoạt nhưng thường không được xử lí triệt để lâu ngày thấm vào nước ngầm làm ảnh hưởng đến nguồn nước giếng ở các địa phương. Bên cạnh đó, du khách đông lại vứt rác bừa bãi, dầu mỡ do phương tiện giao thông trên nước làm ảnh hưởng đến nước sạch ở các sông, hồ. Ảnh hưởng đến tài nguyên không khí: Do lượng du khách ngày càng đông, hoạt động giao thông phục vụ cũng tăng theo, nhưng hầu hết đều sử dụng các phương tiện cơ giới thô sơ như: thuyền, ghe máy, xe máy…, nhất là vào những ngày nghỉ, các điểm du lịch gần như quá tải. Hàm lượng bụi, khói và các chất gây ô nhiễm không khí từ các hoạt động giao thông nằm dưới mức cho phép và bị hoà loãng nhanh nhưng các khu dân cư ven đường bị ảnh hưởng hàng ngày của bụi, khói, đặc biệt là tiếng ồn quá mức cho phép. Ngoài ra, một số hoạt động của du lịch như ăn uống thường diễn ra cùng một thời điểm, dẫn đến việc gia tăng bụi khói, làm nóng dần bầu không khí. Lượng nhiễm này hiện nay chưa được nghiên cứu cụ thể nhưng đã đến mức báo động và rất khó kiểm soát. Ảnh hưởng đến tài nguyên đất: Phát triển du lịch sẽ kéo theo việc xây dựng kết cấu hạ tầng như khách sạn, các công trình phục vụ du lịch khác sẽ làm cho diện tích đất bị xâm lấn, thu hẹp. Ngoài ra, quy hoạch DLST không đúng nơi, xây dựng các công trình hạ tầng không đúng quy cách cũng làm cho tài nguyên đất bị phá vỡ. Ảnh hưởng đến tài nguyên sinh vật và đa dạng sinh học: HĐDL làm gia tăng lượng rác thải, khí thải, một khi không có hoặc thiếu những phương tiện thu gom và dụng cụ chứa và xử lí rác sẽ gây ảnh hưởng không tốt cho môi trường sống xung quanh của sinh vật. Ở một số khu BTTN lượng khách du lịch hằng năm tăng cao nên cần có nhiều phương tiện, chỗ lưu trú, các dịch vụ khác để đáp ứng cho các nhu cầu của du khách cũng tăng theo, do đó thiệt hại về
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan