Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đánh giá tiềm năng, thực trạng và định hướng phát triển kinh tế biển huyện gò cô...

Tài liệu đánh giá tiềm năng, thực trạng và định hướng phát triển kinh tế biển huyện gò công đông (tỉnh tiền giang)

.PDF
145
39
96

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Phạm Thị Hoàng Dung ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG, THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN HUYỆN GÒ CÔNG ĐÔNG (TỈNH TIỀN GIANG) LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC Thành phố Hồ Chí Minh - 2009 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Phạm Thị Hoàng Dung ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG, THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN HUYỆN GÒ CÔNG ĐÔNG (TỈNH TIỀN GIANG) Chuyên ngành : Địa lý học Mã số : 60 31 95 LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN VĂN THÔNG Thành phố Hồ Chí Minh - 2009 LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên, tác giả xin chân thành cảm ơn Phòng KHCN & Sau Đại học Trường Đại học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh cùng với Khoa địa lý và thư viện trường đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập đến khi hoàn thành luận văn này. Và tôi cũng xin gởi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến Thầy – TS. Trần Văn Thông, người đã rất tận tình hướng dẫn tôi từ những ngày đầu viết đề cương luận văn. Thầy đã dành nhiều thời gian sửa chữa, hướng dẫn tôi trong từng nội dung và nhắc nhở tôi từng chi tiết nhỏ đến khi luận văn được hoàn chỉnh. Một lần nữa, tôi xin cảm ơn Thầy. Kế đến, tôi cũng xin cảm ơn những đơn vị: Uỷ ban nhân dân, Phòng thống kê, Phòng kế hoạch đầu tư, Phòng nông nghiệp huyện Gò Công Đông và Sở tài nguyên môi trường, Sở thủy sản Tỉnh Tiền Giang đã rất nhiệt tình cung cấp tài liệu một cách đầy đủ, chính xác, nhanh chóng giúp tôi có thể làm tốt luận văn này. Lời sau cùng, tôi xin gởi lời tri ân đến gia đình, cùng tập thể Thầy cô nơi tôi đang công tác và các anh chị thành viên lớp cao học K17. Họ là những người luôn sát cánh cùng tôi, ủng hộ, động viên và tạo cho tôi thêm niềm tin và động lực trong cuộc sống, trong học tập và nhất là khi thực hiện luận văn. Tác giả Phạm Thị Hoàng Dung MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Biển có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự sinh tồn của nhân loại. Biển là kho nước vô tận, là kho tài nguyên, là kho thực phẩm vô cùng quý giá, là môi trường nuôi sống con người trong quá khứ, ở hiện tại và cả tương lai. Biển là tài sản quý giá của mỗi quốc gia. Nhiều nhà kinh tế học đã nói đến “lục địa xanh” này và họ cho rằng “nền kinh tế tương lai của loài người trước hết là nền kinh tế gắn với biển”, bởi vì đất liền đang mòn mỏi dần vì bị khai thác kiệt quệ tài nguyên, biển có thể mở lối thoát khỏi tình trạng bế tắc về nguyên liệu, nhiên liệu cho sự phát triển. Chính vì thế mà ngày nay, hầu như tất cả các quốc gia có biển (kể cả những quốc gia không có biển) cũng điều chú ý đến việc nghiên cứu, khai thác nguồn lợi từ biển trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Có diện tích hơn 3,4 triệu km2, Biển Đông là một bộ phận nhỏ của Thái Bình Dương nhưng lại có vị trí chiến lược quan trọng, là nơi qua lại của những đường giao thông huyết mạch đối với nhiều nước, nối liền khu vực Đông Bắc Á với Tây Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và vùng Vịnh qua eo Malacca. Biển Đông là nơi có nguồn tài nguyên biển vô cùng phong phú về số lượng và chủng loại. Việt Nam nằm ở rìa biển Đông, là mặt tiền quan trọng của đất nước để thông ra Thái Bình Dương và mở cửa ra nước ngoài. Nước ta là một quốc gia biển, với diện tích vùng biển rộng gấp 3 lần diện tích đất liền (vùng biển rộng khoảng 1 triệu km2), đường bờ biển dài 3260km bao lấy lãnh thổ cả 3 hướng: Bắc, Đông, Nam; trung bình khoảng 100km2 đất liền có 1km bờ biển và không một nơi nào trên đất nước ta lại cách xa biển hơn 500km. Từ bao đời nay, biển đã gắn bó chặt chẽ, mật thiết với mọi hoạt động sản xuất và đời sống của dân tộc ta, ảnh hưởng lớn đến mọi miền của Tổ Quốc, trở thành động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước. Với 32km bờ biển, Tiền Giang có điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế biển. Trong đó, Huyện Gò Công Đông là huyện có nhiều tiềm năng và lợi thế lớn. Tình hình kinh tế - xã hội vùng biển của Huyện trong thời gian qua đã có bước phát triển, vừa đóng góp đáng kể trong việc phát triển kinh tế - xã hội chung của tỉnh, vừa kết hợp chặt chẽ với bảo vệ môi trường sinh thái. Nhận thức được tầm quan trọng của nền kinh tế biển trong tương lai, tôi chọn đề tài : “Đánh giá tiềm năng, thực trạng và định hướng phát triển kinh tế biển Huyện Gò Công Đông tỉnh Tiền Giang”. 2. Mục tiêu, nhiêm vụ nghiên cứu 2.1 Mục tiêu nghiên cứu Trong những năm qua, kinh tế biển đã bước đầu khẳng định được vai trò của mình trong công cuộc phát triển kinh tế huyện Gò Công Đông. Cùng với chương trình hành động thực hiện Nghị Quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp Hành Trung ương Đảng (khóa X) về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, Tỉnh Tiền Giang nói chung và Huyện Gò Công Đông nói riêng đã đề ra chương trình thực hiện mục tiêu “vươn ra biển lớn” nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Đề tài nghiên cứu: “Đánh giá tiềm năng, thực trạng và định hướng phát triển kinh tế biển Huyện Gò Công Đông tỉnh Tiền Giang” với những mục đích sau: + Khảo sát và đánh giá các nguồn lực phát triển kinh tế biển của huyện. + Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế biển huyện Gò Công Đông giai đoạn 2000 – 2007. + Xác định các phương hướng phát triển và các giải pháp phát triển kinh tế biển đến năm 2020. 2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu - Tổng quan cở sở lý luận về kinh tế biển - Phân tích hiện trạng phát triển kinh tế biển huyện Gò Công Đông. - Căn cứ vào vào hiện trạng phát triển biển của huyện để đưa ra những định hướng nhằm phát triển kinh tế biển của huyện trong tương lai đồng thời đưa ra những giải pháp phát triển kinh tế biển một cách bền vững. 3. Phạm vi nghiên cứu - Về thời gian nghiên cứu: Bắt đầu từ 30/04/2008, Tỉnh Tiền Giang chính thức công bố Huyện mới với tên gọi là Huyện Tân Phú Đông là phần đất được tách ra từ Huyện Gò Công Đông, Huyện Gò Công Tây. Trong phạm vi luận văn này, tôi chỉ nghiên cứu Huyện Gò Công Đông giai đoạn 2000 – 2007. - Về nội dung nghiên cứu: Về nội dung nghiên cứu chính của đề tài là những vấn đề xoay quanh ngành kinh tế biển thật sự là thế mạnh của Huyện (những bộ phận của kinh tế biển: ngành thủy hải sản, du lịch biển, vấn đề môi trường biển). 4. Lịch sử nghiên cứu Kinh tế biển có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế của đất nước và càng được chú trọng hơn trong giai đoạn hiện tại. Chính tầm quan trọng đó của kinh tế biển nên từ trước đến nay có rất nhiều nghiên cứu về vấn đề này nhưng tập trung nhất là các tỉnh có lợi thế lớn về biển như: Nha Trang, Bà Rịa Vũng Tàu,….Vì vậy, các công trình nghiên cứu kể trên sẽ là những tài liệu tham khảo để tôi nghiên cứu đề tài “Đánh giá tiềm năng, thực trạng và định hướng phát triển kinh tế biển Huyện Gò Công Đông” (Tỉnh Tiền Giang) được đầy đủ và hoàn chỉnh hơn. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1 Phương pháp luận 5.1.1 Quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin là phương pháp luận khoa học. Trong quá trình nghiên cứu các vấn đề về lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế biển cần xem xét trong sự phát triển của khoa học này với sự phát triển của các ngành khoa học có liên quan trong sự vận động, phát triển của kinh tế - xã hội theo những quy luật khách quan và trong mối quan hệ biện chứng qua lại chặt chẽ. 5.1.2 Quan điểm hệ thống Quan điểm này được sử dụng rộng rãi trong quá trình nghiên cứu. Kinh tế biển là một bộ phận của nền kinh tế chung, nó có mối quan hệ với nhiều ngành khoa học khác và trong nội bộ của nó cũng có sự liên kết và gắn bó với nhau. Vì thế, khi nghiên cứu, chúng ta phải đặt vấn đề trong mối quan hệ tương hỗ, tác động qua lại của các yếu tố tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh. Vì vậy, phải coi vấn đề kinh tế biển và phát triển như là một hệ thống nằm trong hệ thống kinh tế - xã hội hoàn chỉnh, luôn luôn vận động và phát triển không ngừng. 5.1.3 Quan điểm tổng hợp lãnh thổ Trong thực tế, các sự vật - hiện tượng luôn có sự phân hóa theo không gian làm cho chúng có sự khác nhau giữa nơi này với nơi khác. Và việc nghiên cứu các vấn đề về kinh tế biển huyện Gò Công Đông không thể tách rời vấn đề phát triển kinh tế biển của tỉnh, vùng và cả nước. 5.1.4 Quan điểm lịch sử - viễn cảnh Sự phát triển kinh tế biển và kinh tế - xã hội trong quá khứ, tương lai ảnh hưởng lớn đến kinh tế biển và kinh tế - xã hội hiện tại. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề kinh tế biển trong mối liên hệ quá khứ - hiện tại - tương lai sẽ làm rõ được bản chất của vấn đề theo một chuỗi thời gian, đảm bảo tính logic, khoa học và chính xác khi nghiên cứu. 5.1.5 Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững Nghiên cứu vấn đề biển phải dựa trên quan điểm sinh thái và phát triển bền vững. Phát triển kinh tế biển, kinh tế - xã hội phải đi đôi với sử dụng hợp lý kết hợp với bảo vệ và tái tạo tài nguyên thiên nhiên, chống gây ô nhiễm môi trường, có sự kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống con người. 5.2. Phương pháp nghiên cứu 5.2.1 Phương pháp phân tích, tổng hợp Trong quá trình nghiên cứu đề tài, việc vận dụng phương pháp phân tích – tổng hợp một cách thuần thục sẽ mang lại nhiều lợi ích. Vì việc dựa trên việc phân tích tài liệu đã có cũng như thực tế sẽ giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện về vấn đề nghiên cứu. Từ đó, chúng ta rút ra được những nội dung tổng hợp nhất, đầy đủ nhất nhằm đáp ứng được những nhiệm vụ và mục tiêu mà vấn đề đã đặt ra. 5.2.2 Phương pháp thực địa Thực địa là phương pháp truyền thống được sử dụng trong các nghiên cứu nói chung và đặc biệt quan trọng trong quá trình nghiên cứu các vấn đề địa lí kinh tế - xã hội nói riêng. Vì vậy, trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp này để kiểm tra độ chính xác, tin cậy của các nguồn tài liệu đã thu thập được. Các nguồn tài liệu cần thu thập tương đối đa dạng, phong phú cần chọn lọc chính xác. Đối với công tác nghiên cứu địa lý kinh tế - xã hội, trước hết cần quan tâm đến các dạng thông tin sau: trình bày bằng văn bản, số liệu thống kê, các bản đồ, các dạng khác (trên mạng, những cuộc điều tra,…). 5.2.3 Phương pháp bản đồ - biểu đồ Phương pháp bản đồ là phương pháp đặc trưng của khoa học Địa lí, bởi vì mọi nghiên cứu thuộc lĩnh vực địa lý kinh tế - xã hội đều mở đầu bằng bản đồ và kết thúc bằng bản đồ. Ý nghĩa to lớn của nó là góp phần giải quyết nhiều nội dung nghiên cứu như đánh giá các nguồn lực, phân tích hiện trạng theo ngành và theo lãnh thổ. Sử dụng phương pháp này giúp cho các vấn đề nghiên cứu được cụ thể, trực quan và toàn diện hơn. Ngày nay, phương pháp bản đồ ngày càng được hoàn thiện và đem lại hiệu quả cao trong nghiên cứu nhờ kỹ thuật viễn thám và hệ thông tin địa lý (GIS). Ngoài ra, đề tài còn thể hiện các mối quan hệ địa lí thông qua hệ thống bảng số liệu và biểu đồ. 5.2.4 Phương pháp sưu tầm Đây là một phương pháp rất quan trọng vì trên cơ sở sưu tầm được những số liệu có liên quan đến nội dung nghiên cứu, chúng ta mới rút ra được các đặc điểm về kinh tế biển huyện Gò Công Đông cũng như nhìn nhận, đánh giá chính xác mối quan hệ giữa kinh tế biển và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. 5.2.5 Phương pháp sử dụng hệ thông tin địa lý Trong hai thập kỷ gần đây, công nghệ thông tin phát triển nhanh như vũ bão. Việc sử dụng những thành tựu mới của nhân loại trong nghiên cứu địa lý kinh tế xã hội ngày càng được nhân rộng. Hệ thông tin địa lý (GIS) là hệ thông tin đa dạng dùng để lưu trữ, xử lý, phân tích, tổng hợp, điều hành và quản lý những dữ liệu không gian, đồng thời cho phép lấy và trình bày thông tin dưới dạng dễ tiếp nhận, trao đổi và sử dụng. Có thể coi đây là một công cụ hoặc là một phương pháp có hiệu quả trong nghiên cứu địa lý kinh tế - xã hội. Nó cho phép chồng xếp các thông tin địa lý để xác định được những đặc trưng của các đối tượng nghiên cứu với độ tin cậy cao. 5.2.6 Phương pháp dự báo Đề tài sử dụng phương pháp dự báo dựa trên cơ sở tính toán từ các số liệu đã thu thập được và sự phát triển có tính qui luật của các sự vật, hiện tượng trong quá khứ, hiện tại và tương lai. 6. Cấu trúc luận văn Mở đầu Chương 1: Cơ sở lí luận Chương 2: Hiện trạng phát triển kinh tế biển huyện Gò Công Đông Chương 3: Định hướng và các giải pháp phát triển kinh tế biển huyện Gò Công Đông đến năm 2020. Kiến nghị Kết luận Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Biển 1.1.1 Khái niệm về biển Mặt nước bao la liền một dải của đại dương Thế giới chiếm 70,8% diện tích bề mặt hành tinh của chúng ta. Tên gọi “đại dương” bắt nguồn từ tên riêng của con sông thần thoại Okêan. Theo sự tưởng tượng của người Babylon và người Ai Cập vào thời kỳ văn hóa sơ khai, con sông này bao quanh các đất nổi mà hình dạng như một cái đĩa bằng phẳng. Sự phát triển của ngành hàng hải dần dần cho thấy rõ ràng không phải là một con sông bao quanh các lục địa, nhưng tên riêng của con sông thần thoại ấy vẫn còn lại. Khi có sự thâm nhập của lục địa vào đại dương thì các đảo và bán đảo được hình thành và ngược lại, khi có sự thâm nhập của đại dương vào lục địa thì các biển, vịnh và eo biển được hình thành. Biển là một bộ phận biệt lập của đại dương. Nó được phân biệt bởi những đặc điểm tự nhiên, chủ yếu là bởi những đặc điểm thủy văn và khí hậu. Nó có thể nằm giữa hai lục địa, ăn sâu vào lục địa hoặc tách ra khỏi đại dương bởi các bán đảo, đảo và địa hình ngầm. Tùy thuộc vào đặc tính của sự tiếp xúc giữa lục địa và đại dương, các biển được phân chia thành ba nhóm: - Các biển giữa các lục địa. Các biển này được bố trí giữa hai lục địa. Cần chú ý rằng các biển giữa các lục địa nằm ở các vòng đai đứt gãy của vỏ Trái đất, cho nên những nét đặt trưng của các biển này là sự chia cắt mạnh mẽ của đường bờ, sự chênh lệch rõ rệt của độ sâu, hoạt động địa chấn và hoạt động núi lửa mạnh mẽ. - Các biển trong lục địa. Các biển này ăn sâu vào trong lục địa, nằm ở thềm lục địa và có độ sâu không lớn. - Các biển rìa lục địa. Các biển này được tách ra khỏi đại dương bởi các quần đảo hay bán đảo, được nối với các đại dương trên những tuyến rộng. Các biển này được bố trí hoặc là ở thềm lục địa với độ sâu nhỏ, hoặc là ở sườn lục địa với sự tăng nhanh đến độ sâu của đại dương.. Vị trí địa lý của biển quy định về nhiều mặt chế độ thủy văn của nó. Các biển trong lục địa ít liên quan với đại dương, cho nên độ mặn của nước, chế độ của các dòng biển và của thủy triều ở các biển này khác biệt rõ rệt so với đại dương. 1.1.2 Khái niệm về vùng ven biển Từ trước đến nay có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về biển đã đưa ra các định nghĩa khác nhau về vùng ven biển. Dưới đây là một số định nghĩa về vùng ven biển đã được lựa chọn tùy theo từng quốc gia và từng lĩnh vực khoa học cụ thể. - Vùng ven biển (theo các nhà khoa học Nga) là dải ranh giới giữa đất liền và biển, đặc trưng bởi sự có mặt phổ biến của các dạng địa hình bờ biển cổ và hiện đại. Định nghĩa này phù hợp với nghiên cứu môi trường và tài nguyên thiên nhiên, nhưng hạn chế khi nghiên cứu về địa lý, nhân khẩu học và kinh tế học, không nêu được những ảnh hưởng của biển đến các hoạt động kinh tế hướng tới biển. - Vùng ven biển (theo Joe Baker – Viện khoa học biển Australia) là dải đất rộng khoảng 3km dọc đường bờ biển, bao gồm phần kéo dài của biển đến ranh giới ảnh hưởng của thủy triều vào trong đất liền. Định nghĩa này đã đề cập đến tương tác biển và lục địa nhưng vẫn còn hạn chế khi nghiên cứu về các tác động kinh tế - xã hội trong quá trình khai thác lợi thế của biển. - Vùng ven biển (theo định nghĩa của Tổ chức bảo tồn thiên nhiên Quốc tế) là vùng tính sâu vào nội địa tới điểm ảnh hưởng của thủy triều lên các con sông, suối và các vùng đất ngập nước, hoặc tính sâu vào nội địa 10 km, tùy theo khoảng cách nào lớn hơn. Định nghĩa này thiên về nghiên cứu tài nguyên thiên nhiên. Các tác giả theo quan điểm này cũng chưa chú ý đến các vấn đề về kinh tế - xã hội, dân cư sinh sống và khai thác các nguồn lợi biển. Khi phân tích các tác động kinh tế - xã hội và môi tường của phần lãnh thổ sát biển với các vùng bị nhiễm mặn cho thấy các hoạt động kinh tế - xã hội của dân cư mang những sắc thái đặc thù gắn với nguồn lợi ven biển. Quá trình khai phá thềm lục địa, phát triển các lĩnh vực kinh tế hướng tới mở rộng kinh tế đối ngoại qua đường hàng hải của dân cư các quốc gia có biển cho thấy các định nghĩa chung về vùng ven biển phải đề cập không chỉ đến những tiêu chí khách quan về điều kiện tự nhiên và tài nguyên vùng ven biển, mà còn phải phản ánh được các vấn đề về dân cư và các hoạt động kinh tế - xã hội, đồng thời phải tuân thủ những điều luật Quốc tế và Quốc gia về xác định chủ quyền, ranh giới và các vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia trên biển. Như vậy, có thể phân định vùng ven biển là toàn bộ phần đất liền ven biển và các hải đảo trên phần biển hải phận và vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia. Đó là một không gian để bố trí các hoạt động kinh tế - xã hội hướng biển. 1.2. Kinh tế biển 1.2.1 Khái niệm về kinh tế biển Kinh tế biển là một ngành kinh tế có vai trò ngày càng quan trọng. Chính vì thế định nghĩa cụ thể thế nào là kinh tế biển là việc làm rất có ý nghĩa. Trước tiên, kinh tế biển phải được định nghĩa bằng cách tách ra giữa hoạt động biển và phi biển. Theo giáo sư Nguyễn Văn Hường (Tạp chí hoạt động khoa học kỹ thuật – số 5 năm 1996) đã viết: “Kinh tế biển là một lĩnh vực bao trùm gồm nhiều ngành hoạt động liên quan đến biển như: thủy sản, du lịch, giao thông vận tải, dầu khí,…nhằm khai thác toàn bộ lợi ích mà biển có thể mang lại để phát triển đất nước”. Như vậy, chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản: kinh tế biển là những hoạt động kinh tế dựa trên việc khai thác các nguồn tài nguyên và môi trường biển. Khi xem xét tới kinh tế biển, cũng cần đề cập đến kinh tế vùng ven biển ở một mức độ cần thiết. Để có một khái niệm mang tính quy ước khi phân tích, quan niệm kinh tế biển bao gồm: 1) Toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển, chủ yếu gồm: 1. Kinh tế Hàng hải (Vận tải biển và Dịch vụ cảng biển); 2. Hải sản (đánh bắt và nuôi trồng hải sản); 3. Khai thác Dầu khí ngoài khơi; 4. Du lịch biển; 5. Làm muối; 6. Dịch vụ tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn; 7. Kinh tế đảo. Có thể coi đây là quan niệm về kinh tế biển theo nghĩa hẹp. 2) Các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan đến khai thác biển, tuy không phải diễn ra trên biển nhưng những hoạt động kinh tế này là nhờ vào yếu tố biển hoặc trực tiếp phục vụ các hoạt động kinh tế biển ở dải đất liền ven biển, bao gồm: 1. Đóng và sửa chữa tàu biển (hoạt động này cũng được xếp chung vào lĩnh vực kinh tế hàng hải); 2. Công nghiệp chế biến dầu, khí; 3. Công nghiệp chế biến thuỷ, hải sản; 4. Cung cấp dịch vụ biển; 5. Thông tin liên lạc (biển); 6. Nghiên cứu khoa học - công nghệ biển, đào tạo nhân lực phục vụ phát triển kinh tế biển, điều tra cơ bản về tài nguyên - môi trường biển. Có thể coi cách hiểu kinh tế biển bao gồm cả các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển và các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan đến khai thác biển ở dải đất liền ven biển là quan niệm về kinh tế biển theo nghĩa rộng. Cách quan niệm về kinh tế biển như vậy về cơ bản cũng thống nhất với thông lệ quốc tế. Ví dụ, trong thống kê hàng năm về kinh tế biển của Trung Quốc, tập hợp trong khái niệm về kinh tế biển bao gồm: hải sản, khai thác dầu và khí tự nhiên ngoài khơi, các bãi biển, công nghiệp muối, đóng tàu biển, viễn thông và vận tải biển, du lịch biển, giáo dục và khoa học biển, bảo vệ môi trường biển, dịch vụ biển… Hiện nay thế giới thống nhất kinh tế biển là nền kinh tế tổng thành của các ngành công nghiệp do môi trường biển đem lại. Môi trường biển được định nghĩa là những vùng biển Việt Nam có chủ quyền: mặt nước ven bờ, lãnh hải, vùng kinh tế đặc quyền. Môi trường biển là một chức năng gồm cả công nghiệp và địa lý. Nhưng trong các báo cáo tổng kết về kinh tế biển hiện nay, ta chỉ thấy một bức tranh không toàn cục, chủ yếu là đánh bắt, dầu khí và vận tải. Tại các hội thảo về kinh tế biển, người ta vẫn thấy những cái nhìn rời rạc, chưa có một nghiên cứu tổng thể để từ đó lên kế hoạch cụ thể cho từng ngành công nghiệp biển vừa nêu. Ở các nước, vẫn có nhiều tranh cãi trong các phép đo của từng ngành công nghiệp biển, cũng như sự đối kháng, xung đột của các ngành, kể cả những xung đột nhất định trong nội bộ ngành. Chẳng hạn đánh bắt và nuôi trồng xung đột với nhau vì một bên gây ô nhiễm môi trường, làm cho cá không sinh sản trong những vùng nước gần bờ được. Chẳng hạn khai thác dầu khí, khoáng sản thường gây ô nhiễm nước ảnh hưởng đến đời sống hải sản… nếu không tính đến bài toán phát triển bền vững qua bảo vệ môi trường một cách hữu hiệu, biển sẽ trở thành sa mạc nước. Khác với kinh tế biển, kinh tế vùng ven biển là toàn bộ các hoạt động kinh tế ở dải ven biển (có thể tính theo địa bàn các xã ven biển, các huyện ven biển hoặc cũng có thể là các tỉnh ven biển - có biên giới đất liền tiếp giáp với biển), bao gồm cả các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp; công nghiệp và dịch vụ trên phạm vi địa bàn lãnh thổ này 1.2.2 Cơ cấu của kinh tế biển Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành. Từ định nghĩa này có thể nhấn mạnh đến hai nội dung chủ yếu: thứ nhất, đó là tổng thể các bộ phận hợp thành và thứ hai, chúng có mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn định. Cơ cấu ngành (lĩnh vực) kinh tế là một bộ phận cấu thành cơ bản của nền kinh tế quốc dân. Đây là tổng hợp các ngành (lĩnh vực) của nền kinh tế được sắp xếp theo một tương quan tỷ lệ nhất định. Nói cách khác, cơ cấu ngành thể hiện số lượng, tỷ trọng của ngành (lĩnh vực) tạo nên nền kinh tế. Có rất nhiều ngành tạo thành nền kinh tế. Về đại thể, chúng được phân thành ba nhóm ngành sau đây: - Khu vực 1 bao gồm: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp. - Khu vực 2 bao gồm: công nghiệp và xây dựng. - Khu vực 3 là dịch vụ. Cần lưu ý thêm, trong nền kinh tế có cơ cấu ngành thì trong bản thân từng ngành cũng tồn tại cơ cấu đó. Chẳng hạn, cơ cấu ngành của ngư nghiệp là tương quan tỷ trọng giữa đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản,... Cơ cấu kinh tế biển theo nghĩa hẹp bao gồm: 1. Kinh tế Hàng hải (Vận tải biển và Dịch vụ cảng biển); 2. Hải sản (đánh bắt và nuôi trồng hải sản); 3. Khai thác Dầu khí ngoài khơi; 4. Du lịch biển; 5. Làm muối. 1.2.2.1 Kinh tế hàng hải Đại dương, biển chiếm gần 71% bề mặt của hành tinh xanh. Lịch sử tiến hóa của loài người luôn được gắn kết với biển. Văn minh nhân loại càng phát triển thì giá trị của biển càng được tôn vinh. Ngành hàng hải ra đời, biển chẳng những là cầu nối giữa các châu lục, các quốc gia mà còn là tài sản vô giá của Trái đất. Từ sau những cuộc phát kiến địa lý lớn, ngành hàng hải mới chính thức ra đời và phát triển khá nhanh cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Thế giới, với sự trao đổi hàng hóa giữa các nước có chuyên môn hóa kinh tế khác nhau, giữa chính quốc và các nước thuộc địa, giữa các nước có nền kinh tế phát triển và các nước kém phát triển. Ngành vận tải biển là ngành mang tính chất kinh doanh, phục vụ trong khâu vận chuyển hàng hải bằng đường biển và xếp dỡ hàng hóa tại cảng biển. Khâu vận chuyển có nhiệm vụ tổ chức khai thác và kinh doanh tàu biển hoạt động trên một địa bàn rộng lớn. Khâu xếp dỡ có nhiệm vụ tổ chức khai thác và kinh doanh các hoạt động sản xuất, phục vụ ở cảng biển. Vận tải biển ra đời khá sớm so với các phương thức vận tải khác. Ngay từ thế kỷ thứ V trước công nguyên, con người đã biết lợi dụng biển làm các tuyến đường giao thông để giao lưu các vùng miền, các quốc gia với nhau trên thế giới. Cho đến nay, vận tải biển được phát triển mạnh và trở thành ngành vận tải hiện đại trong hệ thống vận tải quốc tế. Khối lượng hàng hóa vận chuyển bằng đường biển không lớn, nhưng vì đường dài nên hiện nay đường biển đảm đương tới 3/5 khối lượng luân chuyển hàng hóa của tất cả các phương tiện vận tải trên Thế giới. Không chỉ có các tuyến viễn dương có ý nghĩa quan trọng, mà cả các tuyến vận tải ven bờ cũng có ý nghĩa đối với các nước có đường bờ biển. Các tuyến hàng hải thường được chia thành ba loại: từ cảng đến cảng (port – to – port), tuyến con lắc (pendulum) và vòng quanh Thế giới (round the world). Các dịch vụ kiểu con lắc rất được ưa chuộng do tính chất uyển chuyển trong dịch vụ và đặc biệt là trong thời đại chuyên chở bằng các tàu container. Trong những năm gần đây, còn có khuynh hướng tích hợp và chuyên môn hóa các tuyến đường biển nhờ các tàu chuyển tải đường ngắn nối các cảng lớn với nhau. Đại dương bao la nhưng các tuyến đường hàng hải lại chỉ tập trung ở một số tuyến quan trọng: Bắc Đại Tây Dương nối Châu Âu và Bắc Mỹ, Địa Trung Hải – Châu Á qua kênh Suez, thông qua kênh Panama nối Châu Âu và bờ Đông Hoa Kỳ và Châu Á, đường biển Nam Phi nối Châu Âu qua Châu Mỹ với Châu Phi, đường biển Nam Mỹ nối Châu Âu và Bắc Mỹ với Nam Mỹ, đường Biển Bắc Thái Bình Dương nối Tây Hoa Kỳ với Nhật Bản và Trung Quốc, đường biển Nam Thái Bình Dương từ Tây Hoa Kỳ đến Ôxtrâylia, Niu Dilân, Inđônêsia và Nam Á. Đường biển từ vùng vịnh Pecxich qua mũi Hảo Vọng (Nam Phi) đến Châu Âu và Châu Mỹ dành riêng cho các tàu chở dầu khổng lồ không đi qua được kênh Suez. Vận tải đường biển là loại phương tiện vận tải hàng hóa chủ yếu nhất trong thương mại quốc tế. Trước khi Thế giới bước vào kỷ nguyên của các chuyến bay liên lục địa thì vận chuyển hành khách bằng tàu biển khá quan trọng, nhất là ở Bắc Đại Tây Dương, nối Châu Âu với Bắc Mỹ. Vào năm 1838, vượt Đại Tây Dương hết 15,5 ngày (tàu Great Western), thì đến đầu thế kỷ XX chỉ còn 4,5 ngày (tàu Mauritania, 1907) và đến năm 1952 chỉ còn 3,5 ngày (tàu United States, 1952). Nhưng cũng từ thời điểm đó, vận tải hàng không đã chiếm mất vị trí độc tôn của tàu vận tải khách xuyên Đại Tây Dương. Hiện nay, chỉ còn một số tàu chở khách viễn dương nhằm mục tiêu du lịch, các phà biển (ferries) hay các tàu chở khách nhỏ như các nước quần đảo Inđônêxia, Philippin, các nước vùng Caribê. Trong khi việc chuyên chở hành khách bằng đường biển giảm sút thì việc chuyên chở dầu mỏ, các hàng hóa khác lại tăng lên mạnh. Việc chuyên chở các loại khoáng sản, gỗ, ngũ cốc,… vẫn còn chiếm một khối lượng lớn, từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, việc chuyên chở các loại hàng chế biến ngày càng tăng mạnh. Khoảng ½ khối lượng hàng vận chuyển trên đường biển quốc tế là dầu mỏ và các sản phẩm dầu mỏ. Việc chở dầu bàng các tanke luôn đe dọa ô nhiễm môi trường. Toàn Thế giới có hàng trăm tàu chở dầu có trọng tải trên 100 nghìn tấn đang hoạt động. Tàu chở dầu chở tới hơn 300 loại sản phẩm dầu mỏ và mỡ. Mỗi khi lấy hàng, người ta xả nước, nước nóng vào các khoang để rửa sạnh tàu rồi trút nước và cặn bẩn xuống biển. Theo đánh giá của UNEP (Chương trình môi trường của Liên Hợp Quốc) năm 1987, thì mỗi năm các tàu chở dầu trút xuống biển 1,1 triệu tấn dầu mỏ từ nước rửa tàu và nước trọng tải dầu, cộng thêm khoảng 500 nghìn tấn dầu do các sự cố tàu dầu. Hiện nay, khoảng 100000 tàu biển có trọng tải trên 100 tấn đang hoạt động khắp Thế giới, trong đó ½ làm nhiệm vụ trọng tải, còn ½ làm nhiệm vụ dịch vụ. Cùng với sự mở rộng buôn bán quốc tế, đội tàu biển đã tăng lên cả về số lượng và trọng tải trung bình. Trong đời sống ngành hàng hải Thế giới phổ biến hiện tượng chủ tàu mượn cờ của nước khác, chẳng hạn gần như toàn bộ đội tanke của Libêria và Panama là thuộc về các chủ tàu Hoa Kỳ, Hi Lạp và một số nước khác. Điều này giải thích tại sao có các quốc gia tuy không đóng vai trò lớn trong nền kinh tế Thế giới nhưng lại có đội tàu buôn với trọng tải rất lớn. Đội tàu buôn được chia thành tàu chở khách, tàu chở hàng (cargo ship) và tàu chở dầu (tanke). Các tàu hàng thông thường có thể chở hàng được đóng gói, hàng rót (quặng, ngũ cốc) và cả một số hàng lỏng (mủ cao su, dầu ăn,..). Có những tàu hàng được thiết kế chuyên dụng để chuyên chở ô tô, ngũ cốc. Đối với địa lý vận tải đường biển, mạng lưới các cảng biển có ý nghĩa căn bản. Cảng biển là nơi tàu đỗ tiện lợi và an toàn, nơi có thể tiến hành bốc dỡ hàng hóa và xếp hàng mới. Thường thì các cảng tự nhiên được xây dựng ở bờ vịnh nước sâu hay ở các cửa sông. Người ta thường phân loại các cảng thành cảng địa phương, cảng khu vực hay cảng quốc tế, cảng chuyển tải, cảng bách hóa hay cảng chuyên dụng. Lịch sử của ngành đường biển thế giới cho thấy kinh tế biển luôn được coi là ngành mũi nhọn, trong đó vai trò chủ đạo là cảng biển. Nơi nào có cảng biển, nơi đó sẽ là thành phố với kinh tế, công nghiệp và giao thương phát triển. Cảng biển phồn vinh, kinh tế biển càng mạnh. Cảng biển là kết cấu hạ tầng quan trọng của kinh tế hàng hải, nó phải đi trước một bước để thúc đẩy các ngành kinh tế biển khác phát triển. Vì vậy cần phải có một quy hoạch cụ thể, phù hợp vì hoạt động của một cảng biển tồn tại đến hàng trăm năm hoặc lâu hơn thế. Chẳng hạn cảng Rotterdam của Hà Lan hình thành từ những năm 1860 đến nay đã gần 150 năm mà vẫn còn sầm uất, hiện nay vẫn là cảng lớn nhất Châu Âu và còn một số cảng khác như: cảng London của Anh, cảng Hamburg của Đức, cảng Antwerp của Bỉ cũng tương đồng ý nghĩa đó. Cảng nằm trong một hệ thống phân phối hàng hóa. Vì vậy, để phân tích sự phát triển và hoạt động của cảng, người ta phải quan tâm đến hậu phương (hinterland) và vùng trước cảng (foreland). Hậu phương của cảng có thể được hiểu là một bộ phận lãnh thổ của đất nước tạo nên thị trường tự nhiên và phục vụ cho cảng. Vùng trước cảng có thể được hiểu là vùng đất đối diện với hậu phương của cảng qua vùng biển, nơi mà hàng hóa được chở từ đó đến cảng và ngược lại. Vùng trước cảng xác định sự tham gia của cảng vào nền kinh tế Thế giới. Hiện trên Thế giới có khoảng 6000 – 7000 cảng đang hoạt động, nhưng chỉ khoảng 100 có ý nghĩa toàn cầu. Cuối cùng, cần phải đề cập đến ba vị trí địa lý chiến lược cực kỳ quan trọng trong hàng hải Thế giới hiện đại: kênh Suez (được đào cắt ngang eo đất Suez của Ai Cập, nối Đại Tây Dương với Ấn Độ Dương), kênh Panama (cắt qua eo đất Panama rộng 50 km là con đường ngắn nhất nối Thái Bình Dương và Đại Tây Dương) và eo biển Malacca. 1.2.2.2 Hải sản Nguồn lợi hải sản là thế mạnh đặc trưng của biển và khi nói về kinh tế biển không thể không nhắc đến vai trò, vị trí của ngành. Ngành hải sản bao gồm các lĩnh vực như: khai thác, nuôi trồng, chế biến. Tài nguyên sinh vật biển rất phong phú, đa dạng, bao gồm nguồn lợi động vật biển (cá, tôm, cua, các loài động vật thân mềm (mực, bào ngư, trai ngọc,…) và nhiều động vật có giá trị cả về kinh tế và nghiên cứu đa dạng sinh học biển như: rùa biển, sứa,…) và thực vật biển (rong biển). Sức sản xuất nguyên khai của biển khoảng 500 tỷ tấn/năm và sản lượng hàng năm đạt khoảng 600 triệu tấn. Đây là tiềm năng rất lớn đối với ngành khai thác thủy sản của Thế giới. Theo thống kê của FAO, hiện nay toàn Thế giới có hơn 160 quốc gia làm kinh tế thủy sản, trong đó có hơn 20 quốc gia có sản lượng đánh bắt cá biển trên 1 triệu tấn/năm thuộc Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ. Sản lượng khai thác thủy sản từ nửa sau thế kỷ XX cho đến nay ngày càng tăng nhanh. Vào những năm 1950, sản lượng khai thác gần 20 triệu tấn thì đến những năm đầu của thế kỷ XXI, sản lượng thủy sản khai thác đạt gần 100 triệu tấn. Các nước có sản lượng đánh bắt thủy sản lớn nhất Thế giới là Trung Quốc (gần 18 triệu tấn), Pêru (gần 8 triệu tấn), Hoa Kì (5 triệu tấn), Nhật Bản (4,8 triệu tấn), Inđônêxia (4,3 triệu tấn), Chilê (4 triệu tấn), Ấn Độ (3,9 triệu tấn), Liên Bang Nga (3,7 triệu tấn), Thái Lan (2,9 triệu tấn) và Na Uy (2,8 triệu tấn). Đến năm 2007, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có tiềm năng khai thác hải sản trên biển, xếp thứ 12 trên thế giới về năng lực đánh bắt với sản lượng luôn ổn định ở mức 1,5 - 1,8 triệu tấn/năm. Ngành khai thác thủy sản đòi hỏi phải có cơ sở vật chất kỹ thuật đồng bộ. Đó là các đội tàu đánh cá lớn với tàu chế biến đi kèm, lưới tốt, thiết bị hiện đại thăm dò luồng cá, các cảng cá, xí nghiệp sửa chữa tàu, chế tạo ngư cụ, các cơ sở hậu cần dịch vụ,… Tuy nhiên, việc khai thác thủy sản quá mức ảnh hưởng lớn đến nguồn lợi thủy sản. Vì vậy, vấn đề khai thác hợp lý kết hợp với bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên thủy sản có ý nghĩa to lớn. Một số ngư trường, chẳng hạn bãi cá thu Grand Banks ngoài khơi phía đông Canada, đã bị khai thác vượt quá khả năng phục hồi. Đánh bắt cá quá mức đã trở thành một vấn đề lớn. Theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc, hơn 25% ngư trường trên toàn thế giới bị khai thác quá mức, 50% bị đánh bắt hết công suất và 75% cần được cấm hoặc giảm tốc độ đánh bắt ngay lập tức để đảm bảo nguồn cá cho tương lai. Các ngư trường khai thác thủy sản chủ yếu trên Thế Giới là Biển Bắc, Đông Bắc Đại Tây Dương, Tây Bắc Đại Tây Dương, Trung Tâm Tây Đại Tây Dương, Tây Nam Đại Tây Dương, Bắc Địa Trung Hải, Đông Ấn Độ Dương, Tây Bắc Thái Bình Dương, Đông và Đông Bắc Thái Bình Dương, Tây Nam Thái Bình Dương Tuy việc đánh bắt từ biển vẫn còn cung cấp cho Thế giới tới 2/3 sản lượng thủy sản, song ngành nuôi trồng đã và đang phát triển nhanh với vị thế ngày càng cao. Rõ ràng, nguồn tài nguyên biển là có giới hạn, lại đang bị con người khai thác quá mức. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của Thế giới, việc phát triển nuôi trồng thủy sản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Sản lượng thủy sản nuôi trồng của Thế giới từ năm 1950 đến nay tăng gấp 3 lần, đạt trên 48 triệu tấn. Các loài thủy sản được nuôi ở các vùng nước lợ và nước mặn ngày càng phổ biến với nhiều loài có giá trị cao về thực phẩm, về kinh tế đã trở thành đối tượng nuôi trồng để xuất khẩu như tôm (tôm sú, tôm hùm,..), cua, cá… Ngành nuôi trồng phát triển mạnh ở các nước Châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Philippin,…Ngoài ra còn có các nước khác như Bănglađet, Hàn Quốc, Chilê,… Sự tăng trưởng của các hoạt động nuôi trồng, khai thác, đánh bắt, chế biến thủy hải sản là lĩnh vực quan trọng đối với phát triển kinh tế biển, phát triển kinh tế - xã hội vùng biển. Trong đó năng lực đánh bắt thủy sản phụ thuộc vào việc trang bị cơ giới và công suất động lực của tàu thuyền. Và bên cạnh các hoạt động khai thác, đánh bắt hải sản tự nhiên thì việc đầu tư nuôi thủy sản cũng đã được phát triển rộng rãi, trở thành một nghề mới có ý nghĩa quan trọng của đông đảo dân cư vùng biển. Hoạt động nuôi trồng thủy sản đa dạng, tập trung vào các loại sản phẩm có giá trị kinh tế cao và phù hợp với điều kiện sinh thái của mỗi địa phương. Kế đến là hoạt động chế biến thủy hải sản, đây là biện pháp tốt nhất nhằm bảo quản các sản phẩm thủy hải sản từ hoạt động đánh bắt và nuôi trồng. Nguồn nguyên liệu hải sản dồi dào cung cấp cho các ngành công nghiệp chế biến, tạo một bước khởi đầu quan trọng cho ngành công nghiệp chế biến thực phẩm phát triển. Trên Thế giới, ngành công nghiệp chế biến hải sản rất phát triển và ngày càng có vai trò quan trọng trong cuộc sống con người, góp phần tăng giá trị của các nguồn tài nguyên trong lòng biển cả.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan