ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
------o0o-----
BÙI THÙY VÂN
ĐÁNH GIÁ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VỊNH BÁI TỬ LONG –
QUẢNG NINH PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH
LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH
HÀ NỘI, 2009
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
BÙI THÙY VÂN
ĐÁNH GIÁ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VỊNH BÁI TỬ LONG –
QUẢNG NINH PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH
Chuyên ngành: Du lịch
(Chương trình đào tạo thí điểm)
LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH
Nguời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Đức Thanh
HÀ NỘI, 2009
2
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT.......................................................................3
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU .............................................................................4
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................5
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ................................................................................12
1.1.Khái niệm .......................................................................................................12
1.1.1.Điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch ..................................................12
1.1.2.Đánh giá điều kiện tự nhiên ......................................................................14
1.1.3.Ý nghĩa đánh giá điều kiện tự nhiên .........................................................18
1.2.Phƣơng pháp đánh giá điều kiện tự nhiên ..................................................20
1.2.1. Các phương pháp phổ biến trong đánh giá điều kiện tự nhiên ...............24
1.2.2. Xác định thang đánh giá ..........................................................................25
1.2.2.1. Các yếu tố đánh giá ...........................................................................24
1.2.2.2. Điểm của bậc và hệ số của các yếu tố ...............................................32
Chƣơng 2: MỨC ĐỘ THUẬN LỢI CỦA ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VỊNH BÁI
TỬ LONG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH ..................................................36
2.1. Tổng quan về Vịnh Bái Tử Long ................................................................ 36
2.1.1. Điều kiện tự nhiên ....................................................................................36
2.1.2. Các khu vực du lịch .................................................................................40
2.2. Kết quả đánh giá từng yếu tố ......................................................................41
2.2.1. Độ hấp dẫn............................................................................................... 41
2.2.2. Độ bền vững của môi trường tự nhiên ....................................................56
2.2.3. Vị trí và khả năng tiếp cận .......................................................................62
2.2.4.Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch ......................................65
2.3. Kết quả đánh giá tổng hợp ..........................................................................70
2.3.1. Khu vực trung tâm – thị trấn Cái Bầu .....................................................70
2.3.2.Khu vực Quan Lạn – Minh Châu ..............................................................70
3
2.3.3. Khu vực Bản Sen ......................................................................................71
2.3.4. Khu vực Ngọc Vừng – Thắng Lợi ............................................................71
Chƣơng 3. ĐỊNH HƢỚNG KHAI THÁC ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN CHO MỤC
ĐÍCH DU LỊCH ......................................................................................................74
3.1. Thực trạng phát triển du lịch ở khu vực Vịnh Bái Tử Long....................74
3.2. Thuận lợi và khó khăn trong phát triển du lịch ........................................76
3.2.1.Thuận lợi ...................................................................................................76
3.2.2.Khó khăn ...................................................................................................80
3.3. Đề xuất quy hoạch du lịch ..........................................................................81
3.3.1.Khu vực trung tâm – Thị trấn Cái Rồng ...................................................81
3.3.2.Khu vực Quan Lạn – Minh Châu ..............................................................83
3.3.3.Khu vực Ngọc Vừng – Thắng Lợi .............................................................84
3.3.4.Khu vực Bản Sen .......................................................................................85
KẾT LUẬN ..............................................................................................................88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 90
4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BTL
Bái Tử Long
DLST
Du lịch sinh thái
ĐKTN
Điều kiện tự nhiên
HST
Hệ sinh thái
KT – XH
Kinh tế - Xã hội
KS
Khách sạn
SSD
Chiến lược phát triển bên vững
TNDL
Tài nguyên du lịch
TNTN
Tài nguyên thiên nhiên
TX
Thị xã
VQG
Vườn Quốc gia
5
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Stt
Hình
1
2
1.1
1.2
3
1.3
4
5
6
7
1.4
2.1
2.2
2.3
Tên hình
Trang
Các chỉ tiêu đánh giá bãi tắm
Những điều kiện tốt cho một bãi tắm
Các chỉ tiêu đánh giá độ tương phản của tổng thể tự
nhiên
Mức độ đánh giá điều kiện tự nhiên phục vụ phát
triển du lịch
Kết quả quan trắc môi trường nước biển ven bờ tại
huyện Vân Đồn
25
25
Chất lượng nước biển ven đảo
57
27
34
57
Kết quả đánh giá tổng hợp Khu vực trung tâm – Thị trấn
Cái Bầu
70
8
2.4
Kết quả đánh giá tổng hợp khu vực Quan Lạn –
Minh Châu
70
9
2.5
Kết quả đánh giá tổng hợp khu vực Bản Sen
71
10
2.6
Kết quả đánh giá tổng hợp khu vực Ngọc Vừng –
Thắng Lợi
71
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bái Tử Long là một vịnh của Việt Nam, nằm trong vịnh Bắc Bộ, ở vùng Đông
Bắc của Việt Nam. Vịnh Bái Tử Long bao gồm một vùng biển của thành phố Hạ
Long, thị xã Cẩm Phả và huyện đảo Vân Đồn. Phía Tây Nam giáp Vịnh Hạ Long,
phía Đông giáp biển, phía Tây giáp đất liền với thị xã Cẩm Phả và phía đông bắc
giáp huyện đảo Cô Tô . Vịnh Bái Tử Long bao gồm hàng trăm hòn đảo lớn nhỏ và
trong đó có nhiều đảo lớn và có dân sinh sống. Cư dân tập trung ở các đảo lớn Cái
Bầu, Trà Bản, Minh Châu, Quan Lạn, Ngọc Vừng, sống chủ yếu bằng nghề đánh
bắt, nuôi trồng thủy sản. Và hiện nay du lịch là một hoạt động kinh tế chiếm vị trí
quan trọng hàng đầu, góp phần thay đổi diện mạo cuộc sống cư dân nơi đây.
Các đảo ở Bái Tử Long có dạng là đảo đá vôi và đảo phiến thạch, là hình ảnh cổ
xưa của địa hình có tuổi kiến tạo địa chất khoảng 300 triệu năm. Quá trình Carstơ
bào mòn, phong hoá tạo ra một một hình thái đặc biệt như một bức tranh thủy mạc
được tạo ra từ biển và đảo.
Nằm cạnh Vịnh Hạ Long, di sản thiên nhiên thế giới, vịnh Bái Tử Long với
những hòn đảo xinh đẹp và những bãi cát dài trắng xóa ngày càng hấp dẫn khách du
lịch trong và ngoài nước, có tiềm năng vô cùng lớn để phát triển thành một điểm
đến du lịch biển có chất lượng cao.
Tuy nhiên, sự phát triển du lịch ở đây vẫn mang tính bột phát. Để có có sở xây
dựng quy hoạch phát triển du lịch, tạo ra những sản phẩm du lịch đặc thù, cần phải
nắm vững các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực tự nhiên. Mặc dù vậy cho đến nay
vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu đánh giá về nguồn lực này. Kiểm kê, đánh
giá toàn bộ tài nguyên du lịch đặc biệt là tài nguyên du lịch tự nhiên góp phần xây
dựng quy hoạch, nhằm phát triển du lịch bền vững vừa mang lại hiệu quả kinh tế
vừa bảo vệ môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Do vậy nghiên cứu đánh giá
7
các điều kiện tự nhiên phục vụ mục đích phát triển du lịch là một việc làm cần thiết
vừa có ý nghĩa khoa học vừa có ý nghĩa thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Khái quát đặc điểm chung Vịnh Bái Tử Long và những nét chính về hoạt động
du lịch tại đây. Xây dựng cơ sở lý luận cho việc đánh giá. Lựa chọn các yếu tố đánh
giá: Độ hấp dẫn, độ bền vững của các thành phần tự nhiên, vị trí và khả năng tiếp
cận, cơ sở hạ tầng và vật chất kỹ thuật phục vụ phát triển du lịch. Xây dựng thang
điểm, hệ số của từng yếu tố: phân tích chi tiết phương pháp nghiên cứu, tính toán để
có hệ số cho từng yếu tố. Xác định thang điểm chung cho tổng thể các yếu tố. Từ
đó, đánh giá điều kiện tự nhiên của những điểm du lịch chính thuận lợi ở mức độ
nào cho phát triển du lịch.
Xác định giá trị điều kiện tự nhiên của các điểm du lịch chủ yếu. Xác định những
loại hình du lịch phù hợp với điều kiện tự nhiên của toàn bộ khu vực vịnh nói chung
và từng khu vực du lịch chính. Đề xuất một số ý kiến để quy hoạch các điểm du lịch
trong khu vực vịnh để đảm bảo sự phát triển bền vững, đạt được sự cân bằng giữa
tăng trưởng, phát triển kinh tế và bảo vệ tài nguyên.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
*Thế giới
Theo Projinik [23] từ những năm 30 của thế kỷ XX đã có các công trình nghiên
cứu các dòng khách và tài nguyên du lịch. Đến thập niên 60 và 70 có các công trình
đánh giá điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên phục vụ mục đích nông
nghiệp, xây dựng, giao thôngv.v…Ngành địa lý đánh giá phổ biến nhất là đánh giá
mức độ thuận lợi của các điều kiện địa lý hoặc tài nguyên cho một hoạt động kinh tế
nào đó. Thuật ngữ này đã được sử dụng rộng rãi trong các công trình nghiên cứu
của các nhà địa lý Liên Xô… Phương pháp đánh giá mức độ thuận lợi được sử dụng
để đánh giá các tổng thể tự nhiên cho một mục đích kinh tế nào đó. Nhưng sao này
nó được rất nhiều nhà nghiên cứu du lịch áp dụng trong đánh giá lãnh thổ, đánh giá
các loại tài nguyên du lịch, đánh giá cho việc phát tiển du lịch bền vững, đánh giá
cho việc xác lập các điểm, tuyến du lịch….
8
Đáng kể có công trình của L.I.Mukhina “Những nguyên tắc và phương pháp
đánh giá kỹ thuật các tổng thể tự nhiên”[8]. Giá trị của công trình này là đã đóng
góp phương pháp luận khoa học cho các công trình đánh giá tổng thể tự nhiên. Tác
giả đã chỉ ra được những bước cơ bản để tiến hành một công trình đánh giá và được
áp dụng vào rất nhiều các công trình đánh giá trong lĩnh vực du lịch. Theo tác giả
một công trình đánh giá bao gồm mười bước: Cụ thể hóa nhiệm vụ nghiên cứu, phát
hiện mối liên quan giữa khách thể và chủ thể đánh giá, lựa chọn các yếu tố và chỉ
tiêu cần thiết, xây dựng thang đánh giá thành phần và đánh giá tổng hợp, xây dựng
các chỉ dẫn cho việc đánh giá…Trong phương pháp đánh giá mức độ thuận lợi các
bước tiến hành đánh giá cũng tương tự.
Trong các nghiên cứu của các nhà địa lý và du lịch thuộc các nước phương Tây
đã tiến hành nghiên cứu, đánh giá tài nguyên trong các quy hoạch tổng thể cho phát
triển của một khu vực. Bôniface&Cooper [37], Gunn Clare [38], Edward Inskeep
[39] đều khẳng định nghiên cứu đánh giá tài nguyên là bước cơ bản đầu tiên khi quy
hoạch du lịch. M.Klaus đã đánh giá các điều kiện tự nhiên (địa hình, khí hậu, thực
vật) cho quy hoạch các trung tâm nghỉ dưỡng.
Các nhà nghiên cứu ở khắp nơi trên thế giới đã xây dựng được rất nhiều các chỉ
tiêu để dựa vào đó tiến hành đánh giá các tài nguyên du lịch theo chuẩn: Các chỉ
tiêu về sinh khí hậu, xác định ngưỡng nhiệt độ thuận lợi với cơ thể con người, đối
với các nước có khí hậu nhiệt đới thì nhiệt độ thích hợp là 18-26 độ, còn với những
người sinh sống ở vùng ôn đới thì lại là 15-23 độ [29] . Chỉ tiêu về diện tích bãi tắm
tính theo đầu người ở một số quốc gia như Mỹ, châu Âu. Chỉ tiêu về sức chứa
khách du lịch để đảm bảo hiệu quả khai thác phục vụ du lịch và độ bền vững của
môi trường tự nhiên [ 9 ].
Phương pháp tính giá trị tài nguyên bằng các phương pháp kinh tế cũng được
tiến hành nghiên cứu từ những năm 60. Những nhà khoa học đầu tiên nghiên cứu
xác định giá trị du lịch của các khu vực cảnh quan thiên nhiên theo thị trường là
Clawson và Knetsch. Những kĩ thuật tính toán hiện đã được công nhận và sử dụng
rộng rãi trong đánh giá du lịch là: phân tích chi phí – lợi ích, đánh giá tác động môi
trường, thị trường thay thế (giá trị tài sản, chi phí du hành, đánh giá ngẫu nhiên) và
9
kiểm kê môi trường. Kết quả các sau khi tiến hành đánh giá kinh tế là chính là tiền.
Ví dụ như ở phương pháp chi phí du hành (TCM – Travel cost method) định gái trị
cho cảnh quan thông qua chi phí tham quan. Để có cơ sở cho việc tính toán giá thu
thập thông qua phỏng vấn trực tiếp khách tham quan.
*Việt Nam
Từ những năm 60 của thế kỉ XX ngành địa lý tự nhiên đã có những thành tựu
trong việc phân vùng địa lý và kiểm kê tài nguyên trên toàn quốc tạo tiền đề quan
trọng cho việc quy hoạch lãnh thổ cho các mục đích kinh tế nói chung và du lịch nói
riêng.
Những năm 80 xuất hiện rất nhiều công trình quy hoạch, tổ chức lãnh thổ và
phân vùng du lịch trong đó đều ít nhiều đánh giá tài nguyên du lịch dù chỉ dừng ở
mức khái quát, miêu tả định tính: “Khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường du
lịch Việt Nam” (1986), “Sơ đồ phát triển và phân bố ngành du lịch Việt Nam”
(1986), “Kế hoạch chỉ đạo phát triển du lịch Việt Nam” (1991), “Tổ chức lãnh thổ
du lịch Việt Nam” (Vũ Tuấn Cảnh&nnk, 1995), “Quy hoạch tổng thể phát triển du
lịch Việt Nam” (Tổng cục du lịch, 1995), “Địa lý du lịch” (Nguyễn Minh Tuệ và
nnk, 1997).
“Địa lý du lịch” của Nguyễn Minh Tuệ và nhóm tác giả đã đưa khái niệm về tài
nguyên du lịch, phân loại tài nguyên du lịch, chỉ tiêu để đánh giá các loại tài nguyên
có các tiêu chuẩn thế nào thì sẽ phù hợp với một loại hình du lịch cụ thể, các dạng
cảnh quan như thế nào sẽ có sức hấp dẫn thu hút du lịch. Tác giả cũng đã đưa ra
được cơ sở lý luận và phương pháp khoa học để phân vùng du lịch, xác định tuyến
điểm du lịch.
Các công trình nghiên cứu tiến hành đánh giá tổng hợp các điều kiện tự nhiên và
tài nguyên thiên nhiên phục vụ du lịch: “Dự án quy hoạch tổng thể chỉ đạo phát
triển du lịch hồ Đại Lải huyện Mê Linh, Hà Nội” (Vũ Tuấn Cảnh&nnk,1990),
“Đánh giá và khai thác các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên huyện Ba
Vì- Hà Tây phục vụ mục đích du lịch” (Đặng Duy Lợi, 1993), “Cơ sở khoa học của
việc xác định các điểm, tuyến du lịch Nghệ An” (Nguyễn Thế Chinh, 1995), “Cơ sở
khoa học cho việc xây dựng các tuyến, điểm du lịch vùng Bắc Trung Bộ” (Hồ Công
10
Dũng, 1996). Ba công trình trên đều dùng phương pháp đánh giá mức độ thuận lợi.
Các tác giả đã đánh giá các điều kiện tự nhiên trong khu vực cho mục đích nói
chung, chưa chỉ ra các loại hình du lịch cụ thể nào. Các yếu tố được sử dụng để
đánh giá: Vị trí của điểm du lịch, độ hấp dẫn, cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ
thuật, thời gian hoạt động du lịch, sức chứa khách du lịch, độ bền vững. Trong công
trình của tác giả Nguyễn Thế Chinh và Hồ Công Dũng có thêm yếu tố hiệu quả kinh
tế.
Một trong các công trình tổng quan lý luận về đánh giá tài nguyên du lịch là cuốn
“Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam” của Phạm Trung Lương. Tác giả đã
thống kê các kiểu đánh giá, các phương pháp đánh giá theo từng dạng tài nguyên du
lịch và đánh giá tổng hợp các dạng tài nguyên.
4. Đối tƣợng và phạm vi đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Trong giới hạn của đề tài sẽ chọn thành tố của điều kiện
tự nhiên như địa hình, cảnh quan, bãi biển và các điều kiện cần thiết để khai thác tài
nguyên độ bền vững, vị trí và khả năng tiếp cận, và cơ sở hạ tầng và vật chất kỹ
thuật du lịch.
Giới hạn lãnh thổ: Vịnh Bái Tử Long rất rộng lớn bao gồm một vùng biển của
thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả và huyện đảo Vân Đồn. Phía Tây Nam giáp
Vịnh Hạ Long, phía Đông giáp biển, phía Tây giáp đất liền với thị xã Cẩm Phả và
phía đông bắc giáp huyện đảo Cô Tô. Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu tại những khu
vực có đang có hoạt động du lịch nhộn nhịp: Khu vực trung tâm – thị trấn Cái Bầu,
khu vực Quan Lạn – Minh Châu, khu vực Bản Sen, khu vực Ngọc Vừng – Thắng
Lợi.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Nội dung chủ yếu của luận văn là phân tích, đánh giá các điều kiện tự nhiên trong
tương quan tác động nhiều chiều, và có sự tương tác qua lại giữa các điều kiện cần
thiết để khai thác như cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật. Vì vậy phương pháp luận
trong nghiên cứu bao gồm:
-Quan điểm hệ thống: phát triển du lịch ở bất kỳ vùng lãnh thổ nào đều phải đặt
11
trong mối quan hệ chặt chẽ với hệ thống kinh tế, thể hiện tính thống nhất theo lãnh
thổ từ cấp tỉnh, địa phương, và điểm du lịch. Tính hệ thống về tự nhiên thể hiện
thông qua các quan hệ tương hỗ giữa các yếu tố điều kiện tự nhiên như địa chât, địa
hình, khí hậu, thủy văn, sinh vật v.v…Những yếu tố này có quan hệ mật thiết với
các điều kiện cơ sở vất chất kỹ thuật, lao động phục vụ trong ngành du lịch, người
dân địa phương v.v….là những chủ thể khai thác chúng phục vụ cho những mục
đích cụ thể.
-Quan điểm lịch sử thể hiện khi nghiên cứu phải có những kế thừa phát triển
những nền tảng nghiên cứu trong quá khứ và hiện tại.
* Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu là cách thức cụ thể hay công cụ được sử dụng để nghiên
cứu một vấn đề khoa học, nhằm mục đích đi đến kết quả một cách chính xác. Để
thực hiện nội dung nghiên cứu, cần vận dụng linh hoạt nhiều phương pháp khác
nhau, những phương pháp chính được sử dụng trong đề tài:
-Phương pháp thu thập, hệ thống, tổng hợp, phân tích dữ liệu thứ cấp.
Để có nền tảng cho nghiên cứu, tác giả đã tiến hành thu thập dữ liệu thứ cấp từ
các công trình nghiên được in thành sách, tạp chí, trên internet, liên quan đến các
vấn đề đánh giá điều kiện tự nhiên và du lịch. Sau đó tiến hành hệ thống, tổng hợp,
phân loại dữ liệu, đưa ra những kết luận có căn cứ.
-Phương pháp khảo sát thực địa
Phương pháp khảo sát thực địa là một trong những phương pháp quan trọng giúp
kết quả nghiên cứu có tính xác thực. Hai đợt khảo sát thực địa tiến hành vào trung
tuần tháng 4 năm 2009, và tuần đầu tiên tháng 7 năm 2009. Tiến hành điền dã một
số điểm du lịch quan trọng của Vịnh Bái Tử Long tác giả đã trực tiếp xác định các
giá trị điều kiện tự nhiên, bổ sung thêm thông tin, quan sát thực tế để đưa ra những
giải pháp hợp lý và có tính xác thực.
-Phương pháp chuyên gia
Phỏng vấn các chuyên gia trong lĩnh vực du lịch và những tác giả có các công
trình nghiên cứu về Vịnh Bái Tử Long.
12
6. Cấu trúc luận văn
Cấu trúc luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Mức độ thuận lợi của điều kiện tự nhiên vịnh Bái Tử Long đối với
hoạt động du lịch
Chương 3: Định hướng khai thác điều kiện tự nhiên cho mục đích du lịch
13
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.Khái niệm
1.1.1.Điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch
Du lịch là một hoạt động đặc biệt của con người. Hoạt động du lịch của con
người có nhiều mục đích khác nhau. Con người đi du lịch để nghỉ ngơi phục hồi sức
khỏe, mở mang hiểu biết, thỏa mãn nhu cầu thưởng thức cái đẹp. Dưới góc độ kinh
tế du lịch mang lại nhiều lợi nhuận, thậm chí ở một số quốc gia thu nhập quốc dân
còn dựa hoàn toàn vào kinh doanh du lịch. Dưới góc độ phát triển bền vững du lịch
góp phần bảo vệ các cảnh quan thiên nhiên đang bị đe dọa bởi các hoạt động kinh tế
khác.
Con người từ từ thủa sơ khai đã hoàn toàn dựa vào thiên nhiên để tồn tại và phát
triển. Sau đó cùng với quá trình tiến hóa loài người sẽ cải tạo tự nhiên để phục vụ
theo mục đích mà mình mong muốn. Quá trình cải tạo và khai thác thiên nhiên theo
một mục đích nhất định có nghĩa là con người biến các điều kiện tự nhiên xung
quanh mình thành tài nguyên. Nước, không khí, địa hình, khí hậu, sinh vật là các
điều kiện tự nhiên, khi con người khai thác nó phục vụ một mục đích nhất định
trọng quá trình sinh sống của mình thì nó sẽ biến thành tài nguyên.
Các điều kiện tự nhiên luôn luôn tồn tại xung quanh như chúng vốn có. Con
người khai thác tự nhiên phục vụ cho nhu cầu du dịch thì sẽ biến điều kiện tự nhiên
thành tài nguyên du lịch. Như vậy điều kiện tự nhiên cùng với các giá trị nhân văn
chính là đầu vào quan trọng hình thành nên cung du lịch. Trước đây những người
quản lý, nghiên cứu và tổ chức kinh doanh du lịch cho rằng điểm, vùng, hay quốc
gia nào có điều kiện tự nhiên đa dạng, đặc sắc thì sẽ được đánh giá là có điều kiện
thuận lợi để phát triển du lịch. Nhận định đó chỉ đúng một phần. Nhưng đối với du
lịch hiện đại để hoạt động du lịch có đạt được những hiệu quả kinh tế, thẩm mỹ, bảo
tồn thì yếu tố quan trọng hàng đầu lại là công tác quy hoạch tổng thể hợp lý, quản lý
chặt chẽ.
Khi hoạt động du lịch còn sơ khai và nhu cầu con người còn đơn giản thì việc
khai thác tài nguyên du lịch cũng hết sức đơn giản. Nơi nào có cảnh quan thiên
nhiên đẹp, các bãi biển, những nơi có khí hậu ôn hòa mát mẻ sẽ kéo nhiều du khách
14
đến. Nhưng nhu cầu du lịch ngày càng phong phú đã đa dạng và phức tạp, và tổng
lượng cầu cũng tăng lên theo cấp số nhân trên toàn thế giới, đòi hỏi phải có nhiều
sản phẩm dịch vụ du lịch phong phú. Đầu vào quan trọng cho việc hình thành các
sản phẩm và dịch vụ chính là điều kiện tự nhiên. Để khai thác có hiệu quả và sử
dụng có hiệu quả các điều kiện tự nhiên thì phải bước trước tiên phải hiểu rõ về các
điều kiện tự nhiên thông qua việc nghiên cứu. Sau đó tiến hành đánh giá tức là xem
xét các giá trị của điều kiện tự nhiên phù hợp với hình thức du lịch nào của con
người và khả năng khai thác của chúng đến đâu có sức hấp dẫn, và mang lại nhiều
giá trị cho khách du lịch hay không. Khi đưa vào khai thác thì điều kiện tự nhiên sẽ
biến thành tài nguyên du lịch.
Có rất nhiều các khái niệm về tài nguyên du lịch. Luật du lịch Việt Nam năm
2006: “Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử
văn hóa, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có
thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là các yếu tố cơ bản để hình thành
các khu di lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch.”[17, tr.2]
Theo Nguyễn Minh Tuệ: “Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên và văn hóa lịch
sử cùng các thành phần của chúng góp phần khôi phục, phát triển thể lực, trí tuệ của
con người, khả năng lao động và sức khỏe của họ. Những tài nguyên này được sử
dụng cho nhu cầu trực tiếp và gián tiếp, cho việc sản xuất dịch vụ du lịch.”[29,
tr.33]
Theo Pirojnik: “Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên, văn hóa-lịch sử và những
thành phân của chúng, tạo điều kiện cho việc phục và phát triển thể lực tinh thần
của con người, khả năng lao động và sức khỏe của họ, trong cấu trúc nhu cầu du
lịch hiện tại và tương lai, trong khả năng kinh tế kỹ thuật cho phép, chúng được
dùng để trực tiếp và gián tiếp sản xuất ra dịch vụ du lịch.” [23,tr.57]
Có thể có rất nhiều các định nghĩa khác nhau về tài nguyên du lịch nhưng các
định nghĩa đều thống nhất tài nguyên du lịch bao gồm hai thành tố cơ bản cấu tạo
thành đó là tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn. Tài nguyên du lịch tự nhiên
bao gồm: địa hình, khí hậu, thủy văn, sinh vật. Tài nguyên du lịch nhân văn bao
gồm: các di tích lịch sử, văn hóa, các lễ hội, các loại hình nghệ thuật, các công trình
kiến trúc, điêu khắc, các thành tựu kinh tế v.v…
15
Điều kiện tự nhiên hay các giá trị nhân văn chỉ trở thành tài nguyên du lịch khi
nó được nghiên cứu, đánh giá và khai thác cho hoạt động du lịch. Để tạo nên sản
phẩm du lịch thì tài nguyên chính là đầu vào quan trọng. Ở những điểm du lịch có
tài nguyên tự nhiên và nhân văn phong phú, đặc sắc thì rất có lợi thế để phát triển
du lịch và quyết định quy mô tổ chức.
Du lịch là một hoạt động của con người có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội, môi
trường. Khi khai thác tài nguyên du lịch muốn có hiệu quả thì việc quan trọng đầu
tiên cần làm tốt đó là nghiên cứu tổ chức lãnh thổ du lịch.“Tổ chức lãnh thổ du lịch
được hiểu là một hệ thống liên kết không gian của các đối tượng du lịch và các cơ
sở phục vụ có liên quan dựa trên việc sử dụng tối ưu các nguồn tài nguyên du
lịch.”[29,tr106]. Các đối tượng du lịch là khách du lịch, tài nguyên du lich, người tổ
chức kinh doanh, phục vụ du lịch và những người quản lý du lịch. Còn các cơ sở
phục vụ có liên quan đó là cơ sở vật chất hạ tầng, và cơ sở vật chất kĩ thuật của
riêng ngành. Hệ thống lãnh thổ du lịch được tổ chức và vận hành dựa trên các phân
hệ chính sau : khách du lịch, tài nguyên du lịch, cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du
lịch, người tổ chức, quản lí vận hành và phục vụ du lịch. Các thành phần của phân
hệ có tác động tương hỗ chặt chẽ.
Tổ chức lãnh thổ du lịch được thực hiện từ các cơ quan quản lý cấp cao nhất về
du lịch của nhà nước. Các cơ quan này tiến hành quy hoạch phân vùng du lịch để
định hướng phát triển du lịch cho quốc gia. Ở các cấp thấp hơn có quy hoạch riêng
cho tiểu vùng, á vùng, diểm du lịch. Và công việc đầu tiên khi thực hiện quy hoạch
đó chính là kiểm kê, đánh giá tài nguyên du lịch. Tài nguyên du lịch rất quan trọng
trong hình thành các tuyến điểm du lịch. Các điểm du lịch hiện nay thường được
hình thành ở những nơi có tiềm năng về tài nguyên du lịch nhân văn hoặc tự nhiên
phong phú đa dạng và đặc sắc. Có tài nguyên du lịch đặc sắc nhưng công việc quy
hoạch, tổ chức thực hiện hoạt động du lịch không có hiệu quả thì không những
không đạt mục tiêu về kinh tế, văn hóa, xã hội mà còn gây lãng phí tài nguyên
nghiêm trọng, thậm chí có thể hủy hoại hoàn toàn tài nguyên.
1.1.2.Đánh giá điều kiện tự nhiên
Định nghĩa động từ đánh giá theo từ điển tiếng Việt bao gồm hai nghĩa: 1. Ước
định giá tiền, 2. Nhận định giá trị. Theo nghĩa “ ước định giá tiền” có nghĩa là quy
16
ra chủ thể được đánh giá là bao nhiêu tiền. Theo nghĩa “Nhận định giá trị” có nghĩa
xác định năng lực, phẩm chất, chất lượng…của chủ thể được đánh giá.
Đánh giá có thể chia thành đánh giá định lượng và đánh giá định tính. Đánh giá
định lượng là các kết quả phải quy về được các đơn vị đo lường cụ thể: số lượng,
khối lượng, kích thước. Trong đánh giá tài nguyên rừng cho hoạt động du lịch kết
quả định lượng sẽ là bao nhiêu loài động thực vật, bao nhiêu loài đặc hữu, bao nhiêu
cảnh quan hấp dẫn v.v…Chiều rộng, chiều dài bãi tắm là các giá trị định lượng.
Đánh giá định tính là nhận định về mặt tính chất, bản chất của sự việc hiện
tượng. Ví dụ như nhận xét về chất lượng phục vụ trong khách sạn, thái độ của người
dân địa phương đối với khách du lịch nước ngoài v.v…
Áp dụng vào đánh giá điều kiện tự nhiên là nhận định giá trị của loại điều kiện
đối với hoạt động kinh tế và ích lợi đối với con người. Đánh giá điều kiện tự nhiên
được thực hiện ở nhiều ngành khác nhau. Ở ngành nông nghiệp có đánh giá đất đai
và điều kiện khí hậu có phù hợp với một loại cây trồng. Trong y tế có đánh giá các
điều kiện sinh khí hậu có tác động thế nào đến cơ thể con người. Trong một số
ngành kinh tế khác, khai khoáng sẽ có hoạt động thăm dò đánh giá trữ lượng các mỏ
khoáng để có kế hoạch khai thác bao nhiêu và khai thác như thế nào.
Khi đánh giá cho trong ngành du lịch thường dùng các kiểu đánh giá: đánh giá
thẩm mỹ, đánh giá sinh học, đánh giá kỹ thuật, đánh giá kinh tế. Các kiểu đánh giá
này thể hiện mối quan hệ tương tác giữa khách thể và chủ thể tiến hành đánh giá.
Chủ thể có thể là những nhà khoa học, nhà quản lý, người kinh doanh du lịch, khách
du lịch, hay các công trình, hệ thống kỹ thuật phục vụ du lịch. Khách thể thường là
tài nguyên.
Đánh giá thẩm mỹ xác định mức độ cảm xác và phản ứng tâm lý của khách du
lịch đối với các tài nguyên du lịch. Ví dụ như xác định tình cảm, cảm xúc của du
khách đối với cảnh quan ở một điểm du lịch, yêu thích, ngạc nhiên rất muốn khám
phá sự hoang sơ của cảnh quan hay thất vọng vì cảnh quan không được lộng lẫy
như họ mong muốn. Nhận định của khách du lịch đối với nền văn hóa bản địa,
phong phú đặc sắc hay cũng giống với nhiều nơi khác.
Đánh giá sinh học (hay y học) nhằm xác định các điều kiện môi trường (nước,
khí hậu v.v…) thích hợp như thế nào đối với sức khỏe con người hay một kiểu hoạt
17
động du lịch nào đó. Ví dụ như các loại nước khoáng có tác dụng như thế nào với
sức khỏe con người. Nước khoáng cácbonic chữa bệnh cao huyết áp, bệnh hệ thần
kinh ngoại biên. Nước khoáng silic có tác dụng chữa các bệnh thần kinh, đường tiêu
hóa, thấp khớp.
Đánh giá kỹ thuật là dùng các chỉ tiêu kỹ thuật xác định sự thích hợp của điều
kiện tự nhiên đối với các loại hình du lịch, điểm du lịch, khu du lịch. Hay đánh giá
sự phù hợp của các hệ thống kỹ thuật, công trình kỹ thuật đối với các hợp phần hay
tổng thể tự nhiên. Ví dụ như với một cảnh quan thiên nhiên ven biển cụ thể xây
dựng loại hình lưu trú nào thì phù hợp, khách sạn cao cấp, khu resort, hay là không
cho phép xây dựng bất cứ một công trình nào.
Đánh giá kinh tế là kiểu đánh giá mà kết quả của nó sẽ là tiền tệ cụ thể. Ví dụ
như khoản tiền mà khách du lịch sẵn sàng bỏ ra để mua sản phẩm, dịch vụ du lịch
của một điểm du lịch sẽ cho biết được giá trị của tài nguyên ở khu vực đó đáng giá
bao nhiêu.
Trong du lịch đánh giá tài nguyên luôn được quan tâm thực hiện đầu tiên trước
khi tiến hành hoạt động khai thác. Mỗi loại tài nguyên sẽ phù hợp với một số loại
hình du lịch nhất định. Trên quan điểm của những người kinh doanh du lịch thì việc
đánh giá tài nguyên còn phụ thuộc và thị trường khách mục tiêu mà họ hướng tới.
Việc đánh giá tài nguyên còn phụ thuộc vào mục đích chính của hoạt động du lịch
tại nơi có tài nguyên, nếu là bảo tồn và giải quyết vấn đề việc làm cho dân cư địa
phương thì thường hướng đến các loại hình du lịch sinh thái, cộng đồng.
Khi đánh giá tài nguyên phải có tiêu chí tức là tức là cần có các tiêu chuẩn, tính
chất, dấu hiệu.. làm căn cứ để nhận biết, tiến hành quá trình đánh giá.
Định nghĩa đánh giá tài nguyên du lịch của tác giả Mukhina: Đánh giá tài nguyên
là phân loại các các tài nguyên du lịch theo mức độ thuận lợi của chúng cho cá hoạt
động du lịch-nghỉ dưỡng của con người, liên quan tới tất cả các loại hình du lịch,
đồng thời cũng có thể chỉ cho một loại hình du lịch cụ thể.
Theo Đổng Ngọc Minh và Vương Lôi Đình: “Đánh giá tài nguyên du lịch là trên
cơ sở tư liệu điều tra tiến hành mổ xẻ phân tích sâu đối với tài nguyên du lịch và các
điều kiện liên quan. Hiện nay có hai phương pháp là đánh giá định tính và đánh giá
định lượng. Đánh giá định tính là sau khi điều tra, người đánh giá căn cứ vào ấn
18
tượng cảm quan và quan niệm giá trị tiến hành miêu tả định tính đối với chất lương
tài nguyên du lịch. Đánh giá định lượng là sự đánh giá sau khi đã tiến hành điều tra
phân tích tỉ mỉ sâu sắc và vận dụng phương pháp toán học để đo đặc tính toán định
lượng đối với tài nguyên du lịch.” [20,tr144-145]
Theo Boniface&Cooper: “Đánh giá tài nguyên du lịch là xác định mức độ thuận
phù hợp của các tài nguyên cho các loại hình du lịch khác nhau.” [37]
Theo Phạm Trung Lương: “Đánh giá các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên
nhiên phục vụ du lịch nhằm xác định mức độ thuận lợi (tốt, trung bình, kém) của
các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên đối với toàn bộ hoạt động du lịch
nói chung hay đối với từng loại hình du lịch, từng lĩnh vực hoạt động cụ thể phục vụ
du lịch nói riêng.” [18,tr48-49]
Định nghĩa của Mukhina và Boniface&Cooper, và Phạm Trung Lương khá tương
đồng. Các giả đều cho rằng đánh giá điều kiện tự nhiên là xác định mức độ thuận lợi
phân tích điều kiện tự nhiên phù hợp như thế nào ở mức độ nào với các hoạt động
du lịch. Cụ thể ở đây các tác giả dùng từ “mức độ phù hợp cho các loại hình du
lịch” chỉ đến mục đích cuối cùng của quá trình đánh giá tài nguyên là phải xác định
được tài nguyên du lịch đó sẽ được khai thác cho loại hình du lịch nào để đạt kết
quả đã đề ra một cách tốt nhât.
Trong định nghĩa của Đổng Ngọc Minh và Vương Lôi Đình các tác giả chỉ đề
cập đến đánh giá tài nguyên là quá trình “tiến hành mổ xẻ phân tích sâu đối với tài
nguyên du lịch và các điều kiện có liên quan”. Chưa kết luận là sau khi đánh giá
phải xác định được loại tài nguyên đó phù hợp với loại hình du lịch nào.
Vậy đánh giá tài nguyên du lịch có nhiều ý nghĩa và mục đích. Tiến hành đánh
giá có nghĩa là phân tích đặc điểm, tính chất của tài nguyên. Theo mục đích và tiêu
chí ban đầu trước đề ra xác định những tài nguyên phù hợp, và các loại hình du lich
để khai thác và đầu tư phát triển. Khai thác tài nguyên luôn luôn phải đảm bảo hai
mục đích cơ bản là hiệu quả về mặt kinh tế và đảm bảo tính bền vững của tài
nguyên và quá trình phát triển du lịch nói chung. Đánh giá tài nguyên là bước đầu
tiên của quá trình quy hoạch du lịch.
Đánh giá tài nguyên còn có thể được tiến hành theo từng phần hoặc là tổng hợp.
Mỗi loại tài nguyên đều có các tiêu chuẩn nhất định để xác định. Tài nguyên thủy
19
văn có các tiêu chuẩn chất lượng nước dùng trong sinh hoạt cho các hoạt động thể
thao dưới nước. Khu vực bãi biển ven bờ có các chỉ tiêu về thủy văn là sóng, thủy
triều. Với tài nguyên địa hình có các chỉ tiêu như đặc điểm sinh thái, trắc lượng
hình thái, mức độ tương phản. Đối với tài nguyên nhân văn thì các tiêu chí cơ bản là
số lượng, mật độ, ý nghĩa lịch sử, có ý nghĩa ở tầng phân cấp nào vùng miền, đất
nước, hay thế giới.
Quá trình đánh giá tài nguyên luôn phải gắn với một lãnh thổ nhất định. Mà một
lãnh thổ là tổng hợp của rất nhiều loại tài nguyên, điều kiện tự nhiên khác nhau nêu
phải tiến hành đánh giá tổng hợp các dạng tài nguyên. Nếu tiến hành đánh giá riêng
biệt mỗi loại tài nguyên mà không đặt chúng vào một hệ thống lãnh thổ và mỗi quan
hệ tương tác lẫn nhau thì kết quả đánh giá sẽ sai lệch, khó áp dụng vào thực tế phát
triển du lịch có hiệu quả kinh tế và đảm bảo tính bền vững. Khi đánh giá tài nguyên
nhân văn ở một địa phương các yếu tố được xác định để đánh giá là số lượng, giá trị
về mặt kiến trúc, điêu khắc, tôn giáo của các công trình lịch sử văn hóa và đưa ra
kết luận nhưng không tính đến yếu tố tâm linh và phong tục tập quán ở địa phương
đó là không cho người lạ tiếp cận các công trình riêng của họ thì việc đánh giá để
phát triển du lịch đại trà thì kết luận đưa ra sẽ bị sai lệch.
1.1.3.Ý nghĩa đánh giá điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên là điều kiện tiên quyết cho rất nhiều hoạt động kinh tế của con
người. Chính vì thế đánh giá điều kiện tự nhiên có ở rất nhiều các công trình của
nhiều ngành kinh tế khác nhau. Trong ngành xây dựng có đánh giá điều kiện tự
nhiên cho các hệ thống kĩ thuật, trong nông nghiệp có đánh giá khí hậu có phù hợp
với các loại cây trồng, trong y tế có đánh giá các yếu tố thời tiết ảnh hưởng đến sức
khỏa con người như thế nào. Đánh giá tổng thể tự nhiên cho hoạt động du lịch
không chỉ là hướng nghiên cứu trong lĩnh vực du lịch mà còn có sự tham gia của
nhiều ngành khác. Khi xác định điều kiện sinh khí hậu ảnh hưởng thế nào đến
khách du lịch các công trình đánh gía du lịch phải sử dụng các thông số của y tế.
Đánh giá các cơ sở vật chất ảnh hưởng thế nào đến độ bền vững của các hệ sinh thái
đang được khai thác phục vụ du lịch cũng phải sử dụng các nghiên cứu của ngành
xây dựng. Những đánh giá của những người nghiên cứu về du lịch sẽ sử dụng, tham
khảo các công trình của các ngành khác và dựa theo những phương pháp đánh giá
20
- Xem thêm -