Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đảng lãnh đạo đấu tranh bình thường hoá và thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ (1...

Tài liệu Đảng lãnh đạo đấu tranh bình thường hoá và thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ (1986-2001)

.PDF
177
929
140

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN ANH CƢỜNG ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH BÌNH THƯỜNG HOÁ VÀ THÚC ĐẨY QUAN HỆ VIỆT NAM - HOA KỲ (1986-2001) LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ HÀ NỘI - 2004 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN ANH CƢỜNG ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH BÌNH THƯỜNG HOÁ VÀ THÚC ĐẨY QUAN HỆ VIỆT NAM - HOA KỲ (1986-2001) CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM MÃ SỐ: 5.03.16 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS VŨ QUANG HIỂN HÀ NỘI - 2004 1 MỤC LỤC MỞ ĐẦU…………………………………………………………………... 4 CHƢƠNG 1: ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH BÌNH THƢỜNG HOÁ QUAN HỆ VIỆT NAM - HOA KỲ (1986 - 1995) ……………….. 11 1.1. Những yếu tố tác động tới quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ …………... 11 1.2. Đảng chỉ đạo từng bƣớc bình thƣờng hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ ……………………………………………………….. 35 CHƢƠNG 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO THÚC ĐẨY QUAN HỆ HỢP TÁC VIỆT NAM - HOA KỲ (1996 - 2001) …………………………………… 55 2.1. Hoàn cảnh lịch sử và chủ trƣơng của Đảng ………………………... 55 2.2. Sự lãnh đạo của Đảng thúc đẩy quan hệ với Hoa Kỳ ……………... 75 CHƢƠNG 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM LỊCH SỬ 87 3.1. Một số nhận xét ……………………………………………………… 87 3.3. Kinh nghiệm lịch sử …………………………………………………. 101 KẾT LUẬN ………………………………………………………………... 107 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………….. 110 PHỤ LỤC …………………………………………………………….. 125 3 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Vào cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90, chủ nghĩa xã hội hiện thực ở các nƣớc Đông Âu và Liên Xô dần tan rã và sụp đổ. Trật tự hai cực Xô - Mỹ tan rã, trật tự thế giới mới đang hình thành. Bên cạnh đó cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, lực lƣợng sản xuất tăng nhanh, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền kinh tế và đời sống xã hội. Chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào, trật tự quốc tế thay đổi căn bản theo hƣớng bất lợi cho chủ nghĩa xã hội, có lợi cho các thế lực phản động. Toàn cầu hoá kinh tế trở thành một xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều nƣớc tham gia nhƣng chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực; vừa có hợp tác vừa có đấu tranh. Mặc dù hợp tác để phát triển trở thành xu thế lớn của thế giới, nhƣng những nhân tố gây mất ổn định trên thế giới vẫn tồn tại, thậm chí một số mặt còn đƣợc tăng cƣờng. Cuộc đấu tranh giữa xu thế hoà bình hợp tác để phát triển với các thế lực hiếu chiến - các nhân tố gây mất ổn định trong quan hệ quốc tế, diễn ra gay go, phức tạp. Mỹ là một quốc gia có nền kinh tế lớn nhất thế giới, là một thị trƣờng khổng lồ, và là nƣớc công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới với những tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, quản lý, khoa học, giáo dục. Việt Nam đang trên con đƣờng phát triển, hiện đại hoá và công nghiệp hoá, rất cần có sự hợp tác với các nƣớc công nghiệp phát triển, trong đó có Mỹ. Thực hiện đƣờng lối đổi mới của Đảng, từ năm 1986, Việt Nam đã thu đƣợc nhiều thắng lợi. Với phƣơng châm đa phƣơng hoá, đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại, Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nƣớc trên thế giới vì hoà 4 bình, độc lập và phát triển, chúng ta đã tranh thủ đƣợc các nƣớc trong cộng đồng thế giới hợp tác với Việt Nam nhằm đáp ứng những nhu cầu xây dựng và phát triển đất nƣớc, đƣa Việt Nam hội nhập với khu vực và thế giới. Mỹ là một nƣớc bị ảnh hƣởng nặng nề trong quá khứ với Việt Nam, do đó cuộc đấu tranh đi đến bình thƣờng hoá và thúc đẩy quan hệ Việt Nam với Mỹ gặp rất nhiều khó khăn. Hơn nữa, sự khác biệt về hệ thống chính trị, về văn hoá và sự hiểu biết lẫn nhau vẫn là những yếu tố bất lợi đối với quan hệ giữa hai nƣớc. Mặc dù vậy, với đƣờng lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Việt Nam đã từng bƣớc phá thế bao vây cấm vận của Mỹ, tích cực chủ động bình thƣờng hóa và mở rộng quan hệ Việt - Mỹ, làm Mỹ phải công nhận và hợp tác với Việt Nam. Điều này khẳng định tƣ duy chính trị nhạy bén, sâu sắc, giàu kinh nghiệm của Đảng ta. Việt Nam bình thƣờng hoá quan hệ với Mỹ (1995) và hai bên bắt đầu thực hiện Hiệp định thƣơng mại Việt - Mỹ (2001) đã góp phần nâng vị thế và uy tín của nƣớc ta trên trƣờng quốc tế, tạo điều kiện để Việt Nam giải quyết tốt hơn một bƣớc nữa trong tiến trình hội nhập với thế giới. Tuy nhiên đây mới chỉ là những thắng lợi bƣớc đầu. Khó khăn và trở ngại không chỉ là đặc thù của quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ mà trong bất cứ mối quan hệ nào, sự tồn tại của mâu thuẫn là không thể tránh khỏi, cho dù đấy là quan hệ đồng minh hay quan hệ đối tác. Nghiên cứu một cách hệ thống toàn diện quá trình bình thƣờng hóa, thúc đẩy quan hệ hợp tác hai nƣớc Việt - Mỹ dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một việc làm cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Từ đó, làm sáng tỏ những chủ trƣơng đúng đắn, sáng tạo của Đảng, góp phần tiếp tục nghiên cứu nhằm hoàn thiện phƣơng sách trong quan hệ với Hoa Kỳ; rút ra những kinh nghiệm trong quan hệ với các nƣớc lớn, các tổ chức quốc tế, góp phần thúc đẩy sự hội nhập của Việt Nam vào khu vực và thế giới. Chính vì 5 vậy chúng tôi đã chọn đề tài “Đảng lãnh đạo đấu tranh bình thường hoá và thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ 1986 - 2001” làm luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử, chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu vấn đề Liên quan đến vấn đề quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ có khá nhiều bài viết, các công trình nghiên cứu, chủ yếu tập trung vào những vấn đề sau: Về quan hệ ngoại giao có các công trình tiêu biểu nhƣ: Việt Mỹ đã đến lúc hướng về tương lai của Quang Lợi (báo Sài Gòn giải phóng, năm 1993); Việt Nam trong chính sách ngoại giao của Mỹ “một chiến lược cho sự cân bằng ở Đông Nam Á” (Trung tâm thông tin khoa học công an, năm 2002); Mỹ điều chỉnh chính sách đối với châu Á- Thái Bình Dương (Tổng cục V- Bộ Nội vụ, năm 1996); Quan hệ Việt- Mỹ điều gì đang ở phía trước của Allan E.Goodman (tạp chí của Học viện quan hệ quốc tế số 4 năm 1994); Mỹ sử dụng “ngoại giao nhân quyền” trong quan hệ với Việt Nam và một số giải pháp chống “ngoại giao nhân quyền” (Tổng cục Chính trị, năm 2002); Vài nét về chính sách đối ngoại của Mỹ đối với khu vực châu Á- Thái Bình Dương và Việt Nam (Tổng cục chính trị, tháng 9- 2001); Xây dựng tình đoàn kết và hữu nghị giữa nhân dân Mỹ và Việt Nam của Marle Ratner (Thông tin chuyên đề, số 1 năm 1992)… Về quan hệ kinh tế có: Mỹ cấm vận và triển vọng của quan hệ Việt-Mỹ của Phạm Lan Phƣợng (tạp chí Học viện quan hệ quốc tế số 2 năm 1994); Quan hệ kinh tế Việt Nam- Hoa Kỳ của Đỗ Đức Định (Nhà xuất bản Thế Giới ấn hành năm 2000); Mỹ - Việt Nam và quyền sở hữu trí tuệ của Steven Robinson (Châu Mỹ ngày nay số 3 năm 1998); Một số nét về quan hệ nông nghiệp giữa Mỹ và Việt Nam trong thời gian gần đây của Nguyễn Điền (Châu Mỹ ngày nay, số 5- 1997); Những ghi nhận sau bình thường hoá quan hệ 6 Việt- Mỹ của Nguyễn Hữu Cát (Châu Mỹ ngày nay, số 1- 1997); Quan hệ thương mại Việt - Mỹ sau 5 năm nhìn lại của Phạm Hồng Tiến (Châu Mỹ ngày nay số 5 - 2000); Đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam của Trần Đình Vƣợng (Châu Mỹ ngày nay số 5 - 2000); Trao đổi khoa học Việt - Mỹ về các vấn đề song phương và khu vực (Thông tin khoa học xã hội, số 4 năm 1998)… Ngoài ra còn rất nhiều bài viết của các học giả ngƣời nƣớc ngoài viết về mối quan hệ Việt Nam- Hoa Kỳ đăng trên Tài liệu tham khảo đặc biệt của Thông tấn xã Việt Nam; Cùng với rất nhiều sách và tài liệu khác viết hoặc đề cập liên quan ít nhiều tới chính sách của Mỹ với Việt Nam hoặc của Việt Nam với Mỹ, các bài nói bài viết của các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nƣớc, Bộ Ngoại giao… Qua các bài viết, các đề tài với nhiều cách tiếp cận khác nhau trên các lĩnh vực đã chỉ ra sự phong phú, đa dạng, những khó khăn, thuận lợi của các lĩnh vực, các ngành khác nhau trong những thời điểm lịch sử cụ thể về quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Tuy nhiên, cho tới nay chƣa có công trình nào đƣợc công bố đề cập một cách hệ thống, cơ bản, toàn diện, trực tiếp về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cuộc đấu tranh bình thƣờng hóa và thúc đẩy quan hệ giữa hai nƣớc Việt Nam và Hoa Kỳ. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích: - Nghiên cứu một cách hệ thống các giai đoạn và diễn biến của quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ từ khi bắt đầu có sự tiếp xúc giữa Việt Nam và Mỹ cho tới năm 2001, nhƣng tập trung vào quá trình bình thƣờng hoá quan hệ hai nƣớc dƣới sự lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ từ 1986 đến 2001. - Tìm hiểu biện pháp, chủ trƣơng, đƣờng lối, đổi mới của Đảng trong quan hệ quốc tế nói chung và bình thƣờng hoá quan hệ với Mỹ nói riêng. Từ 7 đó, làm rõ những thành tựu và hạn chế trong quá trình đấu tranh phá bỏ bao vây cấm vận của Mỹ. - Rút ra một số kinh nghiệm về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong thiết lập và đẩy mạnh quan hệ với Mỹ. Góp phần làm giàu thêm nguồn tƣ liệu tham khảo để phục vụ nghiên cứu sâu hơn quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. 3.2. Nhiệm vụ: - Để đạt đƣợc những mục đích trên, nhiệm vụ chủ yếu của luận văn là nghiên cứu cụ thể không chỉ những chủ trƣơng, biện pháp của Đảng ta mà cả những âm mƣu, thủ đoạn của Mỹ trong từng giai đoạn thiết lập quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. - Trình bày và phân tích những thành tựu và hạn chế, những kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo của Đảng. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: - Bối cảnh quốc tế và trong nƣớc tác động tới quá trình bình thƣờng hóa quan hệ giữa hai nƣớc. - Chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng trong thiết lập quan hệ Việt Nam Hoa Kỳ. - Những thành tựu, triển vọng, thách thức, khó khăn, hạn chế trong hợp tác với Mỹ. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Quá trình lãnh đạo của Đảng trong những điều kiện lịch sử cụ thể nhằm gỡ bỏ cấm vận, tiến tới bình thƣờng hóa và thúc đẩy quan hệ giữa hai nƣớc Việt Nam - Hoa Kỳ trong thời gian từ 1975 đến 2001. Luận văn tập trung vào những sự kiện chủ yếu trong lĩnh vực chính trị. 5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Nguồn tư liệu: 8 - Tài liệu liên quan đến đƣờng lối đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc nói chung và quan hệ với Mỹ nói riêng, bao gồm các văn kiện của Đảng, các bài nói, bài viết của các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nƣớc,… - Các tài liệu liên quan tới đƣờng lối đối ngoại của Mỹ nói chung và của Mỹ đối với Việt Nam nói riêng, bao gồm những cuốn sách do Mỹ xuất bản, các bài nghiên cứu của các học giả, các bài phát biểu của quan chức Chính phủ Mỹ,… - Tài liệu đƣợc công bố trong các công trình của các tác giả trong và ngoài nƣớc về quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ đã đƣợc in thành sách, đƣợc công bố trên các báo, tạp chí, hoặc trong hội thảo quốc tế. - Các đề tài nghiên cứu khoa học, luận án tiến sĩ, luân văn thạc sĩ, khoá luận cử nhân, tài liệu phục vụ cán bộ chủ chốt có liên quan tới đề tài. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: - Dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận chung của chủ nghĩa Mác - Lênin. - Sử dụng phƣơng pháp lịch sử và lôgic, ngoài ra có sử dụng các phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh nhằm làm sáng tỏ nội dung của đề tài. 6. Đóng góp của luận văn - Tập hợp, hệ thống hóa, xử lý nguồn tƣ liệu liên quan tới Việt Nam và Hoa Kỳ một cách khoa học. - Dựng lại một cách hệ thống quá đấu tranh tiến tới bình thƣờng hóa trong quan hệ hai nƣớc từ năm 1976 - 1995 và thời kỳ thúc đẩy mối quan hệ đó từ năm 1996 - 2001. Từ đó thấy rõ những lợi ích mang lại và những khó khăn phải lƣờng trƣớc trong quan hệ với Mỹ. - Bƣớc đầu đƣa ra những đánh giá, nhận xét về những thành tựu, những vấn đề còn tồn tại, phƣơng hƣớng giải quyết và triển vọng quan hệ Việt Nam Hoa Kỳ từ đó rút ra một số kinh nghiệm trong thiết lập quan hệ với Hoa Kỳ. 9 - Luận văn có thể cung cấp thêm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu hay phục vụ giảng dạy cho những môn học có liên quan. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm có 3 chƣơng: Chƣơng 1: Đảng lãnh đạo đấu tranh bình thƣờng hoá quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ (1986-1995) Chƣơng 2: Đảng lãnh đạo thúc đẩy quan hệ hợp tác Việt Nam - Hoa Kỳ (1996 - 2001) Chƣơng 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm lịch sử 10 CHƢƠNG 1 ĐẢNG LÃNH ĐẠO QUÁ TRÌNH BÌNH THƯỜNG HOÁ QUAN HỆ VIỆT NAM - HOA KỲ (1986 - 1995) 1.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ VIỆT NAM - HOA KỲ 1.1.1. Tác động thời đại và chủ trương đối ngoại của Đảng Cuối những năm 70, so sánh lực lƣợng trên thế giới về quân sự có sự thay đổi, Liên Xô đã giành đƣợc thế cân bằng về vũ khí chiến lƣợc với Mỹ. Tây Âu và Nhật Bản trở thành những trung tâm kinh tế tài chính mới, cạnh tranh gay gắt với Mỹ, và không còn lệ thuộc chặt chẽ vào Mỹ về chính trị, quân sự, ngoại giao nhƣ trƣớc. Từ năm 1970 đến năm 1977 là thời kỳ hoà hoãn giữa các nƣớc lớn, hoà hoãn Mỹ - Liên Xô, Tây Âu - Liên Xô, Mỹ Trung Quốc, Tây Âu, Nhật Bản với Trung Quốc, nhƣng quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc lại ngày càng căng thẳng. Tình trạng bất hoà Trung - Xô đã khiến Mỹ tăng cƣờng quan hệ với Trung Quốc để chĩa mũi nhọn vào Liên Xô. Sau thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Lào và Campuchia, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đƣợc mở rộng, trở thành lực lƣợng quan trọng của hoà bình và cách mạng thế giới, mở ra thời kỳ “sau Việt Nam”. Phong trào cách mạng thế giới phát huy thế tiến công ở khắp nơi, kể cả khu vực Mỹ la tinh. Cục diện trên bán đảo Đông Dƣơng cũng thay đổi với việc nƣớc Lào giành độc lập hoàn toàn, thành lập nƣớc Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào (112-1975) và quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Campuchia giành đƣợc độc lập nhƣng lại rơi vào tay bọn diệt chủng Pôn Pốt. Hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội đã trở thành xu thế của thời đại. Độc lập dân tộc đã trở thành một trào lƣu, là một trong những mũi tiến công chủ yếu vào chủ nghĩa đế quốc, trực tiếp quyết định sự tan rã của hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Từ năm 1976 đến năm 1981 do tác động thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ 11 cứu nƣớc đã có 21 nƣớc giành độc lập dân tộc. Mặt khác, Mỹ và hệ thống tƣ bản chủ nghĩa bị rơi vào khủng hoảng kinh tế. Ba trung tâm của hệ thống tƣ bản chủ nghĩa là Mỹ, Nhật Bản và Tây Âu đều bị lạm phát và suy thoái. Các nƣớc xã hội chủ nghĩa xảy ra tình trạng quan liêu về quản lý, quần chúng nhân dân thờ ơ, thụ động, các hiện tƣợng tiêu cực ngày càng tăng. Hầu hết các nƣớc xã hội chủ nghĩa đều trong tình trạng năng suất lao động thấp kém. Xuất khẩu của các nƣớc xã hội chủ nghĩa đƣợc coi là phát triển nhƣ cộng hoà dân chủ Đức, Tiệp Khắc, Hungari, Liên Xô…, chỉ chiếm từ 12 đến 15% tổng thu nhập quốc dân, trong khi đó Mỹ và phƣơng Tây chiếm khoảng 40%. Những khó khăn về kinh tế dẫn đến những mâu thuẫn gay gắt về chính trị, xã hội trong nội bộ các nƣớc xã hội chủ nghĩa. Đây là thời kỳ tiền khủng hoảng của cả hệ thống xã hội chủ nghĩa. Những khó khăn đó càng thêm gay gắt khi cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, quá trình quốc tế hoá nền sản xuất, phân công lao động quốc tế diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, làm cho khoảng cách giữa các nƣớc xã hội chủ nghĩa và các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa ngày càng tăng. Chủ nghĩa tƣ bản đứng đầu là Mỹ sau 7 năm hoà hoãn Đông - Tây, từ 1978 Mỹ thúc đẩy chạy đua vũ trang gây căng thẳng với Liên Xô và các nƣớc xã hội chủ nghĩa, tăng cƣờng phản kích phong trào giải phóng dân tộc. Chiến lƣợc ngăn chặn chống Liên Xô là cốt lõi trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Để chống Liên Xô khi Liên Xô đƣa quân vào Apganistăng và chống Việt Nam khi Việt Nam đƣa quân vào giải phóng Campuchia khỏi nạn diệt chủng Pôn Pốt, chính phủ Rigân tiếp tục gây sức ép với Liên Xô và Việt Nam, đòi Liên Xô rút quân khỏi Apganistăng, đòi Việt Nam rút khỏi Campuchia và ép quân đội Cuba rút khỏi Ănggôla. Ở Mỹ la tinh, chính phủ Rigân ra sức ngăn chặn Liên Xô đã thông qua Cuba xâm nhập vào Trung Mỹ và thành lập quân đội chống chính phủ Nicaragoa. Mỹ thực hiện phƣơng châm lôi kéo Nam Phi 12 vì Mỹ coi trọng vị trí chiến lƣợc về kinh tế và địa lý của Nam Phi và vì Nam Phi luôn thân phƣơng Tây, chống Liên Xô. Một mặt Mỹ tuyên bố chống chính quyền phân biệt chủng tộc nhƣng lại dung túng chế độ phân biệt chủng tộc Nam Phi. Chính phủ Mỹ đổ quân vào Grênađa, cử nhiều đại sứ thâm nhập các nƣớc Trung Mỹ để ngăn cản giải quyết hoà bình vấn đề châu Mỹ. Thất bại về quân sự trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Mỹ tiếp tục chống phá cách mạng Việt Nam bằng chiến lƣợc “Diễn biến hoà bình”. Ngày 12-6-1986, Bộ Chính trị ra nghị quyết số 32 về tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của Đảng ta. Nghị quyết khẳng định những cố gắng về mặt đối ngoại của Việt Nam từ năm 1975 là đã tăng cƣờng sự hợp tác toàn diện với các nƣớc trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, góp phần vào cuộc đấu tranh duy trì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Bộ Chính trị cho rằng xu thế của thời đại đang tiến đến một thế giới hoà bình, hợp tác, cùng phát triển trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền mỗi quốc gia. Tuy vậy, đế quốc Mỹ vẫn chƣa từ bỏ âm mƣu bá chủ thế giới, ráo riết chạy đua vũ trang, tiến hành các vụ thử hạt nhân, Mỹ đang cùng các thế lực chống Việt Nam tìm mọi cách khống chế ba nƣớc Đông Dƣơng. Bộ Chính trị xác định chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam là ra sức kết hợp tốt nhất sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại, góp phần giữ vững hoà bình ở Đông Dƣơng, Đông Nam Á và trên toàn thế giới, củng cố quan hệ với Lào và Campuchia, tăng cƣờng quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nƣớc trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi nhất cho việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lƣợc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Bộ Chính trị nêu nguyên tắc giải quyết vấn đề Campuchia, vì lợi ích của cách mạng ba nƣớc Đông Dƣơng, góp phần xây dựng Đông Nam Á thành khu vực 13 hoà bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển. Tuy nhiên, Bộ Chính trị chƣa nhận thức đƣợc những diễn biến mới và sự phức tạp của tình hình ở Đông Âu và Liên Xô. Hội nghị lần thứ 11 Ban chấp hành Trung ƣơng (khoá V) họp cuối tháng 11-1986 đã thông qua Dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội VI đƣợc bổ sung và hoàn chỉnh từ những quan điểm đổi mới của Hội nghị Bộ Chính trị tháng 8-1986. Nhiệm vụ đối ngoại đƣợc nêu bổ sung là cần có chính sách mềm dẻo hơn, nhƣng không đƣợc có ảo tƣởng và mất cảnh giác với các thế lực thù địch. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đƣợc tiến hành từ ngày 5 đến ngày 18-12-1986 tại Hà Nội. Đại hội đã xác định nhiệm vụ đối ngoại của Việt Nam là tranh thủ tối đa những điều kiện quốc tế thuận lợi để thực hiện nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của cách mạng Việt Nam trong chặng đƣờng đầu tiên là ra sức phấn đấu ổn định tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đƣờng tiếp theo, đồng thời chỉ rõ phƣơng hƣớng, giải pháp đối với từng đối tác cụ thể cho phù hợp với xu thế phát triển chung của tình hình thế giới. Việt Nam coi Liên Xô là đối tác quan trọng. “Tăng cƣờng đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô luôn là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta” [38, 99-100]. Đối với các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa, (Thụy Điển, Nhật, Pháp, Ôxtrâylia, Phần Lan) và các nƣớc phƣơng Tây khác, Đảng và nhà nƣớc Việt Nam chủ trƣơng mở rộng quan hệ trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi. Việt Nam chủ trƣơng: “ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh anh dũng của giai cấp công nhân và nhân dân ở các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa, chống sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tƣ bản lũng đoạn, chống chạy đua vũ trang hạt nhân, vì hoà bình dân chủ, việc 14 làm và cải thiện mức sống. Chúng ta ủng hộ chính sách đoàn kết, tập hợp mọi lực lƣợng dân chủ và tiến bộ của các đảng cộng sản và công nhân anh em” [38, 103]. Đối với Mỹ, Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam chủ trƣơng “tiếp tục bàn bạc với Mỹ để giải quyết các vấn đề nhân đạo do chiến tranh để lại và sẵn sàng cải thiện quan hệ với Mỹ vì lợi ích của hoà bình, ổn định ở Đông Nam Á” [38, 108]. Việt Nam “chủ trƣơng và ủng hộ chính sách cùng tồn tại hoà bình giữa các nƣớc có chế độ chính trị và xã hội khác nhau, loại trừ chiến tranh xâm lƣợc và mọi hình thức của chủ nghĩa khủng bố, nhất là chủ nghĩa khủng bố nhà nƣớc mà đế quốc Mỹ coi là quốc sách của họ… Chúng ta đòi hỏi phía Mỹ phải có thái độ nghiêm chỉnh trong quan hệ với Liên Xô, cùng Liên Xô thảo luận để tìm những biện pháp cụ thể và thực tế nhằm ngăn chặn chạy đua vũ trang, trƣớc mắt là chấm dứt các cuộc thử vũ khí hạt nhân. Chúng ta vạch trần thái độ ngoan cố của Mỹ không chịu từ bỏ cuộc chạy đua vũ trang cả trên trái đất và trong khoảng không vũ trụ, gây thêm tình hình căng thẳng trong các quan hệ quốc tế” [38, 105]. Sau Đại hội VI, tình hình thế giới và trong nƣớc diễn biến nhanh và phức tạp. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ tạo ra xu thế hoà hoãn để phát triển kinh tế, tác động tích cực đến công cuộc đổi mới để xây dựng đất nƣớc của Việt Nam. Việt Nam có thể tranh thủ những thành tựu mới của khoa học và công nghệ hiện đại để sớm khắc phục cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, đối thoại để cải thiện quan hệ với các nƣớc trong khu vực. Mặt khác diễn biến của tình hình chính trị thế giới có tác động tiêu cực đến Việt Nam, nhất là diễn biến của cải tổ, cải cách ở Liên Xô, Đông Âu và cuộc phản kích của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống chủ nghĩa xã hội. Tình hình trên đã tác động bất lợi đến công cuộc đổi mới theo định 15 hƣớng xã hội chủ nghĩa dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cách mạng Việt Nam phải đƣơng đầu với những kẻ thù có âm mƣu thâm độc khác trƣớc, trong khi những đồng minh chiến lƣợc đang bị khủng hoảng nghiêm trọng. Về mặt đối ngoại Việt Nam phải đƣơng đầu với những khó khăn chồng chất. Chính phủ Mỹ tiếp tục xiết chặt cấm vận Việt Nam và dùng sức ép buộc các nƣớc khác phải chống Việt Nam. Họ đã xây dựng một số lƣợng lớn các phƣơng tiện thông tin đại chúng và hoạt động tuyên truyền chống phá cách mạng Việt Nam. Năm 1987 có 15 đài phát thanh bằng tiếng Việt, gần 200 tờ báo, tạp chí có nội dung chống Việt Nam của phƣơng Tây và ngƣời Việt lƣu vong ở nƣớc ngoài. Họ còn tổ chức các hoạt động chống Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế nhƣ Liên Hợp Quốc. Họ nuôi dƣỡng các tổ chức phản động lƣu vong của ngƣời Việt ở nƣớc ngoài trở lại Việt Nam gây bạo loạn. Vấn đề Campuchia chƣa đƣợc giải quyết do tập đoàn Pôn Pốt, ASEAN và một số nƣớc lớn cản trở. Vấn đề Campuchia vẫn là con bài để các thế lực phản động quốc tế lợi dụng chống Việt Nam. Mặt khác, vấn đề biên giới phía bắc, quần đảo Trƣờng Sa, Hoàng Sa làm cho quan hệ Việt - Trung vốn đã căng thẳng, trở nên căng thẳng hơn, cản trở tiến trình bình thƣờng hoá quan hệ giữa hai nƣớc. Tháng 8-1988 Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khoá VI thông qua Nghị quyết 13 về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới. Đây là mốc quan trọng trong việc đổi mới tƣ duy đối ngoại theo định hƣớng mới. Với chủ đề “giữ vững hoà bình phát triển kinh tế”, Nghị quyết nhấn mạnh nhiệm vụ ngoại giao phục vụ ổn định chính trị, ƣu tiên phát triển kinh tế là hàng đầu, đồng thời bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết nêu rõ các chủ 16 trƣơng góp phần giải quyết vấn đề Campuchia, bình thƣờng hoá quan hệ với Trung Quốc, cải thiện quan hệ với ASEAN, mở rộng quan hệ với các nƣớc Tây, Bắc Âu và Nhật, từng bƣớc bình thƣờng hoá quan hệ với Mỹ… Nghị quyết 13 Bộ Chính trị (1988) có sự đổi mới tƣ duy cho kịp với những bƣớc phát triển nhanh chóng của tình hình thế giới và có quan điểm về việc kết hợp sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới của tình hình thế giới. Thế giới trong 40 năm trƣớc đó có những biến đổi sâu sắc trong quá trình phát triển của loài ngƣời từ chủ nghĩa tƣ bản lên chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết nhận định: “từ giữa những năm 70 nhất là những năm gần đây, tình hình thế giới có nhiều chuyển biến rất quan trọng, đặt ra nhiều vấn đề mới cho tất cả các nƣớc. Cụ thể là: Sau thất bại của Mỹ ở Việt Nam, trong điều kiện nền kinh tế thế giới ngày càng quốc tế hoá, cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân giữa Liên Xô và Mỹ đến đỉnh cao, sự thức tỉnh của các dân tộc và của cả loài ngƣời đấu tranh cho hoà bình, độc lập và phát triển ngày càng mạnh mẽ. Khả năng đẩy lùi nguy cơ chiến tranh thế giới không ngừng tăng lên, các thế lực đế quốc và phản động dùng chiến tranh cục bộ chống các dân tộc, nhƣng cuộc đấu tranh của các dân tộc vì độc lập, tự do vẫn không ngừng phát triển. Cách mạng khoa học kỹ thuật và bƣớc phát triển nhảy vọt của lực lƣợng sản xuất thế giới đã đặt ra cho các nƣớc thuộc cả hai hệ thống nhiều vấn đề cấp bách phải giải quyết. Các nƣớc lớn, kể cả các nƣớc có tiềm lực mạnh, buộc phải giảm chạy đua vũ trang hạt nhân và chi phí quốc phòng, giảm cam kết về quân sự ở bên ngoài và dàn xếp với nhau về các vấn đề khu vực để tập trung vào củng cố bên trong, chạy đua ráo riết về kinh tế và khoa học kỹ thuật nhằm tạo ra một nền kinh tế phát triển cao vào cuối thế kỷ này. Xu thế đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại giữa các nƣớc có chế độ xã hội khác nhau ngày càng phát triển. Biện pháp và hình thức đấu tranh có thể đa dạng, nhƣng vẫn chung một tính chất phức tạp và quyết liệt của cuộc đấu tranh giai cấp thế 17 giới” [8]. Trƣớc những diễn biến mới trên thế giới và khu vực, Bộ chính trị cho rằng Việt Nam có cơ hội lớn để giữ vững hoà bình và phát triển kinh tế, do đó: “Lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững an ninh và độc lập, chúng ta phải có một chiến lƣợc toàn diện và phải quyết tâm thực hiện bằng đƣợc mục tiêu đó” [8]. Bộ Chính trị kết luận: “Cần có quan điểm mới về an ninh và phát triển trong thời đại ngày nay để khẳng định mạnh mẽ phƣơng hƣớng ƣu tiên tập trung cho sự nghiệp giữ vững hoà bình và phát triển kinh tế… với một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chúng ta sẽ càng có nhiều khả năng giữ vững độc lập và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội hơn” [8]. Nghị quyết 13 về đối ngoại đƣợc Bộ Chính trị đánh giá là: “Sự vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và kết hợp chủ nghĩa quốc tế chân chính với chủ nghĩa yêu nƣớc trong sáng trong tình hình mới” [102]. Từ cuối năm 1989, tình hình thế giới diễn biến nhanh và phức tạp. Đặc biệt là sự biến đổi của Liên Xô và các nƣớc xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Các nƣớc xã hội chủ nghĩa bị khủng hoảng nghiêm trọng nhất từ trƣớc tới nay. Ở một số nƣớc, các lực lƣợng chống chủ nghĩa xã hội đã nắm đƣợc chính quyền và đƣa đất nƣớc đi theo con đƣờng tƣ bản chủ nghĩa. Đảng Cộng sản và công nhân trở thành thiểu số đối lập, có đảng tan rã nhanh, có đảng bị phân liệt, có đảng chuyển sang khuynh hƣớng xã hội dân chủ nhƣ ở Ban Lan, Hunggari, Tiệp Khắc và Cộng hoà dân chủ Đức. Ở một số nƣớc khác, tuy các đảng cộng sản và công nhân vẫn nắm chính quyền nhƣng gặp nhiều khó khăn ở mức độ khác nhau. Có nƣớc rối ren về chính trị, xã hội tạo cơ hội cho các lực lƣợng chống chủ nghĩa xã hội nổi dậy hoạt động nhƣ ở Liên Xô, Bungari, Anbani, Nam Tƣ… có nƣớc tuy chƣa mất ổn định về chính trị nhƣng có nhiều nhân tố không ổn định nhƣ Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, có nƣớc giữ đƣợc 18 ổn định chính trị tiến hành cải cách, đổi mới nhƣng chƣa ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội nhƣ Trung Quốc, Việt Nam. Trƣớc các biến động lớn ở Liên Xô, các nƣớc xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Trung Quốc, các thế lực thù địch ráo riết hoạt động, nuôi hy vọng gây nên những vụ lộn xộn về chính trị, xã hội để phối hợp với các hoạt động phá hoại khác nhằm lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Những tháng cuối năm 1989 đầu năm 1990, trong lúc công cuộc đổi mới của Việt Nam đang chuyển biến tích cực thì tình hình các nƣớc xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô rất nghiêm trọng. Hàng loạt nƣớc xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ: Hunggari, Tiệp Khắc, Cộng hoà dân chủ Đức, Rumani, Bungari. Lítva và một số nƣớc Cộng hoà thuộc Liên Xô cũng đòi li khai. Sự sụp đổ của các nƣớc xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và sự rệu rã của Liên Xô đã tác động mạnh đến Việt Nam làm nhiều đảng viên và nhân dân lo lắng cho vận mệnh của Đảng và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong nội bộ Đảng, kể cả một vài cán bộ cấp cao nảy sinh khuynh hƣớng đa nguyên, đa đảng. Hội nghị lần thứ Tám Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng (khoá VI) họp tại Hà Nội (3-1990) bàn về những vấn đề cấp bách, giải đáp những yêu cầu nóng bỏng của tình hình quốc tế và trong nƣớc. Hội nghị nhận định tác động của cuộc khủng hoảng toàn diện và nghiêm trọng của các nƣớc xã hội chủ nghĩa đối với phong trào cách mạng thế giới, nhƣng chƣa dự kiến đƣợc tình huống sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và sự tan rã của Liên Xô. Hội nghị cho rằng: “Nhìn chung, chủ nghĩa xã hội đang ở giai đoạn khó khăn, thử thách gay go. Cuộc đấu tranh để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa xã hội đang diễn ra quyết liệt. Nhƣng chúng ta tin tƣởng rằng chủ nghĩa xã hội nhất định sẽ vƣợt qua đƣợc thử thách, từng bƣớc khắc phục khó khăn, tiếp tục tiến lên” 19 [39, 3-4]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng họp từ ngày 17 đến ngày 22-6-1991 trong bối cảnh đất nƣớc và thế giới có nhiều thay đổi. Đại hội đã tổng kết việc thực hiện nghị quyết Đại hội VI, đánh giá thành tựu, khuyết điểm, phân tích nguyên nhân và bài học đổi mới, xác định phƣơng hƣớng, mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu cho 5 năm 1991-1995. Đại hội VII đã thông qua Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cƣơng lĩnh đã đề ra mục tiêu của chính sách đối ngoại là: “Tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội” [41, 18]. Quan điểm đa dạng hoá, đa phƣơng hoá đƣợc tiếp tục khẳng định trong tình hình mới: “Hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nƣớc không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình” [41, 18]. Cƣơng lĩnh khẳng định mối quan hệ hữu nghị truyền thống với các nƣớc xã hội chủ nghĩa, các nƣớc anh em trên bán đảo Đông Dƣơng. Đảng Cộng sản Việt Nam trƣớc sau nhƣ một ủng hộ các đảng cộng sản và công nhân, các phong trào cách mạng trong cuộc đấu tranh vì những mục tiêu chung của thời đại. Đảng Cộng sản Việt Nam sẵn sàng thiết lập và mở rộng quan hệ với các đảng và các lực lƣợng đấu tranh chống các thế lực hiếu chiến xâm lƣợc, áp bức, bóc lột các nƣớc chậm tiến, vì hoà bình thế giới và tiến bộ xã hội. Tham gia tích cực vào các tổ chức quốc tế và phong trào không liên kết vì mục tiêu hoà bình, độc lập dân tộc và phát triển. Cƣơng lĩnh chỉ rõ quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam đối với các nƣớc Đông Nam Á là: “Phát triển quan hệ với các nƣớc Đông Nam Á, tích cực góp phần xây dựng khu vực này thành khu vực hoà bình và hợp tác” 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan