Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoa học xã hội Lịch sử đảng cộng sản việt nam vừa là người lãnh đạo vừa là đầy tớ thật trung thành của ...

Tài liệu đảng cộng sản việt nam vừa là người lãnh đạo vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân trong quan điểm tư tưởng của hồ chí minh

.DOCX
75
489
99

Mô tả:

Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân
MỤC LỤC A. MỞ ĐẦU...................................................................................................................... 3 B. NỘI DUNG................................................................................................................... 5 1. Cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng nhân dân................................................................................................................5 1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử...................................................................................................................... 5 1.1.1. Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội.........................5 1.1.2. Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.......6 1.1.3. Quần chúng nhân dân có vai trò to lớn, không thể thay thế, trong sản xuất tinh thần............................................................................................................................ 8 1.2. Quan điểm của của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ của Đảng Cộng sản với giai cấp công nhân và nhân dân lao động...............................................................11 2. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là người lãnh đạo vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân trong quan điểm tư tưởng của Hồ Chí Minh........................................13 2.1. Khái niệm “ dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.......................................................13 2.2. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là người lãnh đạo vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân..................................................................................................................17 2.3. Đảng lãnh đạo dân làm chủ....................................................................................21 3. Đảng phải thường xuyên chăm lo củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân................................................................................................................................... 25 3.1. Đảng phải thường xuyên chăm lo củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và dân - đó là sự kế thừa tinh hoa văn hóa của nhân loại đặc biệt là tư tưởng của các triết gia Trung Quốc.......................................................................................................25 3.2. Đảng phải thường xuyên chăm lo củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và dân vì đó là sự kế thừa tư tưởng truyền thống văn hóa Việt Nam đã có từ lâu trong lịch sử dân tộc................................................................................................................. 30 3.3. Đảng phải thường xuyên chăm lo củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân vì dân là gốc của nước, của cách mạng, vì quần chúng nhân dân là người làm nên lịch sử, là cuội nguồn cho cách mạng Việt Nam............................................35 1 3.4. Đảng phải thường xuyên chăm lo củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân vì trong xã hội dân là qúy, là quan trọng hơn hết.................................................52 3.5. Một vài biện pháp để củng cố và tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân trong giai đoạn hiện nay................................................................................58 3.5.1. Thực trạng mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân và những vấn đề đang đặt ra...................................................................................................................................... 58 3.5.2. Một số giải pháp...................................................................................................63 C. KẾT LUẬN................................................................................................................69 D. PHỤ LỤC...................................................................................................................71 E. TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................74 2 A. MỞ ĐẦU Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được bắt đầu từ Đại hội VI của Đảng với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đại hội lần thứ VI của Đảng đã thấy rõ cần phải vận dụng sáng tạo quan điểm của Đảng vào sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân trong điều kiện mới, theo đó, đã tổng kết và rút ra bài học kinh nghiệm số một của cách mạng nước ta là “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, “xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động””1. Đại hội phê phán “quan liêu mệnh lệnh, rời xa quần chúng, đi ngược lại lợi ích của nhân dân là làm suy yếu sức mạnh của Đảng”2. Đại hội nhấn mạnh những mục tiêu do Đại hội đề ra chỉ có thể đạt được bằng những hành động sáng tạo của hàng triệu quần chúng; “Quyền làm chủ của nhân dân cần được thể chế hóa bằng pháp luật và tổ chức” 3; “Thực hiện có nề nết khẩu hiệu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”” 4. Đại hội cũng chỉ ra “lợi ích chính đáng của quần chúng đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Trước mắt, tập chung sức giải quyết những vấn đề có thể giải quyết được phù hợp với từng đối tượng”5. Thực hiện đường lối đổi mới của Đại hội VI, quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, Hội nghị Trung ương VIII (diễn ra từ ngày 12 đến ngày 27/3/1990) đã ra nghị quyết về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân (Nghị quyết 8B) đây là một Nghị quyết vừa có tính cơ bản, chiến lược vừa có tính cấp bách, được soạn thảo với sự đóng góp ý kiến rộng rãi 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.362. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.363. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.445. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.562. 5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.449. 3 của các tầng lớp nhân dân. Nghị quyết đưa ra bốn quan điểm chỉ đạo đổi mới công tác quần chúng của Đảng trong thời kỳ mới: (1) Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân (2) Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của dân và kết hợp hài hòa các lợi ích. Thống nhất quyền lợi và nghĩa vụ công dân. (3) Các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng. (4) Công tác quần chúng là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân6. 6. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, 2007, t.50, tr.83-84. 4 B. NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng nhân dân 1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử 1.1.1. Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội Con người muốn sống, xã hội muốn tồn tại, thì trước tiên phải có thức ăn, vật dụng, nhà ở v.v.. Để đáp ứng nhu cầu đó, người ta phải không ngừng sản xuất. Sản xuất vật chất là điều kiện cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Lực lượng sản xuất phát triển dẫn tới sự thay đổi về mặt phương thức sản xuất và toàn bộ đời sống xã hội. Con người sản xuất ra của cải vật chất, đó là yêu cầu khách quan của sự sinh tồn xã hội. Xã hội không thể thỏa mãn nhu cầu của mình bằng những cái đã có sẵn trong tự nhiên, để duy trì và nâng cao đời sống của mình, con người phải tiến hành của cải vật chất; nếu không có sản xuất thì xã hội sẽ diệt vong. Chính vì vậy mà Ăngghen đã viết: Mác là người đầu tiên “đã phát triển ra quy luật phát triển của lịch sử loài người, nghĩa là tìm ra cái thật sự giản đơn… là trước hết con người cần phải ăn, uống, ở và mặc, trước khi có thể lo đến chuyện làm chính trị, khoa học, công nghệ, tôn giáo…”7. Trong quá trình lao động sản xuất đó, lực lượng sản xuất cơ bản là đông đảo quần chúng nhân dân lao động bao gồm cả lao động chân tay và lao động trí óc. Sản xuất vật chất, chế tạo và cải tiến công cụ lao động là hoạt động của xã hội, chứ không phải của một số cá nhân. Lực lượng sản xuất cơ bản là đông đảo 7 C.Mác và Ph.Ăngghen: Tuyển tập, tập 2, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1971, tr.198. 5 quần chúng nhân dân lao động bao gồm cả lao động chân tay và lao động trí óc. Thực tiễn sản xuất của loài người, của quần chúng nhân dân là cơ sở và động lực của sự phát triển khoa học kỹ thuật8. Khoa học không có lý do tồn tại nếu không có hoạt động sản xuất. Đến lượt nó, khoa học kỹ thuật lại làm cho năng suất lao động được nâng lên không ngừng. Khoa học kỹ thuật cũng không phải hoạt động riêng lẻ của một số cá nhân. Ngày nay, nhân dân lao động, trước hết là giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức sản xuất là lực lượng cơ bản của nền sản xuất hiện đại, trí tuệ cao. Nền sản xuất xã hội sẽ sa sút, kém hiệu quả nếu tài năng, trí tuệ, năng suất lao động của những người lao động không được phát huy, không được nâng cao. Trong trường hợp đó khoa học cũng khó phát triển. Lực lượng sản xuất phát triển sẽ dẫn tới thay đổi về mặt phương thức sản xuất và toàn bộ đời sống xã hội. Từ đó có thể khẳng định, hoạt động sản xuất của quần chúng là điều kiện cơ bản để quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội, bởi xét đến cùng lực lượng sản xuất là cái quy định sự biến đổi của lịch sử và trong lực lượng sản xuất thì quần chúng nhân dân là yếu tố quan trọng nhất, quyết định nhất, do đó quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử. 1.1.2. Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội Theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính chất bước ngoặt và căn bản về chất trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, là phương thức thay thế hình thái kinh tế xã hội lỗi thời bằng hình thái kinh tế xã hội cao hơn. Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ chính trị đã lỗi thời, thiết lập một chế 8 Giáo trình triết học Mác – Lênin, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2008, tr.622. 6 độ chính trị tiến bộ hơn. Nguyên nhân sâu sa của cuộc cách mạng xã hội là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện thành mâu thuẫn giữa các giai cấp đối kháng, giữa giai cấp thống trị và giai cấp lao động, bị trị, và dẫn tới đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cuộc cách mạng xã hội. Khi quan hệ sản xuất đã trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất thì cần có các các cuộc cách mạng xã hội để xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới, giải phóng lực lượng sản xuất, hình thành phương thức sản xuất mới cao hơn9. Lịch sử đã chứng minh, trong các cuộc cách mạng xã hội, quần chúng nhân dân bao giờ cũng là lực lượng cơ bản, đóng vai trò quyết định thắng lợi của các cuộc cách mạng. Trong các cuộc cách mạng vĩ đại làm thay đổi hình thái kinh tế xã hội, quần chúng nhân dân tham gia đông đảo, tự giác, tích cực thì cách mạng mới có thể giành thắng lợi. Cách mạng là ngày hội của quần chúng, là sự nghiệp của quần chúng chứ không phải sự nghiệp riêng của một số cá nhân, không có một chuyển biến chế độ, cách mạng xã hội nào mà không là hoạt động của đông đảo quần chúng nhân dân. Chẳng hạn như vào thời kỳ cổ đại nếu không có các cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của hàng chục vạn nô lệ và tầng lớp bình dân chống giai cấp chủ nô thì chế độ nô lệ dù đã thối nát cũng không thể sụp đổ. Cuối xã hội phong kiến, chính các phong trào đấu tranh của nông dân, thợ thủ công, thương nhân, trí thức… do giai cấp tư sản lãnh đạo đã dẫn đến các cuộc cách mạng tư sản trong các thế kỷ XVI, XVII, XVIII làm sụp đổ chế độ phong kiến, đưa xã hội chuyển sang thời đại tư sản. 9 Giáo trình Triết học Mác – Lênin, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2008, tr.623. 7 Có thể nói, suy đến cùng, nguyên nhân của mọi cuộc cách mạng xã hội đều bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến mâu thuẫn với quan hệ sản xuất nghĩa là bắt đầu từ hoạt động sản xuất vật chất của quần chúng nhân dân. Bởi vậy, nhân dân lao động là chủ thể của các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội, đóng vai trò là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. 1.1.3. Quần chúng nhân dân có vai trò to lớn, không thể thay thế, trong sản xuất tinh thần Quần chúng nhân dân chẳng những đóng vai trò quyết định trong sản xuất vật chất, trong cách mạng xã hội mà còn đóng vai trò vô cùng to lớn trong sự nghiệp phát triển văn học, nghệ thuật, khoa học đồng thời áp dụng những thành tựu đó vào thực tiễn. Những sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự, kinh tế, chính trị, đạo đức… của nhân dân vừa là cội nguồn vừa là điều kiện thúc đẩy sự phát triển nền văn hóa tinh thần của các dân tộc trong mọi thời đại. Nhân loại vô cùng biết ơn các nhà văn, nhà thơ, nhà khoa học như: Aristot, Pascal, Anhxtanh, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh… Họ đã có những tác phẩm, phát minh vô cùng vĩ đại làm phong phú kho tang văn hóa nhân loại. Tuy nhiên, những sáng tạo văn hóa tinh thần đó đều có quan hệ mật thiết với quần chúng nhân dân. Sở dĩ như vậy vì hoạt động của quần chúng nhân dân trong hoạt động thực tiễn là nguồn cảm hứng vô tận cho mọi sáng tạo tinh thần trong đời sống xã hội. Mặt khác, quần chúng nhân dân còn là người bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa. Các giá trị văn hóa tinh thần chỉ có thể trường tồn khi được đông đảo quần chúng nhân dân chấp nhận và truyền bá sâu rộng, trở thành giá trị phổ biến. Nói về vai trò của quần chúng trong sáng tạo nghệ thuật, Hồ Chí Minh nhận định: “Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là những người sáng tạo. Nhưng, quần chúng không phải chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là người sáng tác nữa… Những sáng tác ấy là những hòn ngọc 8 quý”10. Quần chúng là mảnh đất màu mỡ nuôi dưỡng các sáng tác, là người sáng tạo, kiểm nghiệm và có quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa. Những nền văn học nghệ thuật lớn đều bắt nguồn từ văn học nghệ thuật dân gian. Mác viết: “Thần thoại Hy Lạp không những cấu thành kho tang của nghệ thuật Hy Lạp mà còn là miếng đất đã nuôi dưỡng nghệ thuật Hy Lạp nữa”11. Truyện Kiều của Nguyễn Du sống mãi với nhân dân ta và nhân dân thế giới chính là vì tác phẩm đó phản ánh sinh động cuộc sống, tâm tư nguyện vọng của nhân dân, đồng thời kế thừa những tinh hoa văn học dân gian, nhất là ca dao, dân ca. Trong xã hội có áp bức giai cấp, quần chúng lao động không có điều kiện nghiên cứu phát minh khoa học, song vẫn có không ít nhà khoa học tài năng xuất thân từ quần chúng lao động. Khoa học tự nhiên và khoa học xã hội là sự khái quát thực tiễn lao động sản xuất để chế ngự thiên nhiên và đấu tranh xã hội của quần chúng nhân dân. Quần chúng nhân dân đông đảo, với hoạt động thực tiễn của họ, là cơ sở của sản xuất tinh thần của xã hội. Quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định trong sự phát triển lịch sử, nhưng vai trò đó trong từng thời kỳ cụ thể không giống nhau. Vai trò ấy được phát huy cao độ một khi đông đảo quần chúng thoát khỏi sự trói buộc của những tư tưởng phản động, phản khoa học, những tập quán lạc hậu và được giác ngộ những tư tưởng khoa học và cách mạng. Do đó, C.Mác nói: “Tư tưởng một khi thâm nhập vào quần chúng sẽ biến thành lực lượng vật chất. Đó là những tư tưởng phản ánh đúng quy luật khách quan của lịch sử, phản ánh đúng ý nguyện và lợi ích căn bản 10 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 9, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1996, tr.250. 11 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập 12, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1993, tr.890. 9 của đông đảo quần chúng, chỉ ra được những nhiệm vụ lịch sử đã chin muồi mà quần chúng nhân dân cần thực hiện”12. Tóm lại, xét từ kinh tế đến chính trị từ thực tiễn đến tinh thần tư tưởng, thì quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, vai trò của quần chúng và vai trò của cá nhân trong lịch sử không tách rời nhau. Cá nhân ưu tú, lãnh tụ kiệt xuất là sản phẩm của thời đại, đại diện cho lợi ích và ý chí của quần chúng và chỉ những cá nhân như thế mới được quần chúng công nhận là người lãnh đạo thật sự của họ. Cá nhân ưu tú, lãnh tụ kiệt xuất là sản phẩm, con đẻ của phong trào quần chúng nên sức mạnh của họ, trí tuệ của họ bắt nguồn từ quần chúng nhân dân. Lãnh tụ có vai trò vô cùng quan trọng đối với phong trào quần chúng. Lãnh tụ sáng suốt, đức độ, tài năng, xuất hiện đúng lúc bao giờ cũng có tác dụng thúc đẩy phong trào quần chúng phát triển mạnh mẽ và đạt tới những thành quả tốt đẹp, to lớn nhất. Những phong trào quần chúng to lớn không thể thiếu người lãnh đạo có tầm nhìn xa trông rộng, có năng lực tổ chức, tập hợp, đoàn kết quần chúng. V.I.Lênin viết: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”13. Trong khi nhấn mạnh tầm quan trọng của những vĩ nhân, những lãnh tụ trong quá trình phát triển của lịch sử, chủ nghĩa Mác – Lênin kiên quyết phê phán tệ sùng bái cá nhân, đề cao đức tính khiêm tốn, chân thành, lòng vị tha độ lượng, sáng suốt của cá nhân và khẳng định rằng chỉ những cá nhân nào thực sự gắn bó 12 Giáo trình Triết học Mác – Lênin, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2008, tr.625. 13 V.I.Lênin: Toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ, Matxcova, 1978, tr.473. 10 sự nghiệp của mình với vận mệnh tương lai của dân tộc, đât nước, với hạnh phúc của nhân dân thi những cá nhân ấy mới kết tinh trong mình sức mạnh của thời đại, đủ khả năng dẫn dắt quần chúng đi lên. Chỉ những con người đó mới được lịch sử thừa nhận và sống mãi với nhân dân. 1.2. Quan điểm của của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ của Đảng Cộng sản với giai cấp công nhân và nhân dân lao động Trong khi luận giải tính tất yếu và khách quan sự ra đời của Đảng Cộng sản, chủ nghĩa Mác – Lênin đồng thời làm rõ mối quan hệ giữa Đảng với giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Mác – Ăngghen cho rằng: “Đảng luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân và mọi chủ trương, chính sách, chiến lược của Đảng đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp công nhân. Nhưng Đảng không chỉ đại biểu cho quyền lợi của giai cấp công nhân mà còn đại biểu cho quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động. Bởi vì giai cấp công nhân chỉ có thể tự giải phóng được cho mình nếu đồng thời giải phóng cho các tầng lớp nhân dân lao động khác trong xã hội thoát khỏi áp bức và bóc lột”14. Mác – Ăngghen đòi hỏi Đảng Cộng sản – đội tiên phong cách mạng của giai cấp công nhân – phải được vũ trang bằng lý luận thực tiễn, có trình độ giác ngộ cao, đồng thời, trong thực tiễn, Đảng là người kiên quyết nhất và biết lôi cuốn quần chúng lao động. Lênin đã phát triển những tư tưởng của Mác – Ăngghen về mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng. Ông cho rằng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Đảng là tổ chức tự nguyện đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng quần chúng khỏi ách áp bức 14 TS.Nguyễn Văn Sáu, PGS,TS.Trần Xuân Sầm, PGS,TS.Lê Doãn Tà (Đồng chủ biên): “Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong thời kỳ đổi mới đất nước – vấn đề và kinh nghiệm”, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2002, tr.31. 11 bóc lột. Quần chúng cần có Đảng với tư cách là người lãnh đạo họ trong cuộc đấu tranh ấy. Nếu không có sự đồng tình và ủng hộ của quần chúng thì mọi chủ trương, đường lối của Đảng không thể trở thành hiện thực. Xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là một sự nghiệp hoàn toàn mới mẻ, vô cùng khó khăn. Sự nghiệp đó chỉ có thể thành công nếu Đảng tổ chức và phát huy được tính sáng tạo của quần chúng. Lênin chỉ ra rằng: “Những người cộng sản chỉ như những giọt nước trong đại dương nhân dân mênh mông và chỉ riêng bàn tay những người cộng sản thì không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân. Tính chất hành chính, máy móc, quan liêu không dung hợp với tinh thần của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, phải phê phán tất cả những hành động, biểu hiện chuyên quyền độc đoán làm ảnh hưởng đến giá trị chân chính của chủ nghĩa xã hội, làm suy giảm sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân”.15 Lênin đã từng nhấn mạnh sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ mối liên hệ mật thiết với quần chúng, từ sự đồng tình, ủng hộ của quần chúng đối với Đảng. Thiếu điều kiện đó, không những không thể xây dựng điều kiện thành công chủ nghĩa xã hội mà còn có thể dẫn đến mất chính quyền. Kinh nghiệm của Liên Xô và các nước Đông Âu trong những thập kỷ vừa qua đã chứng minh điều đó. Ở đó, Đảng không nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, không đưa ra được những giải pháp kinh tế - xã hội đáp ứng nhu cầu bức xúc của quần chúng, không được quần chúng tin yêu, bảo vệ để cho kẻ thù, giai cấp lợi dụng tính bộc phát của quần chúng, mê hoặc quần chúng. Đó là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô. 15 TS.Nguyễn Văn Sáu, PGS,TS.Trần Xuân Sầm, PGS, TS.Lê Doãn Tà (Đồng chủ biên): “Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong thời kỳ đổi mới đất nước – vấn đề và kinh nghiệm”, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2002, tr.32. 12 Cần phải thấy rằng: khi đã có chính quyền, Đảng có nhiều điều kiện mới, công cụ mới rất thuận lợi trong việc tăng cường mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng. Đảng cần xây dựng được cơ chế vận hành của hệ thống chính trị trên nguyên tắc tập trung dân chủ để giữ vững kỷ cương, phép nước, đồng thời phát huy dân chủ trong đời sống xã hội, động viên quần chúng nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, xây dựng đời sống mới, văn minh, hạnh phúc. Đồng thời, trong điều kiện có chính quyền, Đảng phải hết sức đề phòng nguy cơ quan liêu, tham nhũng. Muốn vậy, phải không ngừng giáo dục, nâng cao lập trường giai cấp, nâng cao trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, giáo dục đạo đức, phẩm chất của người cán bộ, đảng viên nêu cao tính tiên phong, gương mẫu của Đảng, để Đảng thực sự là tấm gương cho quần chúng noi theo, để Đảng xứng đáng là lãnh tụ, là người thầy, người dẫn đường trong quần chúng trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Và cũng chính từ những phong trào cách mạng của quần chúng mà Đảng tiếp tục rèn luyện mình và vững vàng hơn trong công tác lãnh đạo. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là người lãnh đạo vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân trong quan điểm tư tưởng của Hồ Chí Minh 2.1. Khái niệm “ dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh Một là, Dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết. Người nói, “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” “Ở trong xã hội, muốn thành công phải có ba điều kiện là: thiên thời, địa loqij và nhân hòa. Ba điều kiện ấy đều quan trọng cả. Những thiên thời không quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi không quan trọng bằng nhân hòa. 13 Nhân hòa là thế nào? Nhân hòa là tất cả mọi người đều nhất trí. Nhân hòa là quan trọng hơn hết.” Hai là, Dân là gốc của nước, của cách mạng. Trong các tác phẩm Đường cách mệnh, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “công nông là gốc của cách mệnh”. Trong quá trình phát triển của cách mạng, Người thường nhắc nhủ: “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì cũng không làm nên”. “Nước lấy dân làm gốc” “Gốc có vững cây mới bền Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” Ba là, Dân là chủ, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Người nói: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức nhân dân là người làm chủ”, “bao nhiêu lợi ích đều vì nhân dân”, “bao nhiêu quyền hạn đều là của dân”. “Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân bầu cử ra. Đoàn thể từ trung ương đến xã, do dân tổ chức”. Dân bầu ra người đại diện và có quyền kiểm sát, giám sát và bãi miễn khi không làm tròn sự ủy thác. Người còn nói: “Dân là nước, mình như cá”, “lực lượng nhiều là nhờ ở dân hết”. “Công việc đổi mới là trác nhiệm của dân”, Nhà nước muốn điều hành, quản lý xã hội có hiệu lực, hiệu quả nhất định phải dựa vào dân. Người yêu cầu: “Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân…”. Bốn là, Dân có quyền, nhưng phải có nghĩa vụ, trách nhiệm đối với đất nước. Người từng chỉ ra rằng: “Nhân dân có quyền làm chủ thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân”. Trong bài phát biểu với Đoàn đại biểu nhân dân Thủ đô Hà Nội, ngày 16-10-1954, Người nói: “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ Chính phủ. Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ thì việc to việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của 14 nhân dân. Vì vậy, nhân dân lại có nhiệm vụ giúp đỡ Chính phủ, theo đúng kỷ luật của Chính phủ và làm đúng chính sách của Chính phủ, để Chính phủ làm tròn phận sự mà nhân dân đã giao phó cho”.16 “Quan niệm về “dân” của Hồ Chí Minh theo quan điểm cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin. Hồ chí Minh quan niệm dân là bao gồm toàn bộ những người lao động và những người có tinh thần yêu nước.”17 Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò và sức mạnh của nhân dân trước hết có nguồn gốc sâu xa từ trong truyền thống của dân tộc Việt Nam. Truyền thống nhân văn của dân tộc Việt Nam là trọng tình nghĩa, yêu thương quý trọng tin tưởng vào con người. Trong quan hệ ứng xử, dân tộc ta biết gắn “tình nhà nghĩa xóm”, gắn lợi ích chung riêng. “ích nước lợi nhà”, cả cộng đồng cùng đứng lên chống lại giặc ngoại xâm. Bên cạnh đó, truyền thống gia đình cũng là một nhân tố quan trọng giúp cho Hồ Chí Minh sớm hình thành quan điểm coi trọng dân, hiểu dân, đánh giá cao vai trò của dân. Trước khi xuất dương (trước năm 1911), Hồ Chí Minh đã tận mắt chứng kiến cảnh lầm than, cơ cực của những người dân lao động, cảnh nước mất nhà tan, ách cai trị hà khắc của bọn thực dân đế quốc đối với nhân dân An Nam… đã tạo ra những xúc cảm đặc biệt, là niềm động lực khích lệ người thanh niên Nguyễn Tất Thành xuất dương, tìm ra con đường sáng giải phóng dân tộc và đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc hơn cho nhân dân mình. Trong tư tưởng của Người, thì giải phóng dân tộc bao giờ cũng gắn liền với cứu dân, cứu nước. Chính vì vậy, sau này khi trở thành lãnh tụ của Đảng và Nhà nước, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh rằng: 16 TS. Nguyễn Văn Sáu: Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong thời kỳ đổi mới đất nước vấn đề và kinh nghiệm, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2002, tr. 58-60. 17 PGS. PTS. Mạch Quang Thắng: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 119. 15 “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.18 Trước khi tìm thấy chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã nhận thấy chủ nghĩa đế quốc ở dâu cũng tàn bạo, độc ác và bất công. Người lao động ở đâu cũng bị áp bức, bóc lột, đày đọa không có quyền sống. “Dù màu da có khác nhau, trên đời chỉ có hai giống người: bóc lột và bị bóc lột, và cũng chỉ có một tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”. Sau khi tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin, đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga, tán thành gia nhập Quôc tế III, tham gia sang lập Đảng Cộng sản Pháp, Hồ Chí Minh tiếp nhận thêm quan điểm về dân của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đó là quan điểm coi quần chúng nhân dân là những người làm ra lịch sử. Bài học mà Người rút ra qua nghiên cứu Cách mạng Tháng Mười Nga là: “Cách mạng Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mạng thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc”.19 “Hồ Chí Minh quan niệm “dân” là bao gồm toàn bộ những người lao động và những người có tinh thần yêu nước. Như vậy là phạm vi “dân” của Hồ Chí Minh là rất rộng, bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, có thể cả những người thuộc giai cấp bóc lột – nhưng tất cả đều chung một lòng yêu nước, những con Rồng cháu Tiên, cùng một nguồn gốc, tổ tiên là dân tộc Việt Nam. Nhưng Hồ Chí Minh còn chú ý đến cái lõi giai cấp trong quảng đại quần chúng nhân dân. Lõi cốt ấy chính là công nhân, nông dân và trí thức (gọi tắt là công nông trí). Như vậy khái niệm nhân dân của Hồ Chí Minh vừa đảm bảo đúng theo tinh thần của chủ nghĩa Mác – Lênin về quan điểm giai cấp khi tập hợp lực lượng cách mạng, lại rất phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh Việt Nam,” 20 nơi giai cấp công nhân còn ít ỏi, nông 18 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4 (1945-1946), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2010, tr. 64. 19 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2 (1924-1929), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2010, tr. 304. 20 PGS. PTS. Mạch Quang Thắng: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 121. 16 dân chiếm đa số dân cư, tầng lớp trí thức có tinh thần yêu nước, cách mạng. Khái niệm ấy đã chi phối toàn bộ tư tưởng chỉ đạo xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất ở Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử cách mạng. Như vậy, chữ dân của những người sang lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học đã được Hồ Chí Minh cụ thể hóa ở Việt Nam. Điều dó khác hẳn với quan niệm về dân của tất cả các bậc sĩ phu hoặc các nhà yêu nước, cách mạng Việt Nam trước Hồ Chí Minh, kể cả quan điểm về lực lượng cách mạng của Phan Bội Châu. 2.2. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là người lãnh đạo vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân Đây cũng là một quan điểm rất quan trọng của Hồ Chí Minh khi Người đề cập đến mối quan hệ giữa Đảng cộng sản cầm quyền với nhân dân. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thường xuyên quan tâm rèn luyện đạo đức cách mạng, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, Người căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.21 Quan điểm này xuất phát từ những điểm sau: Một là, Người khẳng định chế độ ta là chế độ dân chủ, dân là chủ. Như vậy nhân dân chính là người chủ, hiểu về nghĩa chính trị. Trong lĩnh vực người chủ ấy, nhân dân có quyền hạn lớn. Do cái đích, cái mục tiêu mà Đảng cộng sản cầm quyền phải phấn đấu là đưa lại lợi ích cho nhân dân thì việc tất cả các tổ chức đảng, Nhà nước, tất cả cán bộ, đảng viên đều phải xác định mình ở vào vị trí “người phục vụ”, “người đầy tớ”. Đây thực sự là vấn đề gốc của việc xác định 21 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 14 (1963-1965), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2010, tr. 551. 17 trách nhiệm. Rõ ràng quan điểm đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên là đầy tớ của nhân dân chỉ có ở chế độ ta và do bản chất của chế ta quy định. Hai là, nội dung khái niệm “đầy tớ”, “công bộc” của dân được Hồ Chí Minh quy định chỉ ra rất rõ, rất cụ thể chứ không nêu ra một cách mị dân. Ngay sau khi giành được chính quyền do thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, với tư cách là người đứng đầu Đảng và Chính phủ, Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”. Ba là, cán bộ, đảng viên không phải là “làm quan cách mạng”, bởi vì “Đảng không phải tổ chức phát tài”. Hồ Chí Minh khẳng định: “Cán bộ Đảng, cán bộ chính quyền không phải làm quan cách mạng ăn trên ngồi trốc. Cán bộ Đảng cũng như cán bộ chính quyền, ngay cả Bác là cán bộ cao nhất đều là đầy tớ của nhân dân, phải hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân”22. Cán bộ phải có thái độ yêu kính nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, học hỏi quần chúng, thật thà, ngay thẳng; không dấu dốt, giấu khuyết điểm, giấu sai lầm; khiêm tốn, gần gũi quần chúng; không được kiêu ngạo; phải thực sự cầu thị; không được chủ quan; kiên quyết dựa vào quần chúng, giáo dục và phát động quần chúng tiến hành thắng lợi mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Trong vấn đề quan hệ với dân, Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải chăm lo tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, phải chí công vô tư, cần kiệm liêm chính và có tinh thần “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Bốn là, với trách nhiệm là một đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam phải chăm lo đến đời sống của nhân dân lao động. Đó cũng là trách nhiệm cao cả của Đảng ta. Đây là quan điểm đứng về phía trách nhiệm, nghĩa vụ chứ không phải 22 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 11 (1957-1958), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2010, tr. 113. 18 là sự ban ơn. Hồ Chí Minh tâm niệm rằng Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân, mà đại bộ phận là nông dân lao động, làm Cách mạng Tháng Tám thành công; kháng chiến thắng lợi; đánh đổ phong kiến địa chủ và chia ruộng đất cho nông dân. Hồ Chí Minh thấy rằng phải đưa lại quyền lợi cho nông dân, đó là trách nhiệm của Đảng và Chính phủ ta. Người lãnh đạo và người đày tớ luôn thống nhất với nhau trong hoạt động lãnh đạo của Đảng. Là người lãnh đạo, mọi đường lối, chính sách của Đảng phải thực sự đúng đắn, cách mạng và khoa học, phản ánh đúng tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, thực sự dẫn đường chỉ lối cho nhân dân hành động. Đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải thực sự tiên phong, gương mẫu đi trước nhân dân, nói đi đôi với làm. Người cũng chỉ rõ: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”23. Theo Người, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải có cái tâm, cái đức, cái trí. Đảng chỉ thực sự làm tròn vai trò người lãnh đạo khi Đảng luôn tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm, danh dự của dân tộc, đạo đức, văn minh của toàn xã hội. Đảng phải là người lãnh đạo sáng suốt của nhân dân, không “theo đuôi” quần chúng. Đảng là người đày tớ thật trung thành của nhân dân, đây chính là điểm phát triển sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với học thuyết Mác - Lênin về xây dựng Đảng ở Việt Nam. Tư tưởng này chỉ đạo xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác. Khi ra đi tìm đường cứu nước, Người đã theo đuổi mục đích cao cả là đấu tranh giải phóng đồng bào khỏi đoạ đày, đau khổ. Khi trở thành lãnh tụ của Đảng, của cách mạng, Người luôn phấn đấu để cho đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Khi phải từ biệt thế giới này, Người vẫn còn nuối tiếc là 23 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6 (1949-1950), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2010, tr. 16. 19 không được phục vụ nhân dân lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực về tinh thần tận tụy phục vụ nhân dân. Quan điểm Đảng là người đày tớ thật trung thành của nhân dân nói lên mục đích hoạt động của Đảng là phục vụ nhân dân, chứ không nhằm mục đích nào khác. Đảng phải thường xuyên lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân, mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải hướng vào phục vụ lợi ích của nhân dân, phấn đấu vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đảng phải chăm lo đến đời sống hàng ngày, thậm chí quan tâm tới cả tương, cà, mắm, muối của nhân dân. Người cho rằng: “Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc thì Đảng không có lợi ích gì khác. Cho nên Đảng phải ra sức tổ chức nhân dân, lãnh đạo nhân dân để giải phóng nhân dân và để nâng cao sinh hoạt, văn hóa, chính trị của nhân dân”.24 Trong tình hình hiện nay, khi mà “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn đẩy lùi, mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp”25, ảnh hưởng rất lớn đến mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân thì tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân càng có ý nghĩa sâu sắc. Tư tưởng ấy tiếp tục định hướng, soi sáng để Đảng ta đổi mới công tác quần chúng trong tình hình mới nhằm góp phần đưa mối quan hệ gắn bó giữa Đảng và nhân dân lên một tầm cao mới, làm cho ý Đảng phù hợp với lòng dân. Đã 45 năm kể từ ngày Bác đi xa, nhưng những lời Người dạy năm xưa vẫn còn nguyên giá trị, nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên và toàn Đảng ta cần phải phấn 24 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5 (1947-1948), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2010, tr. 290. 25 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr.173. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan