Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đảng cộng sản việt nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ năm 2001 đến ...

Tài liệu đảng cộng sản việt nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ năm 2001 đến năm 2011 (tt)

.DOC
28
116
97

Mô tả:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN VĂN KHOA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TƯ PHÁP TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2011 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ CHUYÊN NGÀNH: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số: 62 22 03 15 HÀ NỘI – 2017 Luận án được hoàn thành tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Người hướng dẫn khoa học : 1. PGS.TS. ĐOÀN MINH HUẤN 2. PGS.TS. TRẦN TRỌNG THƠ Phản biện 1: …………………………………………… …………………………………………… Phản biện 2: …………………………………………… …………………………………………… Phản biện 3: …………………………………………… …………………………………………… Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Vào hồi……giờ……ngày……tháng…….năm 2017 Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia - Thư viện Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài - Xuất phát từ vị trí, vai trò của Tư pháp trong bộ máy nhà nước - Những bất cập, hạn chế của công tác tư pháp trong thời kỳ đổi mới, một trong những nguyên nhân do công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. - Do những hạn chế đội ngũ cán bộ tư pháp như về số lượng, trình độ nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp dẫn tới chất lượng tư pháp chưa cao, vẫn còn tình trạng oan sai - Thực tế cho thấy vẫn còn thiếu những nghiên cứu khoa học làm cơ sở cho những giải pháp thực sự rõ ràng, đồng bộ, hiệu quả để thực hiện cải cách tư pháp. Muốn thực hiện đát kết quả tốt nhất, rất cần phải nghiên cứu hiện thực lịch sử Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp để có một cách nhìn toàn diện về thành công, hạn chế, đúc kết những kinh nghiệm có thể vận dụng vào thực tiễn hiện nay. Nghiên cứu vấn đề này nhằm làm sáng tỏ và sâu sắc thêm về vai trò lãnh đạo của Đảng trong mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội cũng như trong lĩnh vực tư pháp. Với ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ năm 2001 đến năm 2011” làm đề tài nghiên cứu luâ ân án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án Làm sáng rõ quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, đúc kết một số kinh nghiệm để vận dụng vào xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án - Làm rõ yêu cầu khách quan và những yếu tố tác động đến quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng đô âi ngũ cán bô â tư pháp từ năm 2001 đến năm 2011. - Phân tích, luận giải, làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng 2 về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp qua hai giai đoạn: 2001-2005 và 2005- 2011. - Đánh giá ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân từ quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp giai đoạn 2001-2011 - Đúc kết một số kinh nghiệm để vận dụng vào xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong giai đoạn mới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án Luận án tập trung nghiên cứu tiến trình, chủ trương và sự chỉ đạo thực hiê ân xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp của Đảng Cô âng sản Viê ât Nam từ năm 2001 đến năm 2011. 3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án - Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu quan điểm, chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về các mặt công tác đào tạo, bồi dưỡng; tuyển chọn, bổ nhiệm; chính sách đối với cán bộ tư pháp; kết quả và tác động của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ đối với nền tư pháp cũng như với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Luận án tiếp cận đối tượng cán bộ tư pháp theo nghĩa rộng là thẩm phán trong cơ quan Toà án và kiểm sát viên trong cơ quan Viện kiểm sát. - Về thời gian: Nghiên cứu quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ năm 2001 đến năm 2011 - Về không gian: Nghiên cứu trong phạm vi cả nước, song, tập trung khảo sát một số cơ quan đơn vị liên quan trực tiếp đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp ở Trung ương và một số địa phương 4. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng về tư pháp gắn với xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về cán bộ và công tác cán bộ. 4.2. Nguồn tư liệu nghiên cứu - Luận án khai thác một số tác phẩm kinh điển của C.Mác và V.I. Lênin; đặc biệt các tác phẩm của Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước về tư pháp và cán bộ tư pháp. 3 - Các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI của Đảng Cộng sản Việt Nam; các nghị quyết, kết luâ ân của Hô âi nghị Ban Chấp hành Trung ương; các Nghị quyết, Chỉ thị của Bô â Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác tư pháp và cải cách tư pháp; một số bộ luật, luật, pháp lệnh, chỉ thị của Nhà nước và Chính phủ về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. - Các kế hoạch, chương trình hành động; các đề án cụ thể; báo cáo tổng kết của các cơ quan tư pháp như Toà án nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và của Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương, những tổng kết của các cơ sở đào tạo cán bộ tư pháp. - Các sách tham khảo, chuyên khảo, luận án, luận văn, hội thảo, kỷ yếu, đề tài khoa học, các bài báo trên các tạp chí nghiên cứu đã công bố liên quan đến xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp là nguồn tư liệu tham khảo có giá trị giúp việc hoàn thành các nội dung nghiên cứu của luận án. 4.3. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc và kết hợp chặt chẽ hai phương pháp đó; đồng thời còn sử dụng một số phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh... nhằm sáng tỏ những vấn đề luận án đặt ra cần giải quyết. 5. Đóng góp mới của luận án - Hệ thống hoá chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, qua đó khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Định dạng mô ât số đă âc trưng trong tiến trình lãnh đạo của Đảng đối với xây dựng cán bô â tư pháp, mô ât lĩnh vực phải giải quyết mâu thuẫn giữa bảo đảm tính lãnh đạo thống nhất của Đảng với tôn trọng nguyên tắc đô âc lâ âp tương đối của lĩnh vực tư pháp. - Phân tích, đánh giá, rút ra các nhận xét, kết luâ ân về Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp; tổng kết một số kinh nghiệm có ý nghĩa cho vận dụng vào giai đoạn mới. 6. Bố cục của luận án Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, Nội dung của luận án gồm 4 chương 8 tiết. 4 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN Do vị trí, tầm quan trọng của vấn đề, trong những năm qua, giới khoa học trong nước và ngoài nước đã nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, có thể phân chia thành các nhóm sau. 1.1.1. Nhóm nghiên cứu chung về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp - Các nghiên cứu về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp gắn với cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền .Trong cuốn: “Xây dựng đội ngũ cán bộ Tư pháp theo yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay” của Trần Đình Thắng. Đào Trí Úc trong cuốn: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Các tác giả Lê Cảm và Nguyễn Ngọc Chí với cuốn: “Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền”. Nguyễn Đăng Dung trong cuốn: “Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền”. Trương Hoà Bình với bài: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” - Các nghiên cứu về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư pháp. Đào Xuân Tiến với bài: “Đào tạo thẩm phán”. “Về vấn đề đào tạo nguồn để bổ nhiệm các chức danh tư pháp ở Việt Nam” của Phạm Mạnh Hùng. Nguyễn Hữu Hậu với bài: “Một số suy nghĩ về định hướng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm sát trước yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế”. Trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của tác giả Phan Chí Hiếu: “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp đến năm 2020”. - Các nghiên cứu về sử dụng, tuyển chọn-bổ nhiệm đội ngũ cán bộ tư pháp. Năm 2003, Trường Đại học Luật Hà Nội với đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: “Điều tra cơ bản đánh giá thực trạng 5 đào tạo, sử dụng cán bộ pháp lý đối với sự phát triển của đất nước thế kỷ XX”. Nguyễn Văn Huyên trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: “Xây dựng cơ chế thi tuyển tư pháp quốc gia đáp ứng yêu cầu cải cách Tư pháp”. - Các nghiên cứu về giáo dục nâng cao phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ tư pháp. Trương Thị Hoà với bài: “Cải cách tư pháp và việc nâng cao đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn cho cán bộ cơ quan tư pháp”. Hoàng Văn Linh với bài: “Một số suy nghĩ về đạo đức nghề nghiệp của thẩm phán trong cải cách tư pháp hiện nay”. Học viện Tư pháp trong cuốn: “Đạo đức Nghề luật”. 1.1.2. Nhóm nghiên cứu về Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp. - Nhóm nghiên cứu các quan điểm của Hồ Chí Minh với ý nghĩa cơ sở phương pháp luận trong hoạch định chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. Vũ Đình Hòe trong cuốn hồi ký: “Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh”. Bùi Ngọc Sơn với bài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức toà án và ý nghĩa hiện nay”. Phạm Quốc Anh trong bài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về hoạt động tư pháp”. Trong bài: “Nghiên cứu, học tập Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền tư pháp cách mạng” của Khuất Văn Nga. - Nhóm nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp. Nguyễn Văn Thảo với cuốn: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Trần Đại Hưng với bài: “Hoàn thiện nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp”. Nguyễn Văn Quyền với bài: “Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Trong cuốn: “Sự lãnh đạo của Đảng đối với ngành Kiểm sát nhân dân”, (lưu hành nội bộ) của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Tác giả Trịnh Xuân Toản với đề tài cấp bộ: “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với công tác tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”. Tác giả người Thái Lan (Quốc tịch Mỹ) Thaveeporn Vassavakul với công trình: “Sectoral Politics 6 and Strategies for State and Party Building from the VII to the VIII Congresses of the Vietnamese Communist Party (1991-1996), in “Doi Moi: Ten Years after the 1986 Party Congress” (“Lĩnh vực chính trị và chiến lược xây dựng đảng và Nhà nước từ Đại hội VII đến Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (1991-1996), trong: “Đổi mới: Mười năm sau Đại hội VI”)”. 1.1.3. Nhóm nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. - Nhóm nghiên cứu quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. Nguyễn Văn Quyền trong bài: “Bàn về những nội dung cơ bản của chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Phan Hữu Thư với bài: “Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh và đổi mới công tác đào tạo”. Nguyễn Văn Huyên trong bài: “Nghiên cứu một số quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề tuyển chọn cán bộ tư pháp”. Tác giả người Úc Pip Nicholson với bài: “Vietnamese Jurisprudence: Informing Court Reform (Pháp luật Việt Nam: Tác động tới cải cách toà án) - Nhóm nghiên cứu sự chỉ đạo của Đảng trong thực hiện xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. Trần Đức Lương trong bài: “Đẩy mạnh cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Trần Huy Liệu với bài: “Những quan điểm chỉ đạo cải cách tư pháp ở Việt Nam”. Công trình Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong cuốn: “Lịch sử Viện kiểm sát nhân dân Việt Nam” (Sơ thảo). - Nhóm nghiên cứu về kết quả bước đầu thực hiện chủ trương của Đảng trong xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. Nguyễn Đình Lục với bài: “Sau ba năm thực hiện chiến lược cải cách tư pháp”. Hoàng Thế Liên trong bài: “Cải cách pháp luật và tư pháp vì sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân”. Hà Hùng Cường với bài: “Đẩy mạnh cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. 7 - Các nghiên cứu về kinh nghiêm xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. Đỗ Thị Thúy Hà: “Một số kinh nghiệm trong công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao” 1.2. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TẬP TRUNG GIẢI QUYẾT 1.2.1. Đánh giá kết quả các công trình đã được công bố Các công trình nghiên cứu đi sâu luận giải, làm rõ một số vấn đề sau: - Làm rõ được sự cần thiết và vai trò của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp đối với xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp. - Luận chứng được thực trạng và đưa ra được mô tâ số giải pháp nhằm nâng cao hiê âu quả công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp như công tác đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn, bổ nhiệm, chính sách cán bộ. - Khái quát được sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp, đă âc biê ât là nhâ ân diê ân mô ât số phương thức lãnh đạo đă âc thù của Đảng đối với lĩnh vực tư pháp – mô ât lĩnh vực đòi hỏi tôn trọng tính đô âc lâ âp trong xét xử, công tố. - Hệ thống hóa được một số quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp - Làm rõ một số quan điểm chủ trương, quá trình thực hiện của Đảng, kết quả bước đầu về cải cách tư pháp và xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. Kết quả của các công trình nêu trên rất có ý nghĩa cho triển khai nghiên cứu luâ ân án này, đă âc biê ât là các kế thừa về cách tiếp câ ân, phương pháp và mô ât số tư liê âu – tài liê âu. Tuy nhiên, các công trình trên đều chưa đề cập có hệ thống và đầy đủ về các quan điểm, chủ trương, cũng như sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp (2001-2011). 1.2.2. Câu hỏi nghiên cứu và những vấn đề luận án tập trung giải quyết Từ tổng thuâ tâ , phân tích các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án đã được trình bày ở trên, câu hỏi nghiên cứu của luâ ân án là: 8 - Bối cảnh, điều kiê ân lịch sử từ năm 2001 đến năm 2011 đă ât ra yêu cầu, đòi hỏi gì cho cải cách tư pháp và tương thích với nó là xây dựng cán bô â, công chức tư pháp? Tại sao chúng không thể tiến hành sớm hơn, đồng thời với cải cách lâ âp pháp và cải cách hành chính? - Lãnh đạo cải cách tư pháp nói chung và xây dựng cán bô â, công chức tư pháp nói riêng bao gồm những nô iâ dung, phương thức gì? Quá trình lịch sử đó đã giải quyết như thế nào mâu thuẫn giữa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong mô hình nhà nước thống nhất quyền lực với tôn trọng tính đô âc lâ âp của các cơ quan pháp? - Cải cách tư pháp nói chung và xây dựng cán bô â tư pháp nói riêng là lĩnh vực nhạy cảm, đụng chạm đến các vấn đề quyền con người, tôn trọng tính đô âc lâ âp của cơ quan tư pháp,... trong quá trình lãnh đạo Đảng đã xử lý như thế nào? - Thực tiễn Đảng lãnh đạo xây dựng đô âi ngũ cán bô â tư pháp từ năm 2001 đến năm 2011 có đă âc điểm gì và chúng để lại giá trị gì tham khảo trong thực tế? Từ câu hỏi nghiên cứu nêu trên, luận án tập trung vào những nội dung chủ yếu sau: - Làm rõ yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp; thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trước năm 2001; những thuận lợi và khó khăn trong quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. - Tái hiện, phân tích và luận giải làm rõ quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp (2001-2011), tập trung vào đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên, trên các lĩnh vực: đào tạo, bồi dưỡng; tuyển chọn, bổ nhiệm và chính sách đối với đội ngũ cán bộ tư pháp. - Đánh giá những thành tựu, hạn chế trong quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trên một số lĩnh vực chủ yếu từ năm 2001 đến năm 2011 - Tổng kết kinh nghiệm để vận dụng vào quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong giai đoạn tiếp theo. 9 Chương 2 ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐÔÔI NGŨ CÁN BÔÔ TƯ PHÁP TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005 2.1. YÊU CẦU KHÁCH QUAN ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TƯ PHÁP (2001-2005) 2.1.1. Khái niệm cán bộ tư pháp và tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ tư pháp 2.1.1.1. Khái niệm cán bộ tư pháp Cán bộ tư pháp được quan niệm là những công dân Việt Nam được tuyển dụng bổ nhiệm để giao giữ một nhiệm vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan tư pháp, có nhiệm vụ quyền hạn trong việc thực hiện quyền tư pháp và trực tiếp tham gia hoạt động khởi tố điều tra, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án 2.1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ tư pháp - Tư tưởng Hồ Chí Minh về “công minh, chính trực, khiêm tốn, thận trọng, khách quan”. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về “phụng công, thủ pháp, chí công vô tư”. 2.1.2. Yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp (2001-2005) 2.1.2.1. Nhu cầu đẩy mạnh công cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Kể từ khi Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, ngoại giao, an ninh quốc phòng…, trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm, từng bước đổi mới chính trị. Công tác xây dựng cán bộ nói chung và cán bộ tư pháp nói riêng chính là một trong những nhân tố quyết định đến sự thành công của sự nghiệp đổi mới nhất là đổi mới về kinh tế, trong đó xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. - Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp góp phần tạo ra sự đồng bộ trong cải cách hoạt động lập pháp, cải cách nền hành chính và cải cách tư pháp. Giữa các lĩnh vực đó có mối quan hệ khăng khít với nhau, đòi hỏi phải được triển khai thực hiện cải cách đồng bộ. Có như vậy mới điều phối tiến độ và bước đi cải cách bộ máy nhà nước một cách đồng 10 bộ, nhịp nhàng, khắc phục được tình trạng cắt khúc, khép kín và rời rạc trong thực hiện các giải pháp cải cách như hiện nay. 2.1.2.2. Yêu cầu cải cách tư pháp gắn với xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. - Yêu cầu cải cách tư pháp giai đoạn 2001-2005, đó là nâng cao chất lượng hoạt động và đề cao trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ tư pháp. - Chủ trương về tăng thẩm quyền xét xử cho toà án cấp huyện từ 5 năm đến 15 năm; hệ thống pháp luật ngày càng lớn với số lượng văn bản pháp luật đồ sộ; sự gia tăng của các tranh chấp, nhất là các tranh chấp có yếu tố nước ngoài - Từ đó phải nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác cán bộ tư pháp, để có sự đổi mới mạnh mẽ hơn, có biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp, để tạo sự chuyển biến hiệu quả hơn trong hoạt động tư pháp. 2.1.2.3. Yêu cầu về dân chủ hóa đời sống xã hội và hội nhập quốc tế - Quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội đang diễn ra trên thế giới đòi hỏi các quốc gia phải tự đổi mới, nhất là cải cách lĩnh vực tư pháp-một lĩnh vực liên quan trực tiếp đến con người. - Hội nhập đã trở thành một xu thế lớn của thế giới hiện đại, tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc gia. Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp chính là điều kiện để đảm bảo thật sự quyền dân chủ, quyền con người, quyền công dân đáp ứng hội nhập quốc tế. 2.1.2.4. Tình hình xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trước năm 2001 - Nhận thức và chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công năm 1945, các cơ quan tư pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã được thành lập để thực hiện những nhiệm vụ trong mỗi thời kỳ của cách mạng. Do đó, hoạt động của đội ngũ cán bộ tư pháp và mô hình tổ chức của toà án và viện kiểm sát đều được tổ chức, xây dựng theo các bản Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980; các chỉ 11 thị của Ban Bí thư. Nhìn chung đội ngũ cán bộ tư pháp thời kỳ trước đổi mới đã góp phần quan trọng trong công cuộc giải phóng dân tộc và cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, tuy nhiên do những điều kiện lịch sử nhất định mà đội ngũ cán bộ tư pháp vẫn chưa được chú trọng, quan tâm xây dựng đúng mức. Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng đã có những nhận thức quan trọng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp thể hiện qua các đại hội của Đảng từ Đại hội VI đến Đại hội VIII, các nghị quyết hội nghị Trung ương, chỉ thị của Đảng. Thể hiện trên những vấn đề sau. - Tăng cường công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp - Đổi mới chế độ bầu cử thẩm phán, kiểm sát viên thành chế độ bổ nhiệm. - Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháo có phẩm chất chính trị và đạo đức chí công vô tư, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, bảo đảm cho bộ máy trong sạch, vững mạnh - Xây dựng, ban hành các quy chế công tác cho từng loại cán bộ tư pháp; Thực hiện việc rà soát đội ngũ cán bộ tư pháp và xử lý nghiêm minh đối với người có sai phạm, sa sút về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; Nghiên cứu chế độ bồi dưỡng cho thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên với mức phụ cấp thoả đáng, phù hợp với chất lượng và khối lượng công việc. - Kết quả xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trước năm 2001 + Củng cố, kiện toàn các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư pháp như thành lập Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1996, Bộ Tư pháp đã thành lập Trung tâm Đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán và các chức danh tư pháp. Năm 1998 thành lập Trường Đào tạo các chức danh tư pháp. Các trường đào tạo, bồi dưỡng của ngành kiểm sát và toà án được củng cố như sự ra đời của Trường Cao đẳng kiểm sát (1982-2005) tiền thân Trường Bổ túc và đào tạo cán bộ kiểm sát (1970-1981) và sau này Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát (từ năm 2005-2012); thành lập Trường Cán bộ Tòa án năm 1994. + Đội ngũ cán bộ tư pháp đã được nâng lên một bước đáng kể so với thời kỳ trước đổi mới, góp phần vào sự nghiệp đổi mới, giữ 12 nghiêm kỷ cương, phép nước nhất là đã truy tố, xét xử nhiều vụ án ảnh hưởng đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Công tác tuyển chọn, bổ nhiểm thay chế độ bầu thẩm phán và kiểm sát viên bằng chế độ bổ nhiệm từ năm 1992. + Tuy nhiên còn nhiều hạn chế trong các công tác đào tạo pháp luật, kỹ năng nghề nghiệp, tuyển chọn-bổ nhiệm, quản lý, chính sách đãi ngộ. Đội ngũ cán bộ tư pháp còn thiếu và yếu. 2.2. CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TƯ PHÁP (2001-2005) 2.2.1. Chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp 2.2.1.1. Chủ trương về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư pháp. * Những quan điểm, chủ trương mới của Đại hội IX và Nghị quyết số 08 của Bộ Chí trị về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư pháp - Đại hội thứ IX của Đảng (4/2001) chủ trương nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ tư pháp trong công tác điều tra, bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử, thi hành án, không để xảy ra những trường hợp oan, sai trong tố tụng. - Nghị quyết 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” + Về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư pháp. Sắp xếp lại việc đào tạo cử nhân luật tập trung vào hai trường Đại học Luật Hà Nội và Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; thống nhất chương trình, giáo trình đào tạo, bảo đảm các sinh viên sau khi tốt nghiệp phải có quan điểm chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt và nắm vững kiến thức pháp luật. Đổi mới công tác đào tạo cán bộ chức danh tư pháp theo hướng cán bộ có chức danh tư pháp phải có trình độ đại học luật và được đào tạo về kỹ năng nghề nghiệp tư pháp theo chức danh. Nghiên cứu xây dựng đề án thành lập cơ quan thống nhất đầu mối đạo tạo nghề nghiệp cho cán bộ có chức danh tư pháp và nghiên cứu khoa học tư pháp. Tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo cán bộ tư pháp. Nghiên cứu, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, về đào tạo 13 cán bộ tư pháp, về đấu tranh phòng, chống tội phạm, về giải quyết các loại hình tranh chấp trên cơ sở bảo đảm độc lập chủ quyền, an ninh quốc gia. 2.2.1.2. Chủ trương về tuyển chọn, bổ nhiệm đội ngũ cán bộ tư pháp. Nâng cao tiêu chuẩn về chính trị, đạo đức và nghề nghiệp chuyên môn của các cán bộ tư pháp. Nghiên cứu tiến tới thực hiện việc thi sát hạch trước khi bổ nhiệm và quy định thời hạn bổ nhiệm các cán bộ có chức danh tư pháp; cải tiến thủ tục bổ nhiệm theo hướng gọn, kịp thời, bảo đảm dân chủ, công khai 2.2.1.3. Chủ trương về chính sách đối với đội ngũ cán bộ tư pháp. Có chính sách tiền lương, phụ cấp và chính sách đãi ngộ phù hợp cho cán bộ tư pháp; khen thưởng xứng đáng đối với những cán bộ có thành tích, chiến công trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ công lý. 2.2.2. Quá trình chỉ đạo và kết quả xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp của Đảng (2001-2005) 2.2.2.1. Chỉ đạo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư pháp - Tổ chức quán triệt và cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp - Chỉ đạo thực hiện công tác đào tạo luật - Chỉ đạo thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ tư pháp - Chỉ đạo thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng, lý luận chính trị, ngoại ngữ tin học, tập huấn và theo yêu cầu hội nhập quốc tế - Công tác đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ đội ngũ cán bộ tư pháp giai đoạn 2001-2005 đạt được những kết quả quan trọng cả về số lượng và chất lượng. 2.2.2.2. Chỉ đạo thực hiênê tuyển chọn, bổ nhiêm ê và thực hiện chính sách đối với đội ngũ cán bô ê tư pháp - Chỉ đạo thực hiện công tác tuyển chọn, bổ nhiệm đội ngũ thẩm phán - Chỉ đạo thực hiện công tác tuyển chọn, bổ nhiệm kiểm sát viên - Công tác tuyển chọn, bổ nhiệm đội ngũ thẩm phán giai đoạn 2001-2005 đạt được những kết quả - Chỉ đạo thực hiện chính sách đối với đội ngũ cán bộ tư pháp. 14 Tiểu kết chương 2 Trong những năm đầu thực hiện cải cách tư pháp, yêu cầu khách quan về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp được đặt ra là một cách cấp thiết. Trên cơ sở thực trạng Đảng lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trước năm 2001 và yêu cầu của thời kỳ đổi mới, cải cách tư pháp (2001-2005), Đảng Cộng sản Việt nam đã từng bước hình thành các quan điểm, chủ trương về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp tập trung vào những mặt công tác như: đào tào, bồi dưỡng; tuyển chọn, bổ nhiệm; chính sách đối với đội ngũ cán bộ tư pháp. Nhờ đó công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp đã có được những thành tựu bước đầu, góp phần vào công cuộc cải cách tư pháp. Tuy nhiên, cũng còn có những hạn chế trong chỉ đạo thực hiện như công tác đào tạo, bồi dưỡng còn nặng về lý thuyết, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra; công tác tuyển chọn, bổ nhiệm còn rườm rà, hình thức, không mở rộng được nguồn để tuyển chọn, bổ nhiệm; chính sách đối với đội ngũ cán bộ tư pháp chưa tương xứng với đặc thù của hoạt động tư pháp. Dẫn đến đội ngũ cán bộ tư pháp còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng truy tố, xét xử, làm oan sai người vô tội, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. 15 Chương 3 ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐÔÔI NGŨ CÁN BÔÔ TƯ PHÁP TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2011 3.1. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG VÀ CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TƯ PHÁP (2005-2011) 3.1.1. Những nhân tố tác động đến Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp - Thành tựu sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của đất nước - Nhận thức về bảo đảm quyền con người và quyền công dân cũng có những chuyển biến nhất định. - Nhu cầu về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung và sự nghiệp cải cách tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp nói riêng. - Những thành tựu trong lĩnh vực lập pháp mang lại và phát huy tác dụng cũng thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc đổi mới tư pháp. - Xu thế cải cách tư pháp của các nước trên thế giới tác động. - Rào cản của bô â máy công quyền, của cơ chế quản lý. Bộ máy lập pháp, hành pháp và tư pháp còn bất cập, chưa thật sự là nền tảng để cải cách tư pháp nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp nói riêng. - Hạn chế, yếu kém của bản thân hê â thống tư pháp như hệ thống pháp luật, tổ chức, bộ máy, trình độ đội ngũ cán bộ tư pháp - Yêu cầu, nhiê m â vụ của Chiến lược cải cách tư pháp đặt ra như về số lượng, chất lượng, trình độ, phẩm chất đạo đức; tổ chức lại mô hình toà án, viện kiểm sát độc lập theo bốn cấp; bảo đảm tính độc lập xét xử của thẩm phán; đề cao nguyên tắc tranh tụng tại toà án; hội nhập quốc tế. - Hoạt đô nâ g lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để chống phá của các thế lực thù địch. 3.1.2. Chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp 3.1.2.1. Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp theo Chiến lược cải cách tư pháp toàn diện 16 - Quan điểm cải cách tư pháp - Quan điểm xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ, tiến tới thi tuyển đối với một số chức danh cán bộ tư pháp - Về đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo cử nhân luật, đào tạo cán bộ nguồn của các chức danh tư pháp. Xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội và Đại học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh thành các trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật. Xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn về đạo tạo cán bộ tư pháp. Bồi dưỡng cán bộ tư pháp theo hướng cập nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn, có phẩm chất, đạo đức trong sạch, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Về đào tạo, bồi dưỡng theo yêu cầu của hội nhập quốc tế sâu rộng. Nghị quyết 49 chủ trương: Đào tạo đủ số lượng cán bộ tư pháp có trình độ nghiệp vụ và ngoại ngữ chuyên sâu về lĩnh vực tư pháp quốc tế nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, công dân Việt Nam, đáp ứng yêu càu hội nhập quốc tế và khu vực - Vê đổi mới công tác tuyển chọn, bổ nhiệm. Có cơ chế thu hút, tuyển chọn những người có tâm huyết, đủ đức, tài vào làm việc ở các cơ quan tư pháp. Mở rộng nguồn để bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp, không chỉ là cán bộ trong các cơ quan tư pháp, mà còn là các luật gia, luật sư. Nghiên cứu thực hiện cơ chế thi tuyển để chọn người bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp. Tăng thời hạn bổ nhiệm chức danh tư pháp hoặc thực hiện chế độ bổ nhiệm không có kỳ hạn - Vê đổi mới chính sách đối với đội ngũ cán bộ tư pháp. Có chế độ, chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp với lao động của cán bộ tư pháp. Tăng cường kiểm tra, thanh tra và có cơ chế thanh tra, kiểm tra từ bên ngoài đối với hoạt động của các chức danh tư pháp 3.1.2.2. Chủ trương đẩy mạnh xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp theo Chiến lược cải cách tư pháp toàn diện. 17 - Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI tiếp tục chủ trương và đẩy mạnh xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp theo tinh thần cải cách tư pháp của Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị, đó là xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người; cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ; lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm; thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra; xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp và tư pháp; nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) nhằm tạo cơ sở và điều kiện cho sự nghiệp cải cách tư pháp. 3.2. QUÁ TRÌNH CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TƯ PHÁP (2005-2011) 3.2.1. Chỉ đạo đổi mới đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bô Ô tư pháp - Thành lập Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp các cấp - Chỉ đạo thực hiện đổi mới công tác đào tạo luật - Chỉ đạo thực hiện đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ - Chỉ đạo thực hiện đào tạo, bồi dưỡng theo yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng và kết quả. - Chỉ đạo thực hiện công tác tập huấn cập nhật các văn bản pháp luật; đào tạo bồi dưỡng lý luận chính trị, ngoại ngữ tin học cho đội ngũ cán bộ tư pháp. 3.2.2. Chỉ đạo đổi mới tuyển chọn, bổ nhiê Ôm và thực hiện chính sách đối với đội ngũ cán bô Ô tư pháp - Chỉ đạo đổi mới công tác tuyển chọn, bổ nhiệm đội ngũ thẩm phán - Chỉ đạo đổi mới tuyển chọn, bổ nhiệm đội ngũ kiểm sát viên - Chỉ đạo thực hiện đổi mới chính sách đối với đội ngũ cán bộ tư pháp. 18 Tiểu kết chương 3 Trong những năm 2005-2011, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp đứng trước những nhân tố thuận lợi và khó khăn, Đảng đã xây dựng và phát triển hệ thống các quan điểm, chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. Những kết quả như kiện toàn, xây dựng các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng theo hướng trọng điểm, trung tâm lớn; nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng đổi mới theo hướng tăng cường năng lực nhận thức cũng như kỹ năng nghề nghiệp trong xử lý các tình huống pháp lý; công tác tuyển chọn, bổ nhiệm được cải tiến một bước; xây dựng được đề án về cải tiến chính sách tiền lương và chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ tư pháp. Tuy nhiên cũng còn có một số hạn chế như chậm cụ thể hoá và chậm triển khai một số chủ trương về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp như chủ trương mở rộng nguồn để tuyển chọn, bổ nhiệm; chủ trương về thực hiện cơ chế thi tuyển đối với đội ngũ cán bộ tư pháp; còn chưa thống nhất trong thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư pháp cả về tổ chức và chương trình.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan