Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đảng cộng sản việt nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ từ năm 2001 đến năm 2011...

Tài liệu đảng cộng sản việt nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ từ năm 2001 đến năm 2011

.PDF
177
103
101

Mô tả:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN VĂN KHOA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TƯ PHÁP TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2011 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ CHUYÊN NGÀNH: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số: 62 22 03 15 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. ĐOÀN MINH HUẤN 2. PGS.TS. TRẦN TRỌNG THƠ HÀ NỘI – 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, chính xác, đảm bảo khách quan, khoa học, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Hà Nội, ngày tháng năm 2017 Tác giả luận án Nguyễn Văn Khoa MỤC LỤC Trang 1 MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1.1. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến luận án 1.2. Đánh giá kết quả các công trình đã được công bố và những vấn đề luận án tập trung làm rõ 6 6 23 Chương 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TƯ PHÁP TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005 2.1. Yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp (2001- 2005) 2.2. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp (2001 - 2005) 26 26 41 Chương 3: ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TƯ PHÁP TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2011 Những nhân tố tác động và chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp (2005 - 2011) 3.2 Quá trình chỉ đạo của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp (2005 - 2011) 64 3.1. Chương 4: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 4.1. Nhận xét quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ năm 2001 đến năm 2011 4.2. Một số kinh nghiệm KẾT LUẬN DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 64 75 99 99 124 147 151 152 171 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bất kỳ hình thức tổ chức bộ máy nhà nước nào, dù theo chế độ phân quyền hay tập quyền, thì tư pháp vẫn được coi là một bộ phận cấu thành quyền lực công, thể hiện quyền uy của Nhà nước đối với xã hội cũng như năng lực bảo vệ công lý. V.I.Lênin đã từng khẳng định: Một nền tư pháp tồi, xã hội sẽ phải trả một giá đắt. Luận điểm này cho thấy, công tác tư pháp luôn giữ vai trò quan trọng trong các phương diện hoạt động của Nhà nước. Trong Thư gửi Hội nghị Tư pháp toàn quốc lần thứ IV vào tháng 2 năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: “Tư pháp là một cơ quan trọng yếu của chính quyền góp phần mình thực hiện chế độ pháp trị, giữ vững và bảo vệ quyền lợi của nhân dân, bảo vệ chế độ dân chủ của ta. Đồng thời, ngăn ngừa, trừng trị những kẻ âm mưu, phá hoại chế độ, phá hoại lợi ích của nhân dân” [8, tr.10]. Công tác tư pháp trong tiến trình cách mạng Việt Nam đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Bước vào công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, công tác tư pháp càng được coi trọng, nó phản ánh tính dân chủ và pháp quyền, là công cụ xây dựng một thể chế chính trị trong sạch, vững mạnh, dân chủ, bảo vệ công lý và các quyền con người trong thế giới văn minh. Tuy nhiên chất lượng công tác tư pháp chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, còn án oan, án sai, vi phạm các quyền con người, quyền công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và nền pháp trị. Những thành tựu cũng như những hạn chế trong lĩnh vực tư pháp đều lên quan đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến công tác cán bộ, trong đó chú trọng đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch vững mạnh. Đội ngũ cán bộ tư pháp đã có bước phát triển mới về chất lượng và số lượng, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới, song vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của đời sống xã hội. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị 2 Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) về “Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020”, nhận định: “Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí một số cán bộ sa sút về phẩm chất đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp” [50, tr.1]. Bên cạnh đó, khả năng sử dụng ngoại ngữ, tin học vào nghiên cứu luật pháp quốc tế phục vụ cho hoạt động xét xử của đội ngũ cán bộ tư pháp cũng còn hạn chế.Từ đó dẫn tới tình trạng oan, sai trong điều tra, truy tố, xét xử, xâm phạm và làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, nhiều vấn đề liên quan đến xét xử các vụ án có yếu tố nước ngoài, sỡ hữu trí tuệ, thương mại quốc tế, các loại tội phạm hình sự xuyên quốc gia còn bất cập, khả năng sử dụng ngoại ngữ, tin học vào nghiên cứu luật pháp quốc tế phục vụ cho hoạt động xét xử đối với đội ngũ cán bộ tư pháp còn hạn chế. Đó là chưa kể yêu cầu xây dựng đạo đức nghề nghiệp tư pháp cũng rất đặc thù, ảnh hưởng rất lớn đến uy tín, đạo đức của Đảng cầm quyền. Thực tế cho thấy, nếu như tham nhũng trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp gây nhức nhối trong xã hội thì tham nhũng trong lĩnh vực tư pháp thường bị đánh giá thiếu đạo đức hơn nhiều lần, do nó làm thay đổi cán cân công lý, đụng chạm đến những quyền tư pháp của con người. Nghiên cứu nội dung Đảng lãnh đạo công tác tư pháp, trong đó có lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp làm sâu sắc thêm vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với công cuộc đổi mới nói chung cũng như trong lĩnh vực tư pháp, trong xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp phục vụ công cuộc đổi mới. Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu, việc xây dựng được một đội ngũ cán bộ tư pháp có trình độ, có năng lực toàn diện và phẩm chất tốt để giải quyết tốt những yêu cầu xét xử do công cuộc cải cách tư pháp trong thời kỳ hội nhập quốc tế là một yêu cầu bức thiết. Đến nay, vẫn còn thiếu những nghiên cứu khoa học làm cơ sở cho những giải pháp thực sự rõ ràng, đồng bộ, hiệu quả để thực hiện cải cách tư pháp. Đặc biệt với cơ chế quản lý cán bộ theo các ngành hiện nay, bảo đảm đồng bộ hóa về chất lượng cán bộ tư pháp là điều rất khó thực hiện. Trong khi đó, nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp, trước hết và đột 3 phá phải bắt đầu từ nâng cao chất lượng cán bộ tư pháp. Muốn thực hiện đạt kết quả tốt nhất, rất cần phải nghiên cứu có hệ thống quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp để có một cách nhìn toàn diện về thành công, hạn chế, đúc kết những kinh nghiệm có thể vận dụng vào thực tiễn hiện nay. Với ý nghĩa đó, việc nghiên cứu Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp có ý nghĩa khoa học và thực tiễn quan trọng trong quá trình nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ năm 2001 đến năm 2011” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án Làm sáng rõ quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, đúc kết một số kinh nghiệm để vận dụng vào xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án - Làm rõ yêu cầu khách quan và những yếu tố tác động đến quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ năm 2001 đến năm 2011. - Phân tích, luận giải, làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp qua hai giai đoạn: 2001-2005 và 2005- 2011. - Đánh giá ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân từ quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp giai đoạn 2001-2011 - Đúc kết một số kinh nghiệm để vận dụng vào xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án Luận án tập trung nghiên cứu tiến trình, chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2011. 4 3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án - Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu quan điểm, chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về các mặt công tác đào tạo, bồi dưỡng; tuyển chọn, bổ nhiệm; chính sách đối với cán bộ tư pháp; kết quả và tác động của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ đối với nền tư pháp cũng như với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nội hàm cán bộ tư pháp bao gồm nhiều đối tượng, luận án tiếp cận đối tượng cán bộ tư pháp là thẩm phán trong cơ quan Toà án và kiểm sát viên trong cơ quan Viện kiểm sát. - Về thời gian: Nghiên cứu quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ năm 2001 đến năm 2011. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện luận án, nghiên cứu sinh sử dụng một số tư liệu liên quan trước năm 2001 và sau năm 2011. - Về không gian: Nghiên cứu trong phạm vi cả nước, song, tập trung khảo sát một số cơ quan đơn vị liên quan trực tiếp đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp ở Trung ương và một số địa phương. 4. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng về tư pháp gắn với xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về cán bộ và công tác cán bộ. 4.2. Nguồn tư liệu nghiên cứu - Luận án khai thác một số tác phẩm kinh điển của C.Mác và V.I. Lênin; đặc biệt các tác phẩm của Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước về tư pháp và cán bộ tư pháp. - Các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI của Đảng Cộng sản Việt Nam; các nghị quyết, kết luận của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương; các Nghị quyết, Chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác tư pháp và cải cách tư pháp; một số bộ luật, luật, pháp lệnh, chỉ thị của Nhà nước và Chính phủ về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. 5 - Các kế hoạch, chương trình hành động; các đề án cụ thể; báo cáo tổng kết của các cơ quan tư pháp như Toà án nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và của Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương, những tổng kết của các cơ sở đào tạo cán bộ tư pháp. - Các sách tham khảo, chuyên khảo, luận án, luận văn, hội thảo, kỷ yếu, đề tài khoa học, các bài báo trên các tạp chí nghiên cứu đã công bố liên quan đến xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp là nguồn tư liệu tham khảo có giá trị giúp việc hoàn thành các nội dung nghiên cứu của luận án. 4.3. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng chủ yếu phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc và kết hợp chặt chẽ hai phương pháp đó. Đồng thời còn sử dụng một số phương pháp phổ dụng khác như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh... nhằm sáng tỏ những vấn đề luận án đặt ra cần giải quyết. 5. Đóng góp mới của luận án - Hệ thống hoá chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, qua đó khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Định dạng một số đặc trưng trong tiến trình lãnh đạo của Đảng đối với xây dựng cán bộ tư pháp, một lĩnh vực phải giải quyết mâu thuẫn giữa bảo đảm tính lãnh đạo thống nhất của Đảng với tôn trọng nguyên tắc độc lập tương đối của lĩnh vực tư pháp. - Phân tích, đánh giá, rút ra được các nhận xét, kết luận về Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp; tổng kết một số kinh nghiệm có ý nghĩa cho vận dụng vào giai đoạn mới. 6. Bố cục của luận án Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, Nội dung của luận án gồm 4 chương 8 tiết. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN Do vị trí, tầm quan trọng của vấn đề, trong những năm qua, giới khoa học trong nước và ngoài nước đã nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, có thể phân chia thành các nhóm sau. 1.1.1. Nhóm nghiên cứu chung về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp - Các nghiên cứu về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp gắn với cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền. Cuốn “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp theo yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay” của Trần Đình Thắng [151] là công trình nghiên cứu công phu, toàn diện dưới góc độ luật học về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền. Bắt đầu từ trình bày khái niệm, định dạng đặc điểm, phân loại, nhiệm vụ, quyền hạn, khái lược những vấn đề lịch sử, phân tích thực trạng,... Công trình đã xác định những yêu cầu và đề xuất giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam Tác giả Đào Trí Úc trong cuốn “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [183] đã đề cập đến khái niệm tư pháp, nhiệm vụ, nguyên tắc cải cách tư pháp; đổi mới chế độ thẩm phán và đội ngũ thẩm phán; thực trạng đội ngũ thẩm phán toà án nhân dân địa phương. Cuốn “Góp phần tìm nghiên cứu Hiến pháp và Nhà nước pháp quyền” của Bùi Ngọc Sơn [121] trong trình bày những vấn đề chung về Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền, đã dành một phần bài về toà án trong nhà nước pháp quyền với tính độc lập trong xét xử trong hoạt động; vai trò độc lập toà án trong việc bảo đảm thực hiện các yêu cầu nhà nước pháp quyền; yêu cầu tăng trách nhiệm và nâng cao chất lượng, quan tâm đúng mức đời sống vật chất cho các thẩm phán. 7 Lê Cảm và Nguyễn Ngọc Chí trong cuốn:“Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền” [27] đã đề cập một số khía cạnh đáng quan tâm. Đây là công trình nghiên cứu về cải cách tư pháp từ sau khi có Nghị quyết 08 năm 2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp. Công trình đã phân tích, khái quát một số vấn đề chung trong cải cách tư pháp như mục tiêu, đối tượng, phương hướng và các giải pháp cơ bản thực hiện của cải cách tư pháp trong xây dựng nhà nước pháp quyền; đặc biệt đề cập đến lương tâm của người thẩm phán trong xét xử đảm bảo quyền con người trong cải cách tư pháp. Tác giả Nguyễn Đăng Dung trong cuốn “Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền” [30] đã đi sâu làm rõ vị trí, vai trò của thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp quyền; thể chế tư pháp ở một số quốc gia và đặc biệt làm rõ một số vấn đề thể chế tư pháp trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó nhấn mạnh đến các vấn đề như: quá trình hình thành và phát triển của hệ thống Toà án ở Việt Nam gắn liền với hoạt động của đội ngũ thẩm phán, nghiên cứu nhiệm kỳ của thẩm phán, vấn đề thay thế chế định bầu cử thẩm phán bằng bổ nhiệm theo Hiến pháp 1992, vấn đề tuyển chọn thẩm phán, vấn đề trách nhiệm, nâng cao chất lượng, biện pháp ổn định công tác cho đội ngũ thẩm phán. Tác giả Phạm Quý Tỵ với bài “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân” [147] đã khái quát mô hình toà án được tổ chức theo thẩm quyền xét xử; đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử; phân định rõ ràng thẩm quyền quản lý và thẩm quyền tố tụng trong các cơ quan toà án; đặc biệt đề cập đến đổi mới trình tự thủ tục bổ nhiệm thẩm phán theo hướng thẩm phán được bổ nhiệm dài hạn, không theo nhiệm kỳ; Nhà nước cần phải đảm bảo về cơ sở vật chất, điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ cho thẩm phán, tạo điều kiện để thẩm phán độc lập khi xét xử. Tác giả Trương Hoà Bình với bài “Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” [6] đã khái quát thực trạng, những bất cập, hạn chế của đội ngũ cán bộ tư pháp 8 trong cơ quan Toà án nhân dân như số lượng, chất lượng, cơ cấu, biên chế. Đặc biệt công trình đã đưa ra những định hướng lớn trong đổi mới hệ thống toà án theo tinh thần Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc đơn vị hành chính; làm rõ nguyên tắc tổ chức, hoạt động và biên chế đội ngũ cán bộ của toà án sơ thẩm khu vực, Toà án phúc thẩm, Toà án thượng thẩm, Toà án tối cao, qua đó cũng kiến nghị về xây dựng đội ngũ cán bộ cho phù hợp với từng loại toà án. Nhóm công trình tiếp cận từ góc độ chính trị học hoặc luật học, bàn sâu sắc các khía cạnh kỹ thuật tư pháp với những yêu cầu đặt ra cho đội ngũ cán bộ tư pháp cả về phẩm chất và năng lực. Xây dựng cán bộ tư pháp trong các nghiên cứu này gắn chặt với yêu cầu cải cách tư pháp theo đường lối, chủ trương của Đảng. Tất nhiên, hạn chế của những nghiên cứu này là chưa cho thấy rõ tiến trình lịch sử, vai trò lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực tư pháp, cơ sở lý thuyết của các đề xuất này, thậm chí nhiều nghiên cứu chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi lý thuyết cấu trúc quyền lực tư pháp trong các mô hình dân chủ phương Tây. Có nghiên cứu lại bị ảnh hưởng nhiều cách tiếp cận của các lý thuyết về nhà nước Xô-viết trước đây, sâu xa là nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa, nên lĩnh vực tư pháp nói chung và công chức tư pháp đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng một cách xơ cứng. - Các nghiên cứu về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư pháp. Tác giả Đào Xuân Tiến với bài viết “Đào tạo thẩm phán” [145] đã khái quát năng lực, trình độ chuyên môn của các thẩm phán. Tác giả nêu lên thực trạng công tác đào tạo thẩm phán trước năm 2002 còn chồng chéo, nhiều cơ sở đào tạo do nhiều cơ quan quản lý khác nhau; đưa ra hướng đổi mới như xây dựng chương trình, đào tạo lại đội ngũ thẩm phán về chuyên môn nghiệp vụ và bổ sung những kiến thức ngoại ngữ, tin học; kiến thức về sở hữu trí tuệ; tập trung các cơ sở đào tạo thành một mối. Bài viết “Về vấn đề đào tạo nguồn để bổ nhiệm các chức danh tư pháp ở Việt Nam” của tác giả Phạm Mạnh Hùng [92] đã phân tích tính đặc thù của đào 9 tạo nguồn để bổ nhiệm đối với các chức danh tư pháp như thẩm phán, kiểm sát viên; có so sánh với công tác đào tạo của một số nước; đặt ra yêu cầu chuyên môn hoá của các ngành như đào tạo thẩm phán cần giao cho ngành toà án đảm nhiệm và kiểm sát viên do ngành kiểm sát thực hiện. Tác giả Nguyễn Hữu Hậu với bài viết “Một số suy nghĩ về định hướng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm sát trước yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế” [75] đã nêu lên những khó khăn, vướng mắc khi thực hiện đào tạo bồi dưỡng cán bộ kiểm sát viên như sự chồng chéo giữa Học viện tư pháp với Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát (nay là Đại học Kiểm sát); tình hình nhận thức chưa đúng mức về công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát là “đào tạo nghề”-một loại hình đào tạo đặc thù ngành kiểm sát; chưa có Hội đồng thẩm định chương trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát chính thống theo chuẩn quốc gia. Từ đó, tác giả đề xuất một số định hướng về công tác đào tạo, bồi dưỡng; về xây dựng chương trình, hoàn chỉnh giáo trình cho từng loại hình; về đối tượng cần đào tạo, bồi dưỡng; về củng cố phát triển đội ngũ giảng dạy; về cải tạo, nâng cấp cơ sở, vật chất phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của tác giả Phan Chí Hiếu “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp đến năm 2020” [17] đã nêu lên cơ sở lý luận xây dựng Chiến lược đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp đến năm 2020. Trên cơ sở đó, đề tài khái quát thực trạng đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp và hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có chức danh tư pháp, đặc biệt nhấn mạnh đến đội ngũ thẩm phán và kiểm sát viên như đội ngũ thẩm phán còn thiếu về số lượng; cơ cấu đội ngũ thẩm phán chưa đảm bảo; chất lượng đội ngũ thẩm phán còn hạn chế về trình độ chuyên môn, trình độ chính trị, trình độ ngoại ngữ tin học; đạo đức thẩm phán. Đề tài khái quát thực trạng chất lượng công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp; công tác đào tạo kiểm sát viên cũng có những bất cập như thay đổi về tên gọi, chức năng nhiệm vụ của cơ sở đào tạo; còn chồng chéo trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng. Từ đó, đề tài đưa ra những giải pháp nhằm xây dựng, trình 10 phê duyệt và tổ chức thực thi Chiến lược đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp đến năm 2020, trong đó đội ngũ thẩm phán và kiểm sát viên là một bộ phận. Ngoài ra còn có một số đề tài khoa học cấp cơ sở nghiên cứu về đào tạo đội ngũ cán bộ tư pháp do Học viện Tư pháp tiến hành, với nhiều chủ đề khác nhau như: “Những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn thẩm phán”[80]; “Xây dựng chương trình đào tạo kiểm sát viên-Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” [81]; “Đào tạo các chức danh tư pháp phục vụ công cuộc cải cách tư pháp” [83]. Ngoài ra, ngành Toà án, Kiểm sát, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của ngành, cũng đã triển khai nghiên cứu các đề tài khoa học về đội ngũ cán bộ của ngành như: “Đào tạo thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao” do Toà án nhân dân tối cao thực hiện [127]. Nội dung của các đề tài này, dưới nhiều góc độ, cách tiếp cận khác nhau, trên mức độ ít nhiều có đề cập đến việc thực hiện chủ trương của Đảng về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của từng ngành và chủ yếu đi sâu khái quát thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ tư pháp nói chung và đổi mới nội dung chương trình, phương pháp đào tạo pháp luật và kỹ năng nghề nghiệp cho cán bộ chức danh tư pháp. Song, do quy mô và tính chất là đề tài cấp cơ sở, hoặc do phạm vi nghiên cứu riêng của từng ngành, nên các đề tài không thể triển khai một cách toàn diện và sâu sắc. - Các nghiên cứu về sử dụng, tuyển chọn-bổ nhiệm đội ngũ cán bộ tư pháp. Năm 2003, Trường Đại học Luật Hà Nội triển khai nghiên cứu đề tài khoa học cấp bộ: “Điều tra cơ bản đánh giá thực trạng đào tạo, sử dụng cán bộ pháp lý đối với sự phát triển của đất nước thế kỷ XX” [163]. Đề tài tập trung điều tra việc sử dụng cử nhân luật sau khi tốt nghiệp đại học, trong đó ngành luật là một lĩnh vực lớn. Đề tài tập trung khảo sát, đánh giá tình hình sử dụng cán bộ pháp lý sau khi tốt nghiệp đại học, không nghiên cứu chuyên sâu sự lãnh đạo của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. Tác giả Nguyễn Văn Huyên trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Xây dựng cơ chế thi tuyển tư pháp quốc gia đáp ứng yêu cầu cải cách Tư pháp” [18] đã làm rõ cơ chế thi tuyển tư pháp quốc gia, lợi thế cũng như vai trò của thi 11 tuyển tư pháp quốc gia trong mối quan hệ với các yêu cầu mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra trong bối cảnh cải cách tư pháp và đổi mới giáo dục đại học hiện nay; tìm hiểu kinh nghiệm nước ngoài về thi tuyển đào tạo các chức danh tư pháp, trên cơ sở tổng kết, đánh giá khả năng áp dụng vào mô hình tuyển sinh đào tạo cán bộ tư pháp ở Việt Nam; tổng kết một cách toàn diện về thực trạng công tác tuyển sinh để đào tạo các chức danh tư pháp tại Học viện Tư pháp từ trước đến nay. Tác giả làm rõ cơ sở thực tiễn và sự cần thiết phải xây dựng kỳ thi tuyển tư pháp quốc gia; xây dựng mô hình thi tuyển tư pháp quốc gia, trong đó xác định rõ đối tượng dự thi, nội dung thi tuyển, hình thức thi tuyển, Hội đồng thi tuyển tư pháp quốc gia; làm rõ các điều kiện đảm bảo cho việc thực thi mô hình thi tuyển này trên thực tế. Đề tài sử dụng phương pháp khảo sát thực tiễn như một công cụ nghiên cứu kết hợp với các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh kinh nghiệm. - Các nghiên cứu về giáo dục nâng cao phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ tư pháp. Tác giả Trương Thị Hoà với bài viết “Cải cách tư pháp và việc nâng cao đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn cho cán bộ cơ quan tư pháp” [78] đã nêu lên thực trạng của hoạt động tư pháp như pháp luật không rõ ràng, minh bạch tạo điều kiện cho tham nhũng; thực tiễn xét xử qua quá nhiều cấp, chưa tuân thủ đúng nguyên tắc hai cấp xét xử. Tác giả khẳng định: Nâng cao đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn của cán bộ tư pháp là bộ phận quan trọng trong nội dung cải cách tư pháp. Các biện pháp để nâng cao như cải tiến chương trình đào tạo gắn với giáo dục đạo đức nghề nghiệp; tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra; chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho đội ngũ cán bộ tư pháp. Tác giả Hoàng Văn Linh với bài viết “Một số suy nghĩ về đạo đức nghề nghiệp của thẩm phán trong cải cách tư pháp hiện nay”[96] đã đưa ra quan niệm về đạo đức người thẩm phán và nhấn mạnh đến việc xây dựng những phẩm chất đạo đức người thẩm phán như: Luôn đề cao ý thức bảo vệ pháp chế xã hội 12 chủ nghĩa, bảo vệ công lý và công bằng xã hội; tận tâm phục vụ nhân dân; phẩm chất về giao tiếp với công việc và đồng nghiệp; có lối sống lành mạnh, liêm chính, có ý thức tổ chức kỷ luật, thường xuyên bồi duỡng nhân cách. Công trình “Đạo đức Nghề luật”[87] là kết quả hợp tác giữa Học viện Tư pháp của Việt Nam với Dự án phát triển tư pháp và sự tham gia từ cơ sở (JUDGE), tư vấn biên soạn bởi GS.TREVOR C.W.FARROW và tài trợ bởi CIDA, đã khái quát đặc điểm của nghề luật nói chung, đặc điểm nghề của các đội ngũ cán bộ tư pháp như thẩm phán, kiểm sát viên. Các tác giả đã đưa ra kinh nghiệm của một số nước như Canađa, Trung Quốc, Liên bang Nga, Cộng hoà Liên bang Đức, Hoa Kỳ trong việc xây dựng quy tắc đạo đức và ứng xử trong thực tiễn truy tố, xét xử của đội ngũ cán bộ tư pháp. Nhóm nghiên cứu trên đây chủ yếu đi sâu vào những mặt công tác cụ thể của xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp như đào tạo, bồi dưỡng; tuyển chọn-bổ nhiệm; khái quát thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp; đưa ra các yêu cầu, tiêu chí cũng như giải pháp thực hiện để xây dựng và hình thành các phẩm chất quan trọng của người cán bộ tư pháp; kinh nghiệm nước ngoài về xây dựng bộ quy tắc ứng xử đạo đức nghề nghiệp đối với đội ngũ cán bộ tư pháp. Một số lý thuyết nhân học xã hội, lý thuyết hành vi, lý thuyết lựa chọn công, lý thuyết đạo đức nhóm,... được tác giả nhóm nghiên cứu này sử dụng trong nghiên cứu. Hạn chế của nhóm này là chưa dựa vào dữ liệu lịch sử để làm rõ các luận cứ, nhận xét; ít đề cập đến mối quan hệ chính trị với tư pháp nói chung và mối quan hệ giữa đường lối chính trị, tác động chính trị đối với nhân viên tư pháp trên các khâu tư tưởng chính trị, đạo đức nghề nghiệp, đào tạo.... Nhóm nghiên cứu này có thể kế thừa một số nhận định, kết luận và rất có ý nghĩa khi xem xét thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trên các chiều cạnh khác nhau từ tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng đến sử dụng công chức tư pháp. 13 1.1.2. Nhóm nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp. - Nhóm nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh với ý nghĩa cơ sở phương pháp luận trong hoạch định chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. Vũ Đình Hòe, một người tốt nghiệp đại học luật ở Pháp, tham gia Đảng Dân chủ Việt Nam, là Bộ trưởng Tư pháp trong Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong cuốn hồi ký “Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh”[79] đã trình bày suy nghĩ của ông đối về tư tưởng hiến chính và pháp quyền của Hồ Chí Minh. Ông cho rằng, Hồ Chí Minh có một tư duy pháp lý nhạy bén tuyệt vời, gần như thiên bẩm, hiểu thấu và thi hành một cách sáng tạo lý luận và thực tiễn chế độ Nhà nước-pháp quyền của thời đại và thế giới văn minh. Tư tưởng của Người đã dẫn dắt Vũ Đình Hòe trên cương vị Bộ trưởng Tư pháp cũng như cải hóa một thế hệ “cán bộ pháp lý khả thủ, dần dần biết suy nghĩ và hành động đúng đắn”[81, tr.6], đặc biệt là tư tưởng về một nền pháp quyền nhân nghĩa, một nền tư pháp “phụng công thủ pháp”, “nhân ái, công bình, độ lượng có sức thuyết phục, cảm hóa cao”[81, tr.212]. Tác giả Bùi Ngọc Sơn với bài viết “Tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức toà án và ý nghĩa hiện nay”[121] đã trình bày nguyên tắc, tiêu chuẩn, thẩm quyền bổ nhiệm thẩm phán theo tư tưởng Hồ Chí Minh như thẩm phán do Chính phủ bổ nhiệm; thẩm phán phải có cử nhân luật, phải trải qua một kỳ thi để đảm bảo trình độ nghiệp của thẩm phán và khi đã được bổ nhiệm phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, phụng công thủ pháp, chí công vô tư. Ở đây đã kết hợp giữa nghiên cứu tư tưởng với sự chuyển hóa của tư tưởng trong thực tế đời sống. Tác giả Phạm Quốc Anh trong bài viết “Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về hoạt động tư pháp”[1] đã khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng, kim chỉ nam cho hoạt động tư pháp và thực hiện cải cách tư pháp. Tác giả nhấn mạnh Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương châm hoạt động khoa học và thái độ đúng đắn, khách quan, cầu thị đối với công việc đối với cán 14 bộ các cơ quan tư pháp. Ngoài ra tác giả khái quát đường lối, quan điểm của Đảng về công tác tư pháp. Bài viết “Nghiên cứu, học tập Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền tư pháp cách mạng” của Khuất Văn Nga [107] đã nhấn mạnh cần quán triệt ba ý tưởng lớn của Hồ Chí Minh là một nền tư pháp vì dân; một nền tư pháp “xử án cho giỏi thì tốt nhưng làm thế nào không có kiện xử thì tốt hơn”; một nền tư pháp đối với đội ngũ cán bộ: “Phụng công thủ pháp, chí công vô tư”. Tác giả khẳng định ba ý tưởng trên của Hồ Chí Minh về tư pháp đang là trụ cột cho sự nghiệp cải cách tư pháp nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp nói riêng. Nhóm nghiên cứu này đã cho thấy vai trò thiết kế tư tưởng của Hồ Chí Minh đối với nền tư pháp Việt Nam, một nền tư pháp độc lập, gần dân, hướng tới và bảo đảm quyền và lợi ích cho nhân dân và đề ra các yêu cầu, tiêu chí xây dựng đội ngũ cán bộ bộ tư pháp; các phẩm chất mà đội ngũ cán bộ tư pháp phải có như “Phụng công thủ pháp, chí công vô tư”. Chúng có ý nghĩa làm cơ sở phương pháp luận, định hướng cho nghiên cứu về Đảng lãnh đạo lĩnh vực tư pháp nói chung và đội ngũ cán bộ tư pháp nói riêng. Tuy nhiên, điểm yếu của các nghiên cứu này là chưa chỉ ra được “độ vênh” giữa tư tưởng và đời sống hiện thức, độ gián đoạn trong thực tiễn xây dựng nền tư pháp Việt Nam sau khi Hồ Chí Minh qua đời, đặc biệt là từ khi xây dựng Hiến pháp năm 1980, áp dụng mô hình tư pháp Xô-viết vào đất nước ta với nhiều thiết kế chính trị xa dần Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959-những bản hiến pháp mang đậm dấu ấn tư tưởng Hồ Chí Minh. - Nhóm nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp Tác giả Nguyễn Văn Thảo với cuốn “Xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng”[150] ngoài việc trình bày về xây dựng nhà nước pháp quyền, đã nhấn mạnh cần phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Toà án theo hướng tạo điều kiện cho nền tư pháp hoạt động liên tục và xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, bảo đảm và thực hiện công bằng xã hội, thể hiện nền công lý xã hội chủ nghĩa và Đảng thông qua các cơ chế của Nhà nước 15 để cử ra đội ngũ thẩm phán được đào tạo có hệ thống, thành thạo nghề nghiệp, làm việc liên tục và ổn định, đủ tầm vóc đại diện cho quyền lực nhà nước xét xử tội phạm và giải quyết các tranh chấp trong xã hội. Tác giả Trần Đại Hưng với bài viết “Hoàn thiện nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp” [91] đã đưa ra những cơ sở khách quan sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp; khái quát những thành tựu, hạn chế yếu kém, đề xuất một số vấn đề về hoàn thiện nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp nói chung và đội ngũ cán bộ tư pháp nói riêng. Tác giả Nguyễn Văn Quyền, trong bài viết “Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” [119] đã khái quát sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp thông qua lãnh đạo về chính trị- tư tưởng, định hướng công tác; nhấn mạnh đến lãnh đạo tổ chức cán bộ trong các cơ quan tư pháp; đúc kết một số bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp nói riêng. Cuốn “Thể chế Đảng cầm quyền một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Đặng Đình Tân [123] đã khái quát thể chế Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp từ năm 1986 đến nay. Cụ thể là nêu lên các nguyên tắc thể chế Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp, trong đó nhấn mạnh đến các vấn đề: các cơ quan, tổ chức Đảng lãnh đạo cơ quan tư pháp; đường lối, chính sách hình sự về xét xử tội phạm, chính sách giải quyết tranh chấp trong nội bộ nhân dân về dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, hành chính; bộ máy và phương thức hoạt động của Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các tổ chức khác tham gia hoạt động xét xử. Ngoài ra, công trình đề cập đến hiệu lực các thể chế Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp, trong đó nói rõ về cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan Toà án,Viện kiểm sát và đối với các loại vụ án. Cuốn “Sự lãnh đạo của Đảng đối với ngành Kiểm sát nhân dân”, (lưu hành nội bộ) của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao [178] đã hệ thống hoá các quan 16 điểm, chủ trương, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với ngành Kiểm sát nhân dân từ năm 1960 đến nay thể hiện qua các đại hội toàn quốc của Đảng, hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương, nghị quyết, chỉ thị của Bộ Chính trị, các thông báo, thông tri, chỉ thị của Ban Bí thư. Công trình là sự tập hợp các văn kiện của Đảng, thuận lợi cho việc tra cứu, nghiên cứu và giảng dạy về sự lãnh đạo của Đảng đối với ngành kiểm sát nhân dân. Nguyễn Văn Hiện với bài viết “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác toà án hiện nay”[77] đã khái quát thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác toà án, nhất là sự lãnh đạo của Đảng nhằm bảo đảm tính độc lập trong xét xử của toà án. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ-Hội đồng khoa học các Ban Đảng của tác giả Trịnh Xuân Toản “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với công tác tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”[126] đề cập nhiều vấn đề mối quan hệ giữa lãnh đạo Đảng với đổi mới công tác tư pháp. Trên cơ sở phân tích và hệ thống hoá những quan điểm về nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung và nội dung, phương thức lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với công tác tư pháp và cải cách tư pháp được thể hiện trong các văn kiện của Đảng; tổng hợp, đánh giá thực tiễn quá trình đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng nói chung và của Bộ Chính trị, Ban Bí thư nói riêng đối với công tác tư pháp và cải cách tư pháp, trọng tâm là từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996) đến nay, đề tài xác định rõ: những thành tựu, những mặt hạn chế, vướng mắc và bài học kinh nghiệm; Phân tích những yêu cầu khách quan của việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng nói chung, Bộ Chính trị, Ban Bí thư nói riêng đối với công tác tư pháp và cải cách tư pháp. Mục tiêu, quan điểm và phương hướng, giải pháp đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, Bộ Chính trị đối với công tác tư pháp và cải cách tư pháp được đề xuất ở đây đã bám sát thực tế. Ngoài ra, tác giả còn có kiến nghị cụ thể về việc hoàn thiện phương thức 17 lãnh đạo và tăng cường sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với công tác tư pháp và cải cách tư pháp. Tác giả người Thái Lan (Quốc tịch Mỹ) Thaveeporn Vassavakul có công trình “Sectoral Politics and Strategies for State and Party Building from the VII to the VIII Congresses of the Vietnamese Communist Party (1991-1996), in “Doi Moi: Ten Years after the 1986 Party Congress” (“Lĩnh vực chính trị và chiến lược xây dựng đảng và Nhà nước từ Đại hội VII đến Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (1991-1996), trong: “Đổi mới: Mười năm sau Đại hội VI”)”[146]. Công trình đã trình bày tiến trình đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam khởi đầu từ Đại hội VI với những quyết định trọng đại bắt đầu từ đổi mới tư duy, rồi kế đến đổi mới các lĩnh vực khác. Các đợt tiến hành xây dựng, chỉnh đốn đảng đã đưa lại nhiều kết quả quan trọng để cấu trúc lại bộ máy lãnh đạo ở cả cấp trung ương và địa phương, tăng quyền cho địa phương, mở rộng sự tham gia của cán bộ trẻ trong bộ máy lãnh đạo, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với tất cả các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tác giả cho rằng hiện tượng Đảng làm thay Nhà nước đã khắc phục được phần nào sau 10 năm tiến hành đổi mới (1986 -1996). Ưu điểm nổi bật của nhóm nghiên cứu trên đây là trình bày được các quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ nguyên tắc, tiêu chí bổ nhiệm, đặc biệt các phẩm chất của cán bộ tư pháp như “Phụng công thủ pháp, chí công vô tư”-một phẩm chất quan trọng đối với đội ngũ cán bộ tư pháp hiện nay. Ngoài ra, các công trình khái quát được cơ sở khách quan của việc Đảng lãnh đạo đối với lĩnh vực tư pháp; nội dung, phương thức và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực tư pháp về chính trị tư tưởng, tổ chức cán bộ, định hướng công tác, nhất là định hướng đường lối xét xử; mối quan hệ giữa nguyên tắc Đảng lãnh đạo với tính độc lập của tư pháp; hệ thống các các văn kiện của Đảng về sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp như Viện Kiểm sát. Do vậy, những nghiên cứu này cung cấp một số cách tiếp cận,
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan