ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
LÊ ĐÌNH LUNG
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO CẢI
CÁCH NỀN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC TỪ NĂM
1996 ĐẾN NĂM 2006
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS:NGUYỄN VĂN DU
HÀ NỘI - 2007
MỤC LỤC
Mở đầu ........................................................................................................................... 3
Chương 1. Đảng lãnh đạo cải cách nền hành chính Nhà nước từ 1996 đến 2001 . 11
1.1. Cải cách nền hành chính nhà nước là yêu cầu khách quan trong sự nghiệp công
hoá, hiện đại hoá đất nước. ................................................................................ 11
1.1.1. Nền hành chính Nhà nước ta trong những năm đầu công cuộc đổi mới
(1986 - 1996) ................................................................................................. 11
1.1.2. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước và nhu cầu cải cách
nền hành chính nhà nước của Đảng ............................................................. 22
1.2. Chủ trương của Đảng về cải cách nền hành chính nhà nước trong những năm
đầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa (1996-2001) .................. 29
1.2.1. Đại hội VIII của Đảng với vấn đề cải cách nền hành chính nhà nước................... 29
1.2.2. Cụ thể hoá quan điểm Đại hội VIII về cải cách nền hành chính nhà nước ... 38
Chương 2: Đảng lãnh đạo cải cách nền hành chính nhà nước 2001 đến 2006 ...... 52
2.1. Bối cảnh của đất nước trong những năm đầu của thế kỷ XXI và yêu cầu tiếp
tục cải cách nền hành chính nhà nước ............................................................... 52
2.1.1. Những nhân tố huận lợi trong cải cách nền hành chính nhà nước những
năm đầu thế kỷ XXI ...................................................................................... 52
2.1.2. Khó khăn, thách thức ..................................................................................... 56
2.2. Chủ trương của Đảng về cải cách nền hành chính Nhà nước giai đoạn 2001 2006 ................................................................................................................... 61
2.2.1. Đại hội IX của Đảng (4/2001) với nền vấn đề cải cách nền hành chính
Nhà nước ....................................................................................................... 61
2.2.2. Đảng chỉ đạo thực hiện các quan điểm cải cách nền hành chính nhà nước ... 74
Chương 3: ý nghĩa và kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng đối với công cuộc
cải cách nền hành chính nhà nước từ năm 1996 đến 2006........................... 96
3.1. Ý nghĩa, thành tựu và hạn chế ................................................................................ 96
3.1.1. Ý nghĩa, thành tựu .......................................................................................... 96
133
3.1.2. Hạn chế......................................................................................................... 102
3.2. Một số kinh nghiệm chủ yếu của Đảng trong lãnh đạo cải cách nền hành chính
nhà nước từ năm 1996 đến 2006...................................................................... 117
3.2.1. Thường xuyên coi trọng nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để cung cấp
luận cứ khoa học cho công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước .............. 117
3.2.2. Chú trọng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nền hành
chính Nhà nước ........................................................................................... 120
3.2.3. Kết hợp giữa tăng cường sự quản lý thống nhất của Trung ương gắn với
phân cấp cho địa phương, cơ sở - những yêu cầu cơ bản trong lãnh đạo
cải cách nền hành chính nhà nước............................................................... 124
3.2.4. Phát huy dân chủ, tôn trọng lợi ích của nhân dân - vấn đề bản chất của cải
cách nền hành chính nhà nước .................................................................... 126
3.2.5. Kiến nghị các giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính Nhà nước. .............. 129
Kết luận ...................................................................................................................... 136
Danh mục tài liệu tham khảo ................................................................................... 139
Phụ lục ........................................................................................................................ 146
133
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cải cách hành chính ở Việt Nam là công việc mới mẻ, diễn ra trong điều
kiện thiếu kiến thức và kinh nghiệm về quản lý hành chính Nhà nước trong thời
kỳ đổi mới, có nhiều vấn đề vừa phải làm vừa tìm tòi rút kinh nghiệm, các quy
định về thủ tục hành chính hiện nay còn thiếu tính đồng bộ phức tạp, chồng
chéo, bị đùn đẩy trách nhiệm, làm giảm hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành
chính Nhà nước. Vì vậy việc hình thành quan niệm về những nguyên tắc cơ bản
chỉ đạo công cuộc cải cách hành chính cũng như việc đề ra những nội dung,
phương hướng, chủ trương, giải pháp thực hiện trong từng giai đoạn là một quá
trình tìm tòi, sáng tạo không ngừng, là một quá trình nhận thức liên tục, thống
nhất trong tiến trình đổi mới được khởi đầu từ Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng
sản Việt Nam năm 1986.
Từ xác định những nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế - xã
hội trầm trọng, Đại hội VI đã chỉ rõ nguyên nhân của mọi nguyên nhân là công
tác tổ chức và đề ra chủ trương thực hiện cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy
các cơ quan Nhà nước. Đến Đại hội VII, Đảng xác định tiếp tục cải cách bộ máy
hành chính Nhà nước và đề ra những nhiệm vụ về sửa đổi hiến pháp, cải tiến tổ
chức hoạt động của Quốc hội, sửa đổi cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động
của chính phủ, của chính quyền địa phương.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII tháng 4/1992 Quốc hội nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Hiến pháp mới thay thế Hiến pháp
1980. Sau Đại hội VII đến năm 1995 là giai đoạn phát triển tư duy quan niệm,
quan niệm nhận thức của Đảng về nền hành chính Nhà nước và về cải cách hành
chính. Hội nghị Trung ương 8 khoá VII (01/1995) đánh dấu một bước cải cách
nền hành chính Nhà nước. Lần đầu tiên 3 nội dung chủ yếu của cải cách hành
chính Nhà nước được trình bày một cách hệ thống trong Nghị quyết Trung ương
8 đó là cải cách thể chế của nền hành chính, chấn chỉnh tổ chức bộ máy và xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Có thể nói Nghị quyết 8 (khoá VII) có ý nghĩa
quan trọng thúc đẩy tiến trình cải cách hành chính của 20 năm đổi mới vừa qua.
Tiếp tục khẳng định cải cách nền hành chính, Nghị quyết Đại hội VII
nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với cơ chế mới, cải
tiến quy trình xây dựng và ban hành văn bản pháp luật của Chính phủ, đồng thời
133
tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và sắp xếp lại bộ máy hành chính
từ Trung ương đến địa phương. Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), Nghị quyết
Trung ương 7 (khoá VII) đã biểu lộ một quyết tâm chính trị rất lớn về việc tiếp
tục cải cách nền hành chính. Đến đại hội IX năm 2010 bên cạnh việc khẳng định
mục tiêu xây dựng nền hành chính Nhà nước trong sạch vững mạnh, từng bước
hiện đại hoá, Đảng ta còn đưa ra một loạt chủ trương, giải pháp có ý nghĩa quan
trọng trong cải cách hành chính thời gian tới như điều chỉnh chức năng và cải
tiến phương thức hoạt động của Chính phủ, nguyên tắc quản lý đa ngành, đa lĩnh
vực, phân công, phân cấp, tách cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự
nghiệp, dịch vụ công… tiếp tục cải cách thủ tục hành chính; xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức trong sạch có năng lực, thiết lập trật tự kỷ cương, chống quan
liêu, tham nhũng…
Trong bối cảnh đó, tổng kết đánh giá lại quá trình lãnh đạo cải cách nền
hành chính Nhà nước của Đảng trong những năm đổi mới trở thành một yêu cầu
khoa học có ý nghĩa thực tiễn cấp bách. Đồng thời, cải cách nền hành chính còn
liên quan trực tiếp đến yêu cầu mở rộn nền dân chủ xã hội. Bởi vì trong điều kiện
Đảng cầm quyền và duy trì nền chính trị nhất nguyên, mọi cải cách Nhà nước chỉ
được khởi động khi Đảng cầm quyền có sự đổi mới tư duy chính trị và tư duy đổi
mới đó phải được biến thành ý thức tự giác của mỗi tổ chức Đảng và Nhà nước
trong tiến trình đổi mới rất cần được tổng kết nhằm đúc rút kinh nghiệm hữu ích
phục vụ yêu cầu tiếp tục lãnh đạo cải cách nền hành chính Nhà nước thời gian tới.
Từ những lý do nêu trên, việc thực hiện đề tài: “Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo cải cách nền hành chính Nhà nước từ năm 1996 đến 2006” là cần thiết
xét trên cả phương diện khoa học lẫn phương diện thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Đề cập đến sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc cải cách nền hành
chính nhà nước trong những năm đổi mới có mấy nhóm nghiên cứu sau:
Một là: Những nghiên cứu của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước về
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, về đổi
mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Tiêu biểu trong số này là công
trình của Trường Chinh “Mấy vấn đề về Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam”, 1991 của Nguyễn Văn Linh: “Đổi mới để tiến lên”, 1988; của Đỗ
Mười: “Xây dựng nhà nước của nhân dân - Thành tựu, kinh nghiệm và đổi mới”,
1991… Các công trình nêu trên, trong một chừng mực nhất định có tổng kết quá
133
trình hình thành và phát triển của nền hành chính nhà nước Việt Nam mà mỗi
giai đoạn có những đặc trưng riêng. Từ tổng kết bước đầu các giai đoạn lịch sử
đã qua, các nghiên cứu này đã trình bày những quan điểm lớn định hướng cho
quá trình tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước ta nói chung và nền hành
chính nhà nước nói riêng. Tuy không nghiên cứu riêng về nền hành chính nhà
nước, nhưng những quan điểm cơ bản được trình bày trong các tác phẩm này rất
có giá trị, trở thành định hướng để mở rộng nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng đối
với từng cơ quan bộ máy nhà nước, mà ở đó nền hành chính bao giờ cũng chiếm
vị trị nổi bật.
Hai là: Nghiên cứu của các nhà lý luận và các nhà tổ chức thực tiễn về tổ
chức bộ máy nhà nước, về hoạt động của nhà nước, về nền hành chính nhà
nước,… Đáng chú ý trong số này là công trình của Trần Ngọc Đường: “Bộ máy
nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, 1998; của Lê Sĩ Dược: “Cải
cách bộ máy hành chính cấp Trung ương trong công cuộc đổi mới hiện nay ở
nước ta”, 2000 của đồng chí Thang Văn Phúc: “Cải cách hành chính nhà nước Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp”, 2001; của Nhiều tác giả: “Về nền hành
chính nhà nước ta hiện nay - Những kinh nghiệm xây dựng và phát triển”, 1996
của Nguyễn Duy Gia: “Cải cách một bước bộ máy nhà nước ở nước ta hiện
nay”, 1996,… Đây là nhóm công trình chiếm số lượng nhiều nhất, phần nào phác
họa được quá trình đổi mới nền hành chính nhà nước trong những năm qua, bao
gồm từ thể chế hành chính nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước, đội ngũ công
chức, chế độ công vụ… Tuy không đề cập trực tiếp đến Đảng lãnh đạo cải cách
nền hành chính nhà nước, nhưng những nghiên cứu này lại gián tiếp phản ánh sự
vận động của đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo ở ngay trong
quá trình vận hành của nền hành chính nhà nước. Có tác phẩm đã trình bày
những kết quả nhất định của xây dựng đội ngũ công chức, cải cách chế độ công
vụ, điều chỉnh tổ chức bộ máy,… và nhờ vậy có giá trị cung cấp một số tư liệu
khá quan trọng.
Ba là: Nghiên cứu của các nhà khoa học lịch sử về quá trình hình thành
của nền hành chính nhà nước, về sự lãnh đạo của Đảng đối với nền hành chính
nhà nước trong các thời kỳ đã qua. Đáng chú là nghiên cứu của Nguyễn Trọng
Phúc: “Về xây dựng và bảo vệ chính quyền nhân dân trong những năm 1975 1990”, 1991; của Cao Văn Lượng: “Nhìn lại quá trình xây dựng Nhà nước Việt
nam kiểu mới”, 2001, của Cao Văn Lượng: “Nhìn lại quá trình xây dựng nhà
133
nước Việt Nam kiểu mới”, 2000; của Nguyễn Trọng Phúc: “Vai trò của Đảng
Cộng Sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới”, 1999, của Đoàn Minh Huấn:
“Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng, củng cố Nhà nước từ 1986 đến
1996”, 2003, của Bộ Nội Vụ: “Lịch sử Bộ Nội vụ”, 2005,… Vì xuất phát từ góc
độ khoa học của lịch sử, nên những công trình loại này đã chú trọng tổng kết sự
lãnh đạo cuả Đảng đối với nhà nước, mà lãnh đạo cải cách nền hành chính là
một bộ phận hợp thành. Trong đó đã làm nổi bật quá trình hình thành và phát
triển các quan điểm của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, những đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, một số
kết quả nhất định từ sự lãnh đạo của Đảng đã được tổng kết, có công trình bước
đầu rút ra một số kinh nghiệm lịch sử. Đây là nhóm công trình liên quan trực tiếp
đến đối tượng nghiên cứu của đề tài, cung cấp cách tiếp cận chuyên ngành rất có
ý nghĩa. Tuy vậy, do mục tiêu chung của nó, nên nhóm nghiên cứu này chỉ tập
trung tìm hiểu Đảng lãnh đạo nhà nước nói chung, nên chưa có điều kiện khu
biệt hoá những đặc thù trong lãnh đạo cải cách nền hành chính nhà nước với
những khác biệt với lãnh đạo cải cách lĩnh vực lập pháp và tư pháp.
Bốn là: Nghiên cứu của các tổ chức hoặc cá nhân nhà khoa học nước
ngoài về công cuộc đổi mới Việt Nam, trong đó đề cập ở mức độ này hay mức độ
khác, góc độ này hay góc độ khác về nền hành chính nhànước. Nổi bật trong số
này là công trình của Dwight H.Perkns, David D. Dapce, Jonathan
H.Haughton (chủ biên): “Việt Nam cải cách theo hướng rồng bay”, 1995; Borje
Ljunggren (chủ biên): “Những thách thức trên con đường cải cách ở Đông
Dương”, 1994; Ngân hàng thế giới: “Nhà nước trong một thế giới đang chuyển
đổi, 1998,… Loại trừ những quan điểm trái ngược với đường lối Đảng ta, thì
những công trình loại này đã cho thấy cách nhìn của nuớc ngoài đối với công
cuộc đổi mới ở Việt Nam, mà ở đó bất cứ lĩnh vực nào cũng liên quan đến nền
hành chính nhà nước với tư cách là chủ thể tiến hành các hoạt động cải cách
hoặc đối tượng chịu sự tác động, chi phối bởi các quyết định quản lý hành chính.
Một số nghiên cứu về các chính sách kinh tế - xã hội cụ thể đều trực tiếp khuyến
nghị một số giải pháp cải cách nền hành chính nhà nước, xây dựng nền hành
chính gần dân, tăng cường khả năng tham gia của quần chúng vào công việc
Chính phủ, mở rộng các dịch vụ hành chính công nhằm đáp ứng tốt hơn xu
hướng văn minh, tiến bộ và thúc đẩy cải cách kinh tế, xã hội.
133
Ngoài các nhóm công trình nêu trên còn một số tài liệu gần đây cũng dề
cập đến vấn đề này cụ thể đó là bảy chương hành động thực hiện chương trình
Tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001 - 2010 bao gồm:
- Chương trình 1: “Đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cấp chất
lượng văn bản quy phạm pháp luật” do Bộ Tư pháp và Văn phòng Chính phủ chủ
trì.
- Chương trình 2: “Nghiên cứu xác định vai trò, chức năng và cơ cấu Nhà
nước” giai đoạn 1 (2003 - 2005) do Nội Bộ Vụ và Văn phòng Chính phủ chủ trì.
- Chương trình 3: “Chương trình tinh giảm biên chế” do Nội Bộ vụ chủ
trì.
- Chương trình 4: “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức Nhà nước giai đoạn 1 (2003 - 2005) do Bộ Nội Vụ chủ trì.
- Chương trình 5: “Chương trình cải cách tiền lương” do Bộ Nội vụ chủ
trì.
- Chương trình 6: “Đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với cơ quan hành
chính, đơn vị sự nghiệp công” do Bộ Tài chính chủ trì.
- Chương trình 7: “Hiện đại hoá hành chính” do Văn phòng Chính phủ
chủ trì 13/10/2004.
Bên cạnh đó còn có một số dự án cũng đề cập đến vấn đề cải cách hành
chính như dự án VIE/ 01/024.
Mục tiêu tổng thể của dự án là:
“Hỗ trợ chính phủ thực hiện phương pháp tiếp cận phối hợp mang tính
chương trình nhằm xây dựng, lập kế hoạch hành động, chỉ đạo, tổ chức thực hiện
và theo dõi đánh giá liên tục chương trình Tổng thể cải cách hành chính giai
đoạn 2001 - 2010.
1. Năng lực Bộ Nội Vụ và các bộ, cơ quan liên quan được tăng cường để chỉ
đạo và kiểm tra hiệu quả việc thực hiện chương trình Tổng thể cải cách hành chính.
2. Các nội dung và mục tiêu chương trình Tổng thể cải cách hành chính
được phổ biến đầy đủ và trở thành nhận thức chung của toàn xã hội thông qua
biện pháp tuyên truyền có hiệu quả.
Thời gian bắt đầu từ tháng 11/2002 thời gian kết thúc tháng 10/2006. Các
nhà tài trợ dự án VIE 01/024/B - là dự án được đồng tài trợ bởi chương trình
phát triển (Liên Hiệp quốc UNDP) và Chính phủ 5 nước Canada, Thụy Sỹ, Thụy
133
Điển, Na- Uy và Hà Lan. Các công trình và dự án trên đã cung cấp một số tài
liệu và cách tiếp cận được tác giả kế thừa khi thực hiện đề tài này.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
Luận chứng cơ sở lịch sử của các kinh nghiệm được tổng kết với ý nghĩa
làm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạt động lý luận và tổ chức thực tiễn trên
lĩnh vực lãnh đạo cải cách nền hành chính Nhà nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Nền hành chính Nhà nước là khách thể nghiên cứu của nhiều ngành khoa
học khác nhau, từ hành chính học, luật học, chính trị học, xã hội học… đến sử
học. Đề tài xuất phát từ cách tiếp cận của khoa học lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam để xác định đối tượng nghiên cứu cho mình là: Tìm hiểu quá trình hình
thành và phát triển quan điểm, đường lối của Đảng về cải cách nền hành chính
Nhà nước và việc tổ chức thực hiện đường lối đó trong thực tiễn.
* Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Đề tài giới hạn cải cách hành chính Nhà nước từ năm 1996
đến năm 2006 tức là từ Đại hội VIII đến Đại hội X của Đảng. Tuy nhiên lịch sử
là một quá trình liên tục, giai đoạn sau có quan hệ với giai đoạn trước hay cái có
sau bám vào cái có trước để tổng kết, đánh giá cái hiện tại và dự báo trong tương
lai vì vậy người nghiên cứu không thể tách rời một cách cơ học, do đó luận văn
có đề cập đến một số vấn đề liên quan trước năm 1996 và sau năm 2006.
Về nội dung: Đảng lãnh đạo cải cách nền hành chính Nhà nước từ 1996
đến 2006 là một vấn đề rộng, đề tài giới hạn nội dung nghiên cứu ở những quan
niệm tiếp cận sau đây:
+ “Lãnh đạo” bao gồm từ nội dung lãnh đạo, phương thức lãnh đạo, quá
trình lãnh đạo, phương tiện lãnh đạo,… đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu nội dung
lãnh đạo được thể hiện ở quan điểm, đường lối và sự hiện thực hoá kết quả lãnh
đạo trong thực tiễn.
+ Chủ thể lãnh đạo cải cách nền hành chính Nhà nước gồm các cơ quan
lãnh đạo của Đảng ở nhiều cấp độ khác nhau. Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu sự
lãnh đạo của các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng thể hiện trên những quan
điểm đường lối được phản ánh trong các nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc và
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương.
133
+ “Nền hành chính Nhà nước” gồm nhiều cấp độ tổ chức. Đề tài chỉ tìm
hiểu những nét chung nhất của cải cách nền hành chính Nhà nước trên phương
diện vĩ mô gắn với vai trò chính phủ và các bộ, ngành. Về nội dung, đề tài giới
hạn ở bốn khía cạnh: Tổ chức bộ máy hành chính, thể chế hành chính, công chức
hành chính và chế độ công vụ.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới, quan diểm của Đảng cộng sản Việt
Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì
dân.
* Nguồn tư liệu
Các nguồn tư liệu sau đây được sử dụng để nghiên cứu đề tài:
+ Các văn kiện của Đảng, Nhà nước.
+ Báo cáo tổng kết, tổng hợp của các cơ quan Đảng, Nhà nước, kỷ yếu các
kỳ họp quốc hội, báo cáo của Chính phủ, các Bộ/ngành, Trung ương, niên giám
Thống kê hàng năm của Tổng cục Thống kê…
+ Kế thừa tài liệu từ công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài
nước có liên quan đến đề tài được đăng tải trên báo, tạp chí và các loại ấn phẩm khác.
* Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, tác giả đã vận dụng, kết hợp hai phương pháp
chính là lịch sử và lôgích. Phương pháp lịch sử được quán triệt trong phân kỳ,
trình bày tiến trình phát sinh, phát triển của mỗi chủ trương, chính sách, là cơ sở
khoa học cho việc đúc rút các nhận xét và kết luận. Phương pháp lôgích được thể
hiện trong trình bày từng chương, tiết, đặc biệt là những vấn đề mang tính khái
quát như đúc rút nhận xét và tổng kết, kinh nghiệm. Ngoài ra còn sử dụng một số
phương pháp khác như đồng đại và lịch đại, quy nạp và diễn dịch thống kê, so
sánh… và phương pháp phỏng vấn, điều tra xã hội học…
6. Đóng góp của luận văn
* Đóng góp mới về nội dung khoa học
Cung cấp một cách khách quan toàn diện về chương trình thực hiện cải
cách nền hành chính Nhà nước từ 1996 đến 2006 đóng góp thêm nguồn tư liệu
133
để nghiên cứu, giảng dạy và tuyên truyền các nội dung liên quan đến cải cách
nền hành chính Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Hệ thống hoá những quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách nền
hành chính Nhà nước từ 1996 - 2006.
+ Tổng kết kinh nghiệm của Đảng về lãnh đạo cải cách nền hành chính
Nhà nước từ 1996 - 2006.
* Đóng góp về mặt lý luận
Đóng góp mới về cách tiếp cận và đối tượng nghiên cứu, bước đầu tổng
kết lịch sử để rút ra những kinh nghiệm, ý nghĩa lý luận vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với cải cách nền hành chính Nhà nước.
Góp phần cung cấp luận cứ khoa học lịch sử cho các nhà tổ chức hoạt
động thực tiễn để phục vụ yêu cầu tiếp yêu cầu tiếp tục lãnh đạo cải cách nền
hành chính Nhà nước trong tình trạng hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
133
Chương 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CẢI CÁCH NỀN HÀNH CHÍNH
NHÀ NƯỚC TỪ 1996 ĐẾN 2001
1.1. Cải cách nền hành chính nhà nước là yêu cầu khách quan trong
sự nghiệp công hoá, hiện đại hoá đất nước
1.1.1. Nền hành chính Nhà nước ta trong những năm đầu công cuộc
đổi mới (1986 - 1996)
Khái quát một vài nét của nền hành chính nhà nước ta ở thời kỳ trước năm
1986 và nhu cầu cải cách nền hành chính nhà nước trong tiến trình đổi mới toàn
diện đất nước.
Nếu khái niệm nền hành chính bao hàm một số lĩnh vực rất rộng của hành
vi con người như một tồn tại xã hội thì khái niệm hành chính công đã tạo ra một
đường biên, giới hạn những hành vi là hành động hành chính diễn ra trong khu
vực công hay còn gọi là khu vực hành chính công. Hành chính công là hoạt động
của Nhà nước, của cơ quan nhà nước, mang tính quyền lực Nhà nước. Sử dụng
quyền lực của Nhà nước để quản lý công việc của nhà nước nhằm phục vụ lợi
ích chung hay lợi ích riêng hợp pháp của các công dân. Như vậy hành chính
công (hay nền hành chính nhà nước) bao hàm toàn bộ các cơ quan cấp chính
quyền địa phương, toàn bộ các thể chế và hoạt động của bộ máy ấy với tất cả
những người làm việc trong đó. Nói tới nền hành chính công không phải là nói
tới một tổ chức, một hành vi quản lý của một cơ quan hay một cá nhân nào, mà
là nói tới một hệ thống thể chế, cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ, công chức của
nhà nước thi hành công vụ.
Trong từ điển Pháp - Việt Pháp luật hành chính, định nghĩa nền hành chính
Nhà nước hay còn gọi là hành chính công như sau: cải cách nền hành chính Nhà
nước là tổng thể các tổ chức và quy chế hoạt động của bộ máy hành pháp, có trách
nhiệm quản lý công việc hàng ngày của Nhà nước do các cơ quan có tư cách pháp
nhân công quyền tiến hành bằng những văn bản dưới luật dể giữ gìn trật tự công,
bảo vệ quyền lợi công và phục vụ nhu cầu hàng ngày của công dân. Với ý nghĩa
hành chính Nhà nước, nó là một hệ thống chức năng của Nhà nước bảo đảm thực
thi quyền hành pháp và hoạt động liên tục của bộ máy Nhà nước, các công sở.
Nền hành chính công có nghĩa là toàn bộ các công sở và công chức đặt dưới
quyền quản lý của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ trưởng. Hành chính
133
nhà nước ra đời cùng với sự ra đời của nhà nước, là quản lý công cụ quốc gia.
Hành chính Nhà Nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà
nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của công dân các cơ quan
trong hệ thống hành pháp từ trung ương đến cơ sở, tiến hành để thực hiện những
quan hệ xã hội duy trì trật tự an ninh, thoả mãn các nhu cầu hợp pháp của công
dân. Ở Việt Nam như chúng ta đã biết thắng lợi của cách mạng tháng tám 1945
đưa Đảng Cộng sản Việt Nam từ một Đảng hoạt động bí mật trở thành Đảng cầm
quyền. Từ đây vai trò lãnh đạo xây dựng và bảo vệ đất nước nói chung trọng yếu
trong chức năng lãnh đạo của Đảng cho đến trứơc đại hội VI, nền hành chính Nhà
Nước Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển mỗi giai đoạn gắn với sắc
thái riêng trong nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng.
* Thời kỳ 1945 - 1975: là thời kỳ nên hành chính Nhà nước cách mạng ra
đời được xây dựng củng cố và phát triển đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ của cách
mạng giải pháp dân tộc và sau đó xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc.
* Thời kỳ 1975 - 1986: sau ngày thống nhất đất nước (30/4/1975) Nghị
quyết Hội Nghị Trung ương lần thứ 24 khoá III (9 - 1975) đã chủ trương thống
nhất nước nhà về mặt nhà nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần IV của Đảng ta
và nhân dân ta phải đặc biệt đặc biệt quan tâm nhanh chóng xây dựng và củng cố
bộ máy chính quyền nhà nước các cấp ở miền Bắc, hiện ở giai đoạn này, phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với nền hành chính nhà nước lạc hậu, chậm được đổi
mới, tình trạng bao biện ngày càng nặng nề sự lẫn lộn giữa Đảng và Nhà nước
dẫn đến tình trạng vừa bao biện làm thay, vừa buông trôi khoán trắng cho Nhà
nước làm cho Nhà nước khó phát huy vai trò chủ động sáng tạo trong việc thực
hiện chức năng nhiệm vụ của mình, vừa thụ động ỷ lại vào sự lãnh đạo của cơ
quan Đảng, vừa lúng túng do dự không giám nhận trách nhiệm vì các quyết định
của mình. Đây là kẽ hở để một bộ phận đảng viên lạm quyền, còn đối với những
công việc mang lại tư lợi thì lạm dụng, còn bao biện chức năng của Nhà nước,
thì càng tạo kẽ hở để những đảng viên thoái hoá, biến chất, lợi dụng nhất là trong
điều kiện thiếu khung pháp lý cần thiết, để đặt đảng viên hoạt động dưới pháp
luật. Hạn chế nêu trên đặt ra nhu cầu phải cải cách nền hành chính Nhà nước gắn
với công cuộc đổi mới toàn diện. Nhưng trong điều kiện đảng cầm quyền, mọi
cải cách phải bắt đầu chính tư duy của Đảng, từ nếp nghĩ, cách làm của các cơ
quan lãnh dạo nhất và mỗi đảng viên. Cải cách nền hành chính Nhà nước là yêu
cầu sống còn đối với đảng cầm quyền, không chỉ để tăng cường hiệu lực công cụ
133
quản lý có khả năng đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội mà
còn để hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, không ngừng phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt đã được
nhấn mạnh từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) với tinh
thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật để đánh giá những sai lầm, khuyết
điểm và khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện. Tư tưởng đổi mới thể hiện
trong đường lối Đại hội VI có tính toàn diện, bao quát mọi mặt của đối tượng,
lãnh đạo từ lĩnh vực đối nội đến lĩnh vực đối ngoại; từ kinh tế, chính trị, văn hoá
đến xã hội; từ hạ tầng cơ sở đến kiến trúc thượng tầng… mà ở đó cải cách nhà
nước là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời. Đại hội VI khẳng định “để thiết
lập cơ chế quản lý mới, cần thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy
của các cơ quan nhà nước theo phương hướng xây dựng và thực hiện một cơ chế
quản lý nhà nước thể hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động ở các
cấp [16, tr.118].
Báo cáo chính trị của Đại hội VI đã chỉ ra 6 nhiệm vụ chủ yếu của bộ máy
nhà nước ta là: Thể chế hoá đường lối, chủ chương của Đảng thành pháp luật,
chính sách cụ thể; Xây dựng chiến lược kinh tế - xã hội và cụ thể chiến lược đó
thành những kế hoạch phát triển kinh tế xã hội; Quản lý hành chính xã hội và
hành chính kinh tế, điều hành các hoạt động kinh tế, xã hội trong toàn xã hội
theo kế hoạch hoá của Nhà nước, phát hiện những mất cân đối và đề ra những
biện pháp khắc phục; thực hiện cơ chế làm việc khoa học, có hiệu suất cao; Xây
dựng bộ máy gọn nhẹ, có chất lượng cao với một đội ngũ cán bộ có phẩm chất
chính trị và có năng lực quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - quản lý xã hội.
* Quan điểm đổi mới được thể hiện ở mấy nội dung cơ bản sau:
Một là: Xác định rõ trong thời kỳ quá độ nhà nước ta là công cụ của chế
độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa tự do giai cấp công nhân và nhân dân lao
động tổ chức thành quyền lực chính trị “đó là nhà nước chuyên chính vô sản
thực hiện các chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa [16, tr.117], đây là quan điểm bao
trùm định hướng cho cải cách nhà nước, khẳng định bản chất nhà nước không
phải thay đổi bản chất của nhà nước, mà nhằm làm cho nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ngày càng thể hiện đầy đủ và thực chất hơn, phát huy tốt hơn quyền làm
chủ của nhân dân trong chế độ mới. Mà ở đó cải cách nền hành chính nhà nước
là nội dung nhạy cảm nhất đụng chạm trực tiếp và thường xuyên đến cuộc sống
thường nhật của nhân dân và hoạt động của các tổ chức kinh tế cần phải được coi
133
trọng và tiến hành đi trước một bước; Hai là: Tách chức năng quản lý nhà nước
về kinh tế khỏi chức năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp để làm cơ sở
cho cải cách nền hành chính nhà nước và phát huy quyền tự chủ của các đơn vị
kinh tế cơ sở. Đây là yêu cầu quan trọng hàng đầu, gắn chặt với thực hiện đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế, phải nâng cao năng lực quản lý hành chính, bảo đảm
pháp chế xã hội chủ nghĩa thực hiện đầy đủ quyền lực nhà nước; Ba là: Nói tới
quản lý bao giờ cũng gắn với các phương pháp quản lý, do đó gắn liền với thủ
tiêu các cách thức quản lý hành chính mệnh lệnh là phải tìm ra những phương
pháp phù hợp để thay thế. Nổi bật ở đây là quan điểm đề cao vai trò của pháp
luật trong quản lý hành chính nhà nước, cốt lõi của tư tưởng nêu trên chính là đổi
mới hình thức, phương pháp và công cụ quản lý của nền hành chính nhà nước;
Bốn là: Tăng cường vai trò và đổi mới hoạt động của Quốc hội và cơ quan dân
chủ các cấp nhằm nâng cao năng lực ban hành thể chế, luật pháp tạo khuôn khổ
cho cải cách hành chính nhà nước, đồng thời nâng cao chất lượng giám sát hoạt
động các cơ quan hành chính nhà nước; Năm là: Điều chỉnh, sắp xếp lại bộ máy
hành chính nhà nươc theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Đại hội VI xác định đây là
yêu cầu “cấp bách” bao gồm sắp xếp lại các bộ, uỷ ban nhà nước, tổng cục và
tinh giản cơ quan quản lý hành chính nhà nước của các bộ…; Sáu là: Đổi mới
đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ. Đại hội xác định: Muốn nâng cao hiệu lực
quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội, phải có một đội ngũ cán bộ
giỏi, có năng lực, có kinh nghiệm, có phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng
(từ Bộ trưởng, thứ trưởng, chủ tịch các cấp, cục vụ trưởng…); Bảy là: Đổi mới
sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chưc và hoạt động của nền hành chính nhà
nước. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trước hết
thể hiện đổi mới tư duy lãnh đạo - cơ sở cho những đổi mới khác. Trong bộ máy
hành chính nhà nước, không có sự đổi mới từ phía chủ thể lãnh đạo. Đổi mới sự
lãnh đạo của Đảng còn bao hàm ở đổi mới tư duy lý luận chính trị, đổi mới công
tác tổ chức và cán bộ, nhất là lề lối và tác phong làm việc của cán bộ, đảng viên.
Khắc phục từng bước tình trạng bao biện làm thay công việc nhà nước của tổ
chức Đảng, và cá nhân đảng viên, phải đặt mọi hoạt động của tổ chức và đảng
viên dưới pháp luật, châm dứt các biểu hiện lạm dụng quyền lực làm trái pháp
luật. Nghị quyết hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương khoá VI (3 1989 ), với sự định hình công cụ và phương pháp quản lý nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Sau đại hội VI
133
của Đảng, khủng hoảng kinh tế - xã hội lên đến đỉnh điểm, đời sống của nhân
dân ngày càng khó khăn, mà nguyên nhân cơ bản là cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp về cơ bản mâu thuẫn chưa được xoá bỏ, cơ chế quản lý mới chưa hình
thành. Quản lý nhà nước về kinh tế chưa được đổi mới thích ứng với quá trình
xác lập của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và chuyển đổi hoạt động sản
xuất kinh doanh của các xí nghiệp quốc doanh. Bộ máy quản lý kinh tế cồng
kềnh kém hiệu lực đẻ ra tệ ăn bám và tham nhũng khá nặng nề và phổ biến [17,
tr.14].
Nếu như Đại hội VI bắt đầu khởi xướng đổi mới thì Hội nghị Trung ương
sáu khoá VI (3-1989) thể hiện sự chín muồi tư duy đổi mới trên nhiều lĩnh vực.
- Về công cụ quản lý kinh tế cơ quan hành chính nhà nước, Đại hội VI
còn tách rời giữa “tính kế hoạch” và “sử dụng đúng hàng hoá tiền tệ” thành hai
đặc trưng; Hội nghị Trung ương ba khoá VI tiếp tục chủ trương thực hiện quản
lý nền kinh tế qua giao chỉ tiêu kế hoạch bằng hịên vật (chỉ có giảm hơn so với
trước) và bao cấp giá. Phải đến hội nghị Trung ương VI khoá VI mới xác định
đúng đắn và đầy đủ hơn: “Thị trường vừa là một căn cứ, vừa là một đối tượng
của kế hoạch” [19, tr.18]. Do đó, công cụ quản lý nhà nước được đổi mới căn
bản, không còn thể hiện ở các chỉ tiêu giá trị hiện vật hoặc chính sách giá như
trước đây, mà được thực hiện bằng các công cụ quản lý vĩ mô. Đó là [19, tr.19].
+ Đổi mới nâng cao chất lượng kế hoạch hàng hoá ở tầm vĩ mô
+ Thực hiện kiểm kê, kiểm soát của nhà nước đối với các hoạt động kinh tế.
+ Xây dựng chính sách tài chính quốc gia và các chính sách cụ thể về
thuế, tín dụng, tiền tệ, giá cả, tiền lương theo hướng xoá bỏ bao cấp.
+ Xây dựng kinh tế theo hướng xoá bỏ những quy định lỗi thời, ban hành
luật và các văn bản pháp quy xác định quyền hạn và trách nhiệm, nghĩa vụ, lợi
ích trong sản xuất kinh doanh.
+ Tăng cường dự trữ quốc gia, trước hết là về lương thực, nhiên liệu,
vàng, ngoại tệ và tiền Việt Nam.
- Về phương pháp quản lý kinh tế của cơ quan hành chính nhà nước. Đại
hội VI mặc dù đã xác định “quản lý bằng các phương pháp kinh tế là chủ yếu”
(18, tr 64 ), nhưng vẫn chủ trương bao cấp giá là tích cực nắm nguồn hàng. Hội
nghị Trung ương Ba khoá VI trong khi chủ trương chuyển toàn bộ hoạt động của
doanh nghiệp nhà nước sang hạch toán “kinh doanh xã hội chủ nghĩa, vẫn còn
133
xác định “tuỳ theo yêu cầu cụ thể của nhà nước đối với từng loại sản phẩm, cơ
quan quản lý cấp trên trực tiếp giao cho xí nghiệp từ 1 đến 3 chỉ tiêu pháp lệnh”
[9, tr.21].
Thực chất đó vẫn là sự tái phạm căn bệnh quản lý kinh tế bằng giao chỉ
tiêu giá trị hiện vật, không dứt khoát chuyển sang quản lý bằng biện pháp kinh tế
và sử dụng các công cụ vĩ mô. Phải đến Hội nghị Trung ương Sáu khóa VI mới
khẳng định mạnh mẽ việc từ bỏ cách thức quản lý của nhà nước bằng bao cấp
giá, bằng nắm nguồn hàng: “Nhà nước không dùng mệnh lệnh hành chính áp đặt
giá mà sử dụng các chính sách và biện pháp kinh tế là chủ yếu để tác động đến
quan hệ cung - cầu, điều tiết, hướng dẫn giá cả trên thị trường [19, tr.19].
Chính vì vậy, từ tháng 3 -1989, cơ chế “tái giá” bị thủ tiêu, thay vào đó là
cơ chế một giá thống nhất trên cả nước tuân theo thị trường (nhà nước chỉ còn
nắm 20% vật tư cần thiết, nhưng đến năm 1990 chuyển nối thị trường), giá cả
biến động lùi xuống hàng ngày do thị trường quyết định.
Nhà nước chỉ định giá với những mặt hàng chiến lược thiết yếu như: điện,
xăng, dầu…nhưng cũng phải căn cứ theo thị trường. Nghị quyết Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương lần thứ Năm khóa VI (6-1988) và Nghị quyết Hội nghị
Ban chấp hành trung ường lần thứ Tám (B) khoá VI (3-1990) với chủ trương
điều chỉnh một số khía cạnh của nền hành chính nhà nước.
Các hội nghị Trung ương khoá VI khi bàn về từng chuyên đề cụ thể đều
trực tiếp nêu giải pháp đổi mới tổ chức và họat động của các cơ quan hành chính
nhà nước. Đặc biệt là Hội nghị Trung ương năm khoá VI “Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng đảm bảo thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng (61988) tập trung bàn sâu hơn, bao gồm từ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước, kiện toàn tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ, sửa đổi lề lối, tác
phong làm vịêc... của các cơ quan hành chính nhà nước.
Một là: Sửa đổi về phương thức lãnh đạo; Hai là: Về cải cách tổ chức bộ
máy; Ba là: Về công tác cán bộ; Bốn là: Sửa đổi lề lối, tác phong của các cơ
quan hành chính nhà nước, định hình chức năng vận động quần chúng của cơ
quan hành chính Nhà nước.
Những trình bày trên cho thấy, các hội nghị Trung ương khoá VI đã có
nhiều nỗ lực cụ thể hoá đường lối đổi mới đã được nêu ra tại Đại Hội VI về cải
cách nền hành chính nhà nước, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
133
nền hành chính nhà nước. Tuy vậy, do giới hạn hỏi các nhân tố chủ quan và
khách quan, đặc biệt sức vận động của thực tiễn đất nước ở vào một thời đoạn
chuyển đổi từ một nền kinh tế hiện vật (có trao đổi) sang nền kinh tế hàng hoá,
từ kinh tế hai phần sang kinh tế nhiều thành phần... và thời cuộc thay đổi lớn lao,
tác động dữ dội, nhất là sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Đông Âu, nên chưa có sự
chín muồi về mặt thực tiễn cho các giai cấp cải cách nền hành chính nhà nước.
Chưa tạo được khuôn khổ thể chế cho cải cách mạnh mẽ, tổ chức bộ máy nền
hành chính nhà nước, thậm chí hiến pháp 1980 chưa sửa đổi , nhiều văn bản
pháp luật bảo hộ cho cơ chế hoạch hoá tập trung bao cấp vẫn chưa được huỷ bỏ
hoặc điều chỉnh. Chưa có sự phân tách công chức hành chính với các loại công
chức, viên chức với những đặc trưng khác nhau, mà vẫn chỉ xây dựng “đội ngũ
cán bộ” chung chung. Quan hệ giữa các cơ quan hành chính nhà nước với các cơ
quan lập pháp, tư pháp trong quá trình cải cách nền hành chính nhà nước vẫn
chưa có quan điểm rõ ràng, chủ yếu điều chỉnh trong khuôn khổ của hiến pháp
1980. Dù còn không ít hạn chế nhưng những tư tưởng đổi mới của Đại Hội VI và
các hội nghị Trung Ương khoá VI đã từng bước đi vào cuộc sống, cải cách bước
đầu nền hành chính nhà nước trong một giai đoạn giao thời chuyển đổi cơ chế
quản lý. Những biện pháp chủ yếu của Đảng trong lãnh đạo cải cách nền hành
chính nhà nước từ năm 1986 đến năm 1996: Cải cách thể chế hành chính Nhà
nước; Điều chỉnh tổ chức bộ máy nền hành chính Nhà nước; Xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức và bước đầu đổi mới chế độ công vụ.
Bảng 1. Thống kê cán bộ công chức năm 1986-1991
Năm
Số lượng
1986
1987
1.195.923 1.266.496
1988
1.274.400
1989
1.246.120
1991
1.217.596
(người)
Nguồn: Nguyễn Minh Phương (2004), “Quá trình hình thành và phát triển
của đội ngũ công chức và thể chế quản lý công chức nước ta từ 1945 đến nay”,
Khoa học Tổ chức Nhà nước, (8) 65
Về đổi mới chế độ công chức, vấn đề trước hết được quan tâm là xây
dựng chức danh và tiêu chuẩn nghiệp vụ công chức, viên chức. Mặc dù đã có
nhiều nỗ lực song xây dựng đội ngũ cán bộ công chức và đổi mới chế độ công vụ
đã đạt được những kết quả hạn chế, ý nghĩa lớn nhất của nó là đặt nền móng cho
việc tiếp tục tiến hành cho thời gian sau. Để đạt được những kết quả nhất định
133
trong cải cách hành chính, lộ trình đổi mới đặt ra đối với Đảng là phải tiến hành
cuộc đấu tranh này với tinh thần kiên quyết hơn.
Do ảnh hưởng của tình hình Thế giới nửa đầu thập niên 90 thế ký XX đã
xuất hiện nhiều yếu tố thuận và thách thức, tác động trực tiếp tới công cuộc đổi
mới của Việt Nam và đặt ra những yêu cầu mới đối với công cuộc cải cách nền
hành chính Nhà nước. Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên
Xô là sự kiện tác động to lớn, mạnh mẽ nhất đến nước ta vào đầu thập niên 90
của thế kỷ trước. Trước đây nói tới khủng hoảng của xã hội chủ nghĩa thường chỉ
diễn ra ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác, ở quốc gia này hay quốc gia khác,
nhưng lúc này ở mức độ trầm trọng nhất. Tác động từ sự sụp đổ của chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô bao hàm cả mặt vật chất - kinh tế, Việt
Nam mất một thị trường truyền thống quan trọng, mất đi những nguồn viện trợ
kinh tế quan trọng mà một thời được đánh giá là điều kiện tiên quyết cho sự
nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa ở các nước chậm phát triển. Về phương diện
tư tưởng, tinh thần , sự kiện này đã tác động mạnh mẽ tới niềm tin, lý tưởng của
cán bộ, đảng viên và nhân dân ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về vai trò
lãnh đạo của Đảng cộng sản, về nhà nước xã hội chủ nghĩa...mặt khác sự sụp đổ
của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô cũng đồng nghĩa với sự sụp
đổ mô hình nhà nước chưa bắt kịp với xu thế thời đại. Đó là bài học có ý nghĩa
sâu sắc đối với các quốc gia mà đảng cộng sản còn nắm được địa vị cầm quyền,
đặc biệt là phải tư duy lại mô hình tổ chức nhà nước cho phù hợp đặc điểm của
dân tộc và xu thế của thời cuộc, mà ở đó nền hành chính nhà nước là bộ phận
nhạy cảm nhất cần được quan tâm đặc biệt. Sau khi “chiến tranh lạnh” chấm dứt,
Thế giới chuyển từ chạy đua vũ trang sang cạnh tranh kinh tế, kể cả các quốc gia
trước đây vốn ở địa vị thuộc địa, lệ thuộc chủ nghĩa thực dân đế quốc cũng ý
thức rõ rệt về chạy đua phát triển kinh tế đi lên. Chỉ có tập trung phát triển kinh
tế mới tránh được nguy cơ tụt hậu. Song phát triển kinh tế không phải là quá
trình tự thân, mà đòi hỏi phải gắn với điều kiện tiền đề cần thiết, mà ở đó Nhà
nước đóng vai trò là “người dẫn đường “hỗ trợ dẫn dắt doanh nghiệp. Đối với
các nước mới giành độc lập, vai trò “bà đỡ” của nhà nước trong xây dựng và bảo
vệ nền kinh tế trong dân tộc đang ở trạng thái yếu ớt càng có ý nghĩa quan trọng.
Vì vậy, nhà nước phải không ngừng điều chỉnh cách thức quản lý để đảm bảo hỗ
trợ doanh nghiệp một cách thích ứng và hiệu quả.
133
Bước vào thập niên 90 cũng là lúc thế giới chuyển từ “đối đầu” sang “đối
thoại” đã mở ra khả năng hợp tác, trao đổi kinh nghiệm về quản lý hành chính
nhà nước giữa các quốc gia. Đặc biệt quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị
trường là vấn đề mới mẻ đối với Việt Nam, trong khi các nước tư bản đã có kinh
nghiệm hàng trăm năm, điều mà trước đây do quan hệ quốc tế bị chi phối bởi hệ
tư tưởng là chủ yếu nên ít được chú ý nghiên cứu. Tình hình trong nước, nền
kinh tế đất nước sau 5 năm vận hành theo đường lối đổi mới của Đại hội VI đã
có nhiều kết quả tích cực và cũng bộc lộ không ít khuyết tật. Mặt tích cực là sức
sản xuất của các thành phần kinh tế được giải phóng, tạo điều kiện để giải quyết
những khó khăn về kinh tế, huy động các tiềm năng to lớn của xã hội đầu tư cho
phát triển, mà kết quả của nó biểu thị ở mức độ tăng trưởng cao của tất cả các
khu vực kinh tế. Mặt tiêu cực cũng bộc lộ rõ nét, nhất là tình trạng lừa đảo,
chiếm dụng vốn, gian lận thương mại, làm hàng giả... để tạo điều kiện cho các
nhân tố tích cực phát triển và hạn chế ngoại ứng tiêu cực của nó, cơ chế thị
trường tất yếu phải cải cách thể chế và tổ chức bộ máy hành chính nhà nước.
Kinh tế vốn đầu tư nước ngoài chuyển biến tốt, thu hút được ngày càng nhiều
doanh nghiệp các nước đâù tư vào Việt Nam, rất cần những thủ tục hành chính
giản đơn, minh bạch, có sức hấp dẫn lớn đối với các nhà đầu tư.
Hệ thống chính trị nước ta sau 5 năm vận hành theo đường lối đổi mới tuy
có những chuyển biến bước đầu nhưng bên cạnh đó cũng bộc lộ không ít khuyết
tật, nếu không cải cách sẽ kìm hãm quá trình đổi mới kinh tế. Các cơ quan lãnh
đạo Đảng vẫn can thiệp quá sâu vào đối tượng quản lý của cơ quan hành chính
nhà nước. Bộ máy hành chính nhà nước vẫn còn cồng kềnh, kém hiệu lực, chồng
chéo chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm không rõ ràng. Tình trạng tham nhũng
ngày càng diễn biến phức tạp về hình thức và gia tăng về quy mô. Đội ngũ cán
bộ công chức vẫn hoạt động mang tính nghiệp dư, chưa được quy hoạch, đào tạo
cơ bản, nhất là nghiệp vụ và kỹ thuật quản lý hành chính nhà nước, chế độ đối
với công chức, nhất là tiền lương chưa được cải cách căn bản, chưa có khả năng
tạo động lực cho công chức học tập, phấn đấu và chuyên tâm với công việc.
Đời sống văn hóa - xã hội diễn biến phức tạp trong điều kiện đất nước
chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và thiếu những định hướng đổi mới
thích ứng với yêu cầu xác lập nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Phát triển
giáo dục và chăm sóc y tế theo lối bao cấp không còn phù hợp với tình hình mới,
nhưng lấy cái gì thay thế nó để vừa thể hiện bản chất của xã hội chủ nghĩa, vừa
133
- Xem thêm -