Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đảng bộ xã mường bằng, huyện mai sơn, tỉnh sơn la lãnh đạo xây dựng đời sống văn...

Tài liệu đảng bộ xã mường bằng, huyện mai sơn, tỉnh sơn la lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay

.PDF
73
240
113

Mô tả:

LỜI CẢM ƠN Bằng tấm lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới ThS. Cao Thị Hạnh, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong quá trình thực hiện khóa luận. Qua đây cho tôi gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo trong khoa Lý luận chính trị, phòng Quản lý khoa học và Hợp tác quốc tế, Trung tâm thông tin Thư viện trường Đại học Tây Bắc đã tạo điều kiện cho tôi học tập và nghiên cứu hoàn thành khóa luận. Xin gửi lời cảm ơn đến Đảng bộ, Ban văn hóa, Mặt trận tổ quốc và UBND xã Mường Bằng - huyện Mai Sơn - tỉnh Sơn La, đã nhiệt tình cộng tác, tạo điều kiện cho tôi có thể hoàn thành khóa luận. Tôi cũng xin cảm ơn tất cả bạn bè, người thân đã luôn giúp đỡ, động viên, khuyến khích tôi nỗ lực hoàn thành khóa luận nghiên cứu của mình. Khóa luận chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của quý thầy cô và các bạn để khóa luận này được hoàn thiện hơn. Kính chúc quý thầy cô sức khỏe, hạnh phúc và thành đạt Xin chân thành cảm ơn! Sơn La, tháng 5 năm 2015 Sinh viên thực hiện Cà Văn Loan DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT UBND : Ủy ban nhân dân MTTQ : Mặt trận tổ quốc MỤC LỤC MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài .........................................................................................................1 2. Tình hình nghiên cứu ...................................................................................................3 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu ...........................................................5 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ............................................................6 5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................6 6. Những đóng góp của đề tài ..........................................................................................6 7. Cấu trúc của đề tài .......................................................................................................6 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ CỦA VIỆC LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA Ở XÃ MƯỜNG BẰNG, HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA ........................7 1.1. Cơ sở lý luận .............................................................................................................7 1.1.1. Khái niệm văn hóa và đời sống văn hóa ở cơ sở ...................................................7 1.1.2. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng đời sống văn hóa trong thời kỳ đổi mới ...11 1.2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................................14 1.2.1. Sự cần thiết xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở ....................................................14 1.2.2. Thực trạng công tác xây dựng đời sống văn hóa ở xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La trước năm 2000 ..................................................................................16 TIỂU KẾT CHƯƠNG I.................................................................................................20 CHƯƠNG 2: ĐẢNG BỘ XÃ MƯỜNG BẰNG, HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CƠ SỞ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ......................................................................................................21 2.1. Đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội của xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La .......................................................................................................................................21 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên của xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La ..............21 2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của xã Mường bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La ....22 2.2. Công tác lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa cơ sở của Đảng bộ xã Mường Bằng, huyện Mai sơn, tỉnh Sơn La (2000 - 2014) ...................................................................23 2.2.1. Công tác lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa cơ sở của Đảng bộ xã Mường Bằng, huyện Mai sơn, tỉnh Sơn La (2000 - 2005) .........................................................23 2.2.2. Công tác lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa cơ sở của Đảng bộ xã Mường Bằng, huyện Mai sơn, tỉnh Sơn La (2006 - 2011) .........................................................31 2.2.3. Công tác lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa cơ sở của Đảng bộ xã Mường Bằng, huyện Mai sơn, tỉnh Sơn La (2011 - 2014) .........................................................39 2.3. Nguyên nhân của những hạn chế và bài học kinh nghiệm .....................................48 2.3.1. Nguyên nhân của những hạn chế.........................................................................48 2.3.2. Bài học kinh nghiệm ............................................................................................50 TIỂU KẾT CHƯƠNG II ...............................................................................................51 CHƯƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA Ở CƠ SỞ XÃ MƯỜNG BẰNG, HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA .............................................................52 3.1. Nhóm giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La ..........................................................................................52 3.1.1. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo ..................................................................52 3.1.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban chỉ đạo phong trào cấp xã và Ban vận động bản ........................................................................................................................55 3.2. Nhóm giải pháp nhằm xây dựng đời sống văn hóa xã ở cơ sở xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La ..........................................................................................56 3.2.1. Giáo dục nâng cao nhận thức chính trị, ý thức pháp luật, truyền thống dân tộc và cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” cho nhân dân .................................................................................................................................56 3.2.2. Tăng cường xây dựng, hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách về xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở .....................................................................................................58 TIỂU KẾT CHƯƠNG III ..............................................................................................63 KẾT LUẬN ..................................................................................................................64 TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................67 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là một trong những vấn đề được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm. Điều đó được thể hiện ở chủ trương có tính nhất quán của Đảng ta là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Định hướng phát triển văn hóa của Đại hội X của Đảng nêu rõ: “Đẩy mạnh việc thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa làm cho đời sống văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người; đẩy mạnh việc xây dựng đời sống văn hóa đại chúng và môi trường văn hóa lành mạnh” [17, 213]. Đại hội XI của Đảng tiếp tục xác định: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển” [18, 75-76]. Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở được coi là bước đi ban đầu của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là công việc xây dựng kêt cấu hạ tầng văn hóa, các thiết chế văn hóa như: thư viện, bảo tàng, nhà văn hóa… mục tiêu chính là giáo dục hoàn thiện nhân cách và phát triển toàn diện con người. Giáo dục đạo lý “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”, ý thức lao động sáng tạo, phẩm chất đạo đức trong sáng, tình cảm lành mạnh, giáo dục cách ứng xử văn hóa trong mỗi cá nhân, gia đình và xã hội. Thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Thời gian qua, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa thực sự là sức cuốn hút mạnh mẽ, thấm sâu đến từng cơ sở thật sự trở thành phong trào quần chúng rộng lớn, thực sự mang lại những thành quả quan trọng, góp phần tạo dựng diện mạo mới trong đời sống ở cơ sở, đã đi từ phong trào đến chiều sâu nhận thức trong sinh hoạt văn hóa, trách nhiệm của cộng đồng dân cư và trong mỗi người dân. Nhiều danh hiệu văn hóa được tôn vinh như: Gia đình văn hóa, Làng văn hóa, Khu dân cư văn hóa, Cơ quan văn hóa… gây nên ấn tượng văn hóa tràn ngập khắp mọi nơi. Nhưng sự thẩm thấu những giá trị văn hóa ở những con người cụ thể, lại không hẳn như vậy. Những thành viên của cộng đồng được tôn vinh danh hiệu văn hóa đó khi bước ra cuộc sống xã hội dường như hành xử lại không xứng đáng với danh hiệu đó. Chính vì vậy, mặc dù chúng ta đã có nhiều cộng 1 đồng đạt danh hiệu văn hóa nhưng chẳng vì thế mà các hiện tượng phản văn hóa giảm đi mà có khi lại gia tăng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đưa ra nhận định: “Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin, thể thao ngày càng được mở rộng, từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa từng bước đi vào chiều sâu” [18, 155]. Tuy nhiên, cũng trong lĩnh vực này: “Văn hóa phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Quản lý văn hóa, văn nghệ, báo chí xuất bản còn thiếu chặt chẽ. Môi trường văn hóa bị xâm hại, lai căng, thiếu lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục, các tệ nạn xã hội, tội phạm và sự xâm nhập của các sẩn phẩm và dịch vụ độc hại làm suy đồi đạo đức, nhất là trong thanh thiếu niên, rất đáng lo ngại” [18, 169]. Những đánh giá trên đây về những thành tựu, hạn chế của nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hóa Việt Nam thời gian qua đã phản ánh đúng những gì đã và đang xảy ra tong lĩnh vưc này. Xã Mường Bằng, tuy là một trong những xã vùng I của huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La nhưng hệ thống cơ sở hạ tầng còn thấp, các thiết chế cho đời sống văn hóa chưa nhiều nên mức hưởng thụ văn hóa nhìn chung còn thấp. Mặt bằng dân trí vẫn còn thấp, không đồng đều, đời sống kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn. Với 97,6% [Số liệu thống kê năm 2010] dân số của xã là dân tộc thiểu số, trong quá trình phát triển các dân tộc trong xã đoàn kết tạo dựng nên bản sắc văn hóa vừa đa dạng, vừa mang đậm nét riêng của từng dân tộc. Do vậy, cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” tại xã Mường Bằng vừa mang những nét chung của các phong trào trên phạm vi cả nước, tỉnh Sơn La và huyện Mai Sơn, lại vừa mang những đặc điểm riêng cần được nghiên cứu để có các giải pháp vận dụng phù hợp để xây dựng và phát triển đời sống văn hóa ở địa phương góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở và thực tiễn triển khai tổ chức thực hiện phong trào ở cơ sở của Đảng bộ xã Mường Bằng. Với mong muốn được đóng góp một phần công sức nhỏ bé vào việc xây dựng và phát triển đời sống văn hóa cơ sở của xã nhà, tôi chọn đề tài: “Đảng bộ xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay” làm khóa luận tốt nghiệp của mình. 2 2. Tình hình nghiên cứu Ở nước ta, công tác xây dựng đời sống văn hóa đã diễn ra được hơn nửa thế kỷ (tính từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay). Định hướng chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở đã có từ Đại hội III (1960), IV (1976), nhưng phải đến Đại hội V (1982) mới hình thành rõ nét. Trong nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ V đã chú trọng xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở bảo đảm ở mỗi xã, phường, hợp tác xã, mỗi cơ quan, trường học, mỗi nhà máy, công trường, mỗi đơn vị lực lượng vũ trang đều phải có đời sống văn hóa, phải chú ý xây chăm lo xây dựng đời sống văn hóa nông thôn, đặc biệt chú ý đến nhiều vùng căn cứ cũ, vùng có đồng bào dân tộc thiểu số. Sang thời kỳ đổi mới, Nghị quyết Đại hội VI (1986), Đại hội VII (1991), Đại hội VIII (1996), Đại hội IX (2001) của Đảng tiếp tục nhấn mạnh cần phải tiến hành xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở xuyên suốt theo định hướng chỉ đạo chung đã từng vạch ra cho công cuộc xây dựng nền văn hóa mới của Việt Nam định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa tiên tiến vừa đậm đà bản sắc dân tộc. Gần đây nhất Đại hội Đảng lần thứ X (2006) lại tiếp tục khẳng định: “Đẩy mạnh việc thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa, làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người. Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân. Đẩy mạnh việc xây dựng nền văn hóa đại chúng và môi trường văn hóa lành mạnh” [24, 213]. Trên cơ sở những định hướng của Đảng, hoạt động nghiên cứu, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở đã diễn ra sôi nổi, rộng rãi trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nó đã đem lại những mặt tích ban đầu và ngày càng đi vào chiều sâu, thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều học giả khoa học với các công trình nghiên cứu tiêu biểu như: cuốn sách “Văn hóa và cách tiếp cận mới” (1999) của Phan Ngọc, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội; Cuốn sách “Văn hóa đổi mới” (1994) của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng nêu lên một số luận điểm về mối liên hệ giữa văn hóa và sự nghiệp đổi mới; Giáo trình “Cơ sở văn hóa Việt Nam” (1998) của Giáo sư Trần Quốc Vượng (Nxb. Giáo dục, Hà Nội) đưa ra các khái niệm cơ bản về văn hóa học,văn hóa và môi trường tự nhiên, văn hóa với môi trường xã hội,tiếp xúc và giao lưu văn hóa, cấu trúc, các thiết chế và chức năng của văn hóa, diễn trình và không gian văn hóa Việt Nam; “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” (1996) của PGS. TS Trần Ngọc Thêm đi tìm những nét 3 bản sắc - đó là những nét đặc trưng cơ bản cần thiết cho việc tìm hiểu văn hóa Việt Nam với quy luật hình thành và phát triển của chúng; “Văn hóa và văn minh” (1998) của Hồ Sĩ Quý. Các công trình nghiên cứu và bài viết trên đã đưa ra những luận điểm riêng, những cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau và có những cách định nghĩa khác nhau về văn hóa. Điều đó chứng tỏ rằng văn hóa đã và đang được tiếp cận và nghiên cứu dưới nhiều hình thức rất phong phú và đa dạng. Những tài liệu trên là nguồn tư liệu mà tôi tham khảo để đưa ra quan niệm về văn hóa trong khóa luận của mình. Có nhiều tác phẩm có liên quan đến công tác xây dựng đời sống văn hóa, trong đó có tác phẩm “Đời sống mới” (1947) của Chủ Tịch Hồ Chí Minh dưới bút danh Tân Sinh đưa ra khái niệm “Đời sống mới” bao gồm đời sống mới riêng cho từng người và đời sống mới chung cho cộng đồng, tập thể như các gia đình, làng xã, nhà máy, trường học, công sở… Về tinh thần, đời sống mới cần phải cần, kiệm, liêm, chính; nếu không làm được như vậy, thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân. Tác phẩm “Mấy vấn đề xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở hiện nay” (1985) của Nguyễn Văn Huy đưa ra khái niệm văn hóa và vai trò của nhân tố văn hóa như là mối quan hệ giữa con người với thế giới bên ngoài, nó như lát cắt đi qua toàn bộ mối quan hệ phong phú và phức tạp của con người với thế giới hiện thực, văn hóa là sự biểu hiện của phơng thức của sự tồn tại người, là sự tổng thể mọi giá trị người; “Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng đời sống văn hóa ở nước ta” (1999) của GS. Hoàng Vinh đưa ra khái niệm về đời sống văn hóa như là sự hiện diện, tồn tại và phát triển của đời sống tinh thần trong toàn bộ hoạt động thực tiễn… Vấn đề xây dựng đời sống văn hóa cũng thu hút được nhiều tác giả chọn làm đề tài nghiên cứu khoa học, luận văn tốt nghiệp, luận văn Thạc sĩ của mình như: năm 2004, TS. Nguyễn Xuân Hồng đã có đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ với tên “Đổi mới phương pháp xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở vùng Đồng bằng Sông Cửu Long trong giai đoạn hiện nay”, mục đích chính của công trình nghiên cứu là nhằm đề xuất những giải pháp mới khả thi, có tính khoa học, góp phần hoàn thiện, nâng cao chất lượng công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở nông thôn vùng Đồng bằng Sông Cửu Long và những vùng khác có điều kiện tương tự; Đề tài “Thực trạng và giải pháp xây dựng đời sống văn hóa cho thanh niên nông thôn huyện Chợ Mới tỉnh An Giang” (2010) của tác giả Quách Thị Hồng; Đề tài “Đảng bộ huyện Quảng Xương (Thanh Hóa) lãnh đạo tổ chức, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trong giai đoạn 2001 – 2010” (2012) của tác giả Bùi Thị Thu... 4 Nhìn chung các tác phẩm và các công trình nghiên cứu khoa học trên đã khẳng định được tầm quan trọng của việc xây dựng và phát triển văn hóa nói chung, trong đó có đời sống văn hóa, nêu bật được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng, được thể hiện bằng các đường lối, chính sách phát triển và sự vận dụng đường lối, chính sách đó vào các địa phương cụ thể, nêu ra các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng xây dựng đời sống văn hóa phù hợp với từng địa phương. Do đó, việc xây dựng đời sống văn hóa ở địa phương mang tính đặc thù bên cạnh những đường lối chỉ đạo chung của Đảng, đó là một vấn đề rất rộng lớn và phong phú mà các tác giả còn chưa cập tới nhiều nội dung, đặc biệt là chưa có công trình khoa học nào đi sâu vào việc nghiên cứu quá trình Đảng bộ xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa cơ sở. Việc tìm hiểu đời sống văn hóa ở các địa phương mới được triển khai bước đầu và đạt được kết quả còn khiêm tốn so với giá trị vốn có của văn hóa và khả năng thực hiện của nhân dân. Kết quả nghiên cứu của các tác giả là cơ sở để tôi định hướng và xác định mục tiêu nghiên cứu phù hợp cho khóa luận tốt nhgiệp của mình. 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu - Góp phần tổng kết các kết quả hoạt động xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trên địa bàn xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. - Làm rõ vai trò của Đảng Bộ xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La đối với công tác lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay. - Đề xuất các giải pháp khả thi từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn trong quá trình địa phương triển khai tổ chức thực hiện cuộc vận động phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, nhằm góp phần nâng cao công tác lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở hiện nay tại xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng đời sống văn hoá cơ sở. - Khảo sát quá trình Đảng bộ xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa cơ sở; tổng kết thực trạng, những thành tựu và hạn chế khó khăn trong công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở. - Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trong giai đoạn hiện nay. 5 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Quá trình Đảng bộ xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa cơ sở. Phạm vi nghiên cứu - Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam về văn hóa và xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. - Quá trình Đảng bộ xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La lãnh đạo các cơ sở bản, cụm bản, các khối cơ quan ban nghành đoàn thể, trường học, trạm y tế… xây dựng đời sống văn hóa ở các cấp độ và phạm vi khác nhau trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu - Đề tài nghiên cứu sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. - Đề tài nghiên cứu còn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh, logic, lịch sử, so sánh… Cùng với đó là kế thừa những kết quả nghiên cứu của các tác giả có liên quan trên cơ sở chọn lọc và nâng cao. 6. Những đóng góp của đề tài - Hệ thống hóa các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng đời sống văn hóa cơ sở. - Góp phần cung cấp các thông tin về phương diện hoạt động của đời sống văn hóa; nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” trên địa bàn xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. - Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, giảng viên trường Đại học Tây Bắc và những ai quan tâm đến vực xây dựng đời sống văn hóa cơ sở. 7. Cấu trúc của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài gồm có ba chương: Chương 1. Cơ sở của việc lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa ở xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Chương 2. Đảng bộ xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay. Chương 3. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. 6 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ CỦA VIỆC LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA Ở XÃ MƯỜNG BẰNG, HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Khái niệm văn hóa và đời sống văn hóa ở cơ sở Khái niệm văn hóa Ai đó đã từng nói rằng: “Mất nước còn có thể sáng tạo ra Đất nước nhưng mất văn hóa là mất tất cả” điều đó cho thấy rằng văn hóa hóa có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với vận mệnh của con người. Cho tới nay, khái niệm văn hóa có rất nhiều cách hiểu khác nhau, liên quan đến mọi mặt của đời sống xã hội. Nghĩa là việc xác định khái niệm khái niệm văn hóa là không hề đơn giản vì mỗi tác giả đều xuất phát từ những nguồn cứ liệu riêng, góc độ riêng, mục đích riêng phù hợp với vấn đề nghiên cứu của mình. Chủ nghĩa Mác - Lênin, khi nghiên cứu quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người đã khái quát các loại hình hoạt động của xã hội thành hai hoạt động cơ bản là “sản xuất vật chất” và “sản xuất tinh thần”. Với ý nghĩa đó, theo nghĩa rộng, văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần: Văn hóa vật chất là năng lực sáng tạo của con người được thể hiện và kết tinh trong sản phẩm vật chất. Theo nghĩa hẹp, văn hóa chủ yếu được hiểu với ý nghĩa là văn hóa tinh thần. Văn hóa tinh thần là tổng thể các tư tưởng, lý luận và giá trị được sáng tạo ra trong đời sống tinh thần và hoạt động tinh thần của con người. Như vậy, văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình. Văn hóa biểu hiện trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, khoa học, pháp luật, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [3, 431]. 7 Người còn ghi thêm: “Năm điều lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc 1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường. 2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng. 3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội. 4. Xây dựng chính trị: dân quyền. 5. Xây dựng kinh tế” [3, tr.431]. Như vậy, theo Hồ Chí Minh văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất, tinh thần và phương thức sử dụng chúng do loài người sáng tạo ra nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn. Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc là phát triển tất cả các mặt của đời sống: từ kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, tâm lý, tư tưởng… theo hướng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sự thống nhất giữa các quan niệm trên là đều xem lao động sáng tạo là cội nguồn của văn hóa và chính văv hóa đã đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân, làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt mang tính nhân bản sâu sắc, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách có lý trí và tình cảm trong khát vọng vươn tới cái Chân - Thiện - Mỹ. Từ đó ta có thể khái quát lại như sau: Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lao động (bao gồm cả lao động chân tay và lao động trí óc) bị chi phối bởi môi trường xung quanh và tính cách của từng tộc người. Văn hóa là nền tảng chi phối hành vi ứng xử của con người với thế giới xung quanh, được biểu hiện trong tất cả các lĩnh vực của ời sốg xã hội. Văn hóa là những giá trị có tính ổn định tương đối, có cái trường tồn khá lâu trong lịch sử nhưng cũng có cái thay đổi hết sức nhanh chóng. Văn hóa giúp con người tự hoàn thiện, khắc họa bản sắc tính cách riêng của một cộng đồng, có tầm quan trọng to lớn và ý nghĩa cách mạng sâu xa đối với vận mệnh con người. Chính vì vậy, văn hóa giúp cho xã hội duy trì trạng thái cân bằng động, là nội lực thúc đẩy cho sự phát triển toàn xã hội. Khái niệm đời sống văn hóa ở cơ sở Từ khái niệm văn hóa trên ta thấy cần phải xây dựng đời sống văn hóa ở tất cả các cơ sở trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội hay nói cách khác chính là xây dựng đời sống văn hóa cơ sở. Tuy nhiên, đời sống văn hóa cơ sở là khái niệm mang tính phổ quát và cần có sự thống nhất về cách hiểu để có thể vận dụng đúng và phù hợp. 8 Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã làm rõ khái niệm “Đời sống văn hóa” trong cuốn sách “Đời sống mới” (3/1947). Thực chất đời sống văn hóa là “đời sống mới” với ba nội dung: đạo đức mới, lối sống mới, nếp sống mới. Ba nội dung có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó đạo đức mới giữ vai trò chủ yếu. Đạo đức mới là thực hành đạo đức cần, kiệm, liêm, chính. Người cũng nhiều lần khẳng định: “Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân…” [23, 104/110]. Lối sống mới là lối sống có lý tưởng, có đạo đức, văn minh, tiên tiến, kết hợp hài hòa giữa truyền thống dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Nếp sống mới là nếp sống văn minh, là quá trình làm cho lối sống mới dần trở thành thói quen, kế thừa và phát triển thuần phong mỹ tục lâu đời của dân tộc. Theo người, đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ, cái gì cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì sửa đổi. Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm. Cái gì mới thì phải làm, phải bổ sung. Người cũng chỉ rõ xây dựng đời sống mới phải bắt đầu từ việc sửa đổi những việc rất cần thiết, rất phổ thông trong đời sống của mọi người, tức là sửa đổi cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc của mỗi người, mỗ gia đình có như vậy, xây dựng đời sống mới mới thực sự phổ biến trong toàn xã hội. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra những khó khăn, phức tạp khi xây dựng cái mới phải đấu tranh với sức ỳ của cái xấu. Khi những thói xấu đã trở thành nếp thì việc xóa bỏ nó không hề dễ dàng, ngay một lúc khó có thể làm được, mà phải kiên trì, thường xuyên xây dựng để tạo ra nếp sống mới. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, đời sống văn hóa bao gồm toàn bộ các hoạt động xây dựng đạo đức mới, lối sống mới, nếp sống mới của cá nhân và cộng đồng nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và phát triển của con người trong điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Trong cuốn “Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng đời sống văn hóa ở nước ta” (1999), Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội của GS. Hoàng Vinh viết: “Đời sống văn hóa là sự hiện diện, tồn tại và phát triển của đời sống tinh thần trong toàn bộ hoạt động thực tiễn xã hội. Đời sống văn hóa với mọi sản phẩm vật chất và tinh thần, với mọi hoạt động của con người thuộc mọi lĩnh vực của xã hội. Đời sống văn hóa bao gồm một tổng thể các hoạt động văn hóa, những tác động qua lại trong đời sống của mỗi cá nhân với cộng đồng, nhằm đáp ứng nhu cầu của con người và thúc đẩy sự phát triển của đời sống xã hội” [20, 65]. 9 Từ đó cho thấy rằng, nhu cầu văn hoá thể hiện phương diện chất lượng hoạt động sống của con người nhằm hướng tới cái đúng, cái tốt và cái đẹp trong cả lĩnh vực hoạt động vật chất và tinh thần. Còn hoạt động văn hóa là một bộ phận của hoạt động xã hội nhằm tạo ra các thành tựu văn hóa, vừa thỏa mãn các nhu cầu về văn hóa, vừa hướng con người tới các giá trị của cái đúng, cái tốt đẹp thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Hoạt động văn hóa bao gồm quá trình sáng tạo, sản xuất, bảo quản, phổ biến và tiêu dùng các sản phẩm văn hóa. Các sản phẩm văn hóa bao gồm có: sản phẩm văn hóa vật thể và phi vật thể. Trong đó, sản phẩm văn hóa vật thể là loại sản phẩm văn hóa hữu hình dưới dạng vật thể như các công trình kiến trúc, các tác phẩm văn chương, danh lam thắng cảnh, cổ vật và bảo vật… Các sản phẩm văn hóa phi vật thể là loại sản phẩm văn hóa không hiện hữu một cách cố định, tồn tại dưới dạng các quan niệm về giá trị và chuẩn mực xã hội, được ghi nhận và lưu truyền trong ký ức của xã hội. Đó là các huyền thoại, truyền thuyết, không gian văn hóa, lễ hội, diễn xướng dân gian, tinh thần dân tộc và các giá trị đạo đức, thẩm mỹ… Sự tồn tại kết hợp hai loại sản phẩm văn hóa trên tạo ra môi trường văn hóa tinh thần liên kết sức mạnh của các nhóm xã hội và các thế hệ tạo nên sức sống của một dân tộc, một đất nước góp phần hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách con người. Các sản phẩm văn hóa tác động đến cộng đồng thông qua các thiết chế văn hóa - xã hội như gia đình, trường học, thư viện, trung tâm văn hóa… Đây là “cốt vật chất” để tổ chức và truyền tải các giá trị văn hóa tới cộng đồng. Tóm lại, đời sống văn hóa là tất cả nội dung, cách thức và hình thức hoạt động văn hóa nhằm đáp nhu cầu hưởng thụ và phát triển của con người trong điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Đó cũng chính là quá trình hưởng thụ và sáng tạo các giá trị văn hóa vì sự phát triển của con người và cộng đồng. Từ khái niệm đời sống văn hóa ta có thể kết luận rằng: đời sống văn hóa cơ sở là đời sống văn hóa diễn ra ở cơ sở như cộng đồng, gia đình, làng bản, trường học, các cơ quan đơn vị hành chính sự nghiệp ở cơ sở… Đó là các hoạt động văn hóa gắn liền vật chất và tinh thần của cá nhân, cộng đồng trong các mối liên kết thường xuyên và trực tiếp với không gian địa lý nhất định cùng với hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật và các thiết chế văn hóa nhất định. Các cộng đồng dân cư sống cố định hình thành nên các tổ chức hành chính (xã, phường, thị trấn, trường học, bệnh viện…) hay các cộng đồng nhỏ hơn (bản, tổ dân phố, tiểu khu…) đều có thể được gọi là các đơn vị văn hóa cơ sở. 10 1.1.2. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng đời sống văn hóa trong thời kỳ đổi mới Trên cơ sở quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn coi trọng việc xây dựng nền văn hóa dân tộc, xây dựng đạo đức mới, nếp sống mới, lối sống mới tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sau Đại hội VI năm 1986, Đảng ta tiến hành đổi mới toàn diện từ kinh tế, chính trị, ngoại giao,văn hóa… Trong đó, đổi mới về văn hóa là một vấn đề rất quan trọng. Cụ thể, trong nghị quyết của Đại hội VI, Đảng ta chủ trương: “…xây dựng nền nếp sống và làm việc theo pháp luật, khôi phục trật tự, kỷ cương trong mọi hoạt động của nhà nước và sinh hoạt xã hội; nêu cao tính tự giác, ý thức tôn trọng của mỗi người kết hợp với các biện pháp giáo dục và hành chính của các tổ chức xã hội và các cơ quan nhà nước. Sự quan tâm đến con người và thái độ tôn trọng lẫn nhau phải trở thành một tiêu chuẩn đạo đứctrong mọi hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội nhất là trong các dịch vụ phục vụ đông đảo nhân dân” [12, 88-89]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) đánh dấu bước phát triển trong tư duy của Đảng về văn hóa, vai trò của văn hóa và nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng lối sống, nếp sống văn hóa lành mạnh. Trong nghị quyết của Đại hội VIII, Đảng ta khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát triển của xã hội. Kế thừa và phát huy các giá trị tinh thần, đạo đức và thẩm mỹ, các di sản văn hóa, nghệ thuật của dân tộc” [14, 110-111]. Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương V (khóa VIII) năm 1998 về “Đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng đời sống văn hóa với tư cách là một trong bốn nhóm giải pháp lớn được đề ra trong Nghị quyết Trung ương V (khóa VIII) nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Hội nghị xác định phương hướng xây dựng và phát triển văn hoá là: “phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà 11 bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” [15, 5455]. Trong đó, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc. Đảng ta đã nhấn mạnh: “Tạo ra ở các đơn vị cơ sở (gia đình, làng, bản, xã, phường, khu tập thể, cơ quan, xí nghiệp, nông trường, lâm trường, trường học, đơn vị bộ đội...), các vùng dân cư (đô thị, nông thôn, miền núi...) đời sống văn hóa lành mạnh, đáp ứng những nhu cầu văn hóa đa dạng và không ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân dân... Phát triển và không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa ở cơ sở; đầu tư xây dựng một số công trình văn hoá trọng điểm tầm quốc gia. Tăng cường hoạt động của các tổ chức văn hóa, nghệ thuật chuyên nghiệp, phát triển phong trào quần chúng hoạt động văn hóa, nghệ thuật” [15, 59-60]. Trên cơ sở quan tâm sâu sắc đến vấn đề đời sống văn hóa và xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương 5 khóa VIII chủ trương xây dựng một xã hội: "Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương, phép nước, quy ước của cộng đồng, có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái" [15, 58-59]. Hội nghị Trung ương 10 khóa IX Đảng ta nhấn mạnh những nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện trong giai đoạn này: Tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết là các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và trong cá nhân, gia đình, thôn xóm, đơn vị, tổ chức cơ sở… Cần xác định đây là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên, vừa cấp bách, vừa cơ bản, lâu dài. Gắn nhiệm vụ xây dựng văn hóa với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng thông qua cuộc vận động lớn về xây dựng đạo đức, lối sống theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Cụ thể hóa các chuẩn mực đạo đức, lối sống cho phù hợp với từng đối tượng cụ thể. Nâng cao chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam theo năm đức tính được xác định trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII. Chú trọng 12 xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, nhất là cộng đồng dân cư, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tốt đẹp, phong phú. Thường xuyên nâng cao trình độ phổ cập văn hóa đáp ứng nhu cầu văn hóa ngày càng cao và đa dạng của nhân dân đi đôi với nhiệm vụ bồi dưỡng các tài năng văn hóa, khuyến khích văn nghệ sĩ sáng tạo được nhiều công trình văn hóa - nghệ thuật tiêu biểu có giá trị cao về tư tưởng - nghệ thuật, tương xứng với sự nghiệp cách mạng của dân tộc và công cuộc đổi mới. Những nhiệm vụ trên đây phải được tiến hành đồng bộ, thường xuyên và phải được cụ thể hoá ở từng giai đoạn, từng địa phương. Đại hội lần thứ X của Đảng (4-2006) khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội” [17, 106]. Đại hội nhấn mạnh đến ba lĩnh vực quan trọng cần phải tập trung chỉ đạo, đó là: Xây dựng môi trường, lối sống và đời sống văn hóa của mọi người dân ở cơ sở. Phát huy tinh thần tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của nhân dân trong việc tổ chức và xây dựng đời sống văn hóa. Đa dạng hóa các hình thức hoạt động của phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Phát huy tiềm năng, khuyến khích các sáng tạo văn học, nghệ thuật, tạo ra những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Đây là một trong những nhiệm vụ trung tâm nhằm tạo ra những tác phẩm văn học, nghệ thuật tiêu biểu, phản ánh sức sáng tạo của nền văn hóa mới mà chúng ta xây dựng. Xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa, chú trọng các công trình văn hóa lớn, tiêu biểu. Nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống nhà văn hóa, bảo tàng, nhà truyền thống, thư viện,... Đây là những tư tưởng cơ bản, cốt lõi có ý nghĩa chỉ đạo chiến lược cho quá trình xây dựng và phát triển văn hóa nói riêng, xây dựng và phát triển đất nước nói chung trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Tiếp tục kế thừa và phát triển những quan của các kỳ Đại hội trước đó, gần đây nhất, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011) của Đảng xác định nền văn hóa ở nước ta là: “Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng 13 tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”[18, 75]. “Kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ nhận thức, đạo đức, thể lực và thẩm mĩ ngày càng cao”[18, tr.76]. Quan điểm trên của Đảng thể hiện sự nhất quán của Đảng trong nhìn nhận đánh giá, chỉ đạo xây dựng và phát triển văn hóa, gắn chặt với chiến lược xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội tiếp tục khẳng định củng cố và xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, đưa phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả. Từ sự phân tích trên có thể thấy, vấn đề văn hóa và xây dựng đời sống văn hóa cơ sở đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm đến từ rất sớm và coi việc phát triển văn hóa và xây dựng đời sống văn hóa cơ sở là những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là động lực lớn cho thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và đặc biệt là trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa mà toàn Đảng và toàn toàn dân ta đang xây dựng. 1.2. Cơ sở thực tiễn 1.2.1. Sự cần thiết xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở Đời sống văn hoá ở cơ sở là một bộ phận cấu thành có ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã hội nói chung. Vì nó góp phần thể hiện chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng. Việc đánh giá những thành quả của đất nước qua mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn lịch sử không chỉ bằng thước đo về điều kiện vật chất, mức sống, mức thu nhập mà còn thể hiện ở khả năng đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần, sự tiến bộ về nếp sống, lối sống, sự phát triển hài hòa giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của người dân. Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở nhằm xoá bỏ sự chênh lệch về mức sống, mức hưởng thụ văn hoá giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo. Tạo sự công bằng xã hội mà ngay từ Đại hội V, Đảng ta đã đặt ra và trở thành định hướng chung cho toàn ngành văn hoá thông tin phấn đấu thực hiện mà thành tựu của nó ngày nay đã chứng minh cho điều đó. Thực tế lịch sử đã chứng minh, trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo thì văn hoá luôn luôn chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Điều đó được thể hiện rõ qua các thời kỳ cách mạng cụ thể: 14 Trong cuộc kháng chiến chống thực dân đế quốc thì “Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận”. Xây dựng nền văn hoá không thể không bắt đầu từ nơi văn hoá đã ngấm sâu, đã có cội rễ bền chắc như các cơ sở xã, phường, thị trấn và các cơ sở khác. Xây dựng đời sống văn hoá cũng có nghĩa là xây dựng con người, bởi thế phải bắt đầu từ những con người cụ thể với địa chỉ cụ thể. Việc xây dựng đời sống văn hoá có ý nghĩa như bước đi ban đầu của toàn bộ sự nghiệp văn hoá và phải do chính nhân dân xây dựng. Nhân dân phải là chủ thể sáng tạo văn hoá chứ không phải chỉ là người tiêu dùng văn hoá. Nhận thức đúng đắn vấn đề này có ý nghĩa thiết thực trong tổ chức chỉ đạo mọi hoạt động văn hoá ở cơ sở. Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở là xây dựng văn hoá ngay từ trong gia đình và trong cộng đồng dân cư, cộng đồng nghề nghiệp diễn ra sinh hoạt văn hoá thường nhật của quần chúng nhân dân, có mối quan hệ hữu cơ với kinh tế, chính trị. Đại hội lần thứ VII (6-1991) đã xác định nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc là một trong sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Như vậy, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là một nhiệm vụ trọng yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở cũng là một động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở. Muốn xoá đói giảm nghèo mà không có trình độ hiểu biết, trình độ văn hoá thì khó có thể thực hiện được. Muốn có môi trường xã hội lành mạnh phải xây dựng con người lành mạnh. Phương châm lấy xây dựng đời sống văn hoá để phòng, chống tệ nạn xã hội vẫn là phương châm đúng đắn và có hiệu quả cao. Mặt khác việc xoá đói giảm nghèo, việc xây dựng điện, đường, trường, trạm… ở các cơ sở lại là điều kiện tốt cho việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở. Ở một phương diện khác, xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở là cuộc đấu tranh gay gắt trên mặt trận tư tưởng văn hoá. Đó là cuộc đấu tranh nhằm khẳng định các giá trị dân chủ, nhân văn và tiến bộ của văn hoá; giáo dục nếp sống đạo đức và phong cách ứng xử có văn hoá cho mọi người; phát triển văn hoá dân tộc đi đôi với việc mở rộng giao lưu văn hoá nước ngoài; vừa giữ gìn và phát huy văn hoá dân tộc, vừa tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới. Việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở có ý nghĩa thiết thực và hiệu quả trực tiếp vì nó tác động trực tiếp, thường xuyên đến mọi tầng lớp nhân dân lao động, có ảnh hưởng lớn đến đời sống của nhân dân. Cụ thể nó tác động trực tiếp tới việc hình thành 15 nhận thức đúng đắn trong nhân dân về chính trị, kinh tế được giải phóng về nhân cách và lối sống. Tạo ra một sự liên hợp giữa cá nhân và cộng đồng, bảo vệ văn hóa dân tộc, quyết tâm đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, dù phải hy sinh đến cuộc sống của mỗi người. 1.2.2. Thực trạng công tác xây dựng đời sống văn hóa ở xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La trước năm 2000 Thành tựu Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 5 (khóa VIII) năm 1998, Đảng ta đưa ra nghị quyết về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng đời sống văn hóa với tư cách là một trong bốn nhóm giải pháp lớn được đề ra trong nghị quyết Trung ương 5 (Khóa VIII) nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Thực hiện nghị quyết trên của Đảng, Công tác xây dựng đời sống văn hóa ở nước ta được chú trọng phát triển. Bước đầu triển khai cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” trên phạm vi toàn quốc. Hưởng ứng kế hoạch trên, ở nước ta xuất hiện nhiều phong trào vận động khác nhau của nhiều nghành, nhiều giới hướng về xây dựng văn hóa ở cơ sở. Hòa chung với các phong trào trên cả nước để thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng đời sống văn hóa, Tỉnh ủy tỉnh Sơn La đã ban hành nhiều chương trình, đề án, dự án quan trọng để chỉ đạo thực hiện phong trào như: Chương trình hành động số 04 CTr/TU về đẩy mạnh phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” trên địa bàn tỉnh Sơn La, Tỉnh ủy cũng ban hành nhiều chỉ thị như: Chỉ thị 11/CT – TU về “Đẩy mạnh thực hiện đề án xây dựng thiết chế văn hóa, thông tin, thể thao đồng bộ ở cơ sở”; Chỉ thị số 06, 08 và Chỉ thị 19/CT – TU về thực hiện nếp sống văn hóa trong việc cưới, việc tang, lễ hội... triển khai tới các ban nghành đoàn thể và tới cá địa phương cụ thể. Huyện ủy Mai Sơn, tiếp thu triển khai thực hiện nghị quyết, chỉ thị và các chương trình hành động của Tỉnh ủy Sơn La thông qua các chương trình hành động, phong trào thi đua yêu nước, qua hệ thống các thiết chế văn hóa để vận động quần chúng nhân dân thực hiện; cụ thể hóa thành lực lượng vật chất, thành phong trào cách mạng; tạo ra những kết quả cụ thể nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho nhân dân, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, trực tiếp xây dựng nền tảng tinh thần cho xã hội. Là một trong những xã trọng điểm của huyện Mai Sơn về thực hiện cuộc vận động phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Từ 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất