HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHẠM THỊ KIM LAN
§¶NG Bé TØNH TH¸I B×NH L·NH §¹O
§µO T¹O NGUåN NH¢N LùC CHO N¤NG NGHIÖP
Tõ N¡M 2001 ®ÕN n¨M 2010
Chuyên ngành
: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số
: 62 22 03 15
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS NGUYỄN TRỌNG PHÚC
2. PGS.TS VŨ QUANG VINH
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích
dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả luận án
Phạm Thị Kim Lan
MỤC LỤC
Trang
1
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.2. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã
công bố và những vấn đề luận án tập trung giải quyết
Chương 2: CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH
THÁI BÌNH VỀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHO
NÔNG NGHIỆP TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005
2.1. Những yếu tố tác động đến công tác đào tạo nguồn nhân lực cho
nông nghiệp tỉnh Thái Bình
2.2. Quan điểm của Trung ương Đảng và chủ trương của Đảng bộ tỉnh
Thái Bình về đào tạo nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực
cho nông nghiệp nói riêng
2.3. Đảng bộ tỉnh Thái Bình chỉ đạo thực hiện đào tạo nguồn nhân
lực cho nông nghiệp (2001 – 2005)
Chương 3: ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH LÃNH ĐẠO ĐÀO TẠO
NGUỒN NHÂN LỰC CHO NÔNG NGHIỆP GÓP PHẦN
ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN (2006 -2010)
7
7
18
21
21
37
51
62
3.1. Yêu cầu mới và quan điểm của Đảng về đào tạo nguồn nhân lực
từ năm 2006 đến năm 2010
3.2. Đảng bộ tỉnh Thái Bình vận dụng chủ trương của Trung ương
Đảng về đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp
73
Chương 4: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
4.1. Một số nhận xét
4.2. Kinh nghiệm
109
109
127
KẾT LUẬN
142
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
62
146
147
162
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNXH
:
Chủ nghĩa xã hội
CNH, HĐH :
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ĐBSH
:
Đồng bằng sông Hồng
GD - ĐT
:
Giáo dục - đào tạo
KHCN
:
Khoa học công nghệ
KT - XH
:
Kinh tế - xã hội
NNL
:
Nguồn nhân lực
NTM
:
Nông thôn mới
UBND
:
Ủy ban nhân dân
XHCN
:
Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Số lượng máy móc trong sản xuất nông nghiệp
30
Bảng 2.2: Tỷ lệ lao động chia theo trình độ chuyên môn kỹ thuật
năm 2000
35
Bảng 3.1: Số lao động khu vực nông thôn chia theo trình độ
chuyên môn của Thái Bình và các tỉnh đồng bằng sông
Hồng năm 2010
103
Bảng 3.2: Số lượng và cơ cấu hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản giai
đoạn 2006-2010 của Thái Bình và một số tỉnh lân cận
Bảng 3.3: Số lượng trang trại của Thái Bình năm 2010
105
106
Bảng 3.4: Đóng góp của các ngành kinh tế vào tốc độ tăng trưởng
của Thái Bình so sánh qua 2 giai đoạn 2001-2005 và
2006-2010
107
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong các nguồn lực tập trung cho sự phát triển, như: tài nguyên thiên
nhiên, vốn, khoa học công nghệ (KHCN), con người… thì nguồn lực con
người là quan trọng nhất và có tính quyết định cho mỗi quốc gia. Nếu có tài
nguyên thiên nhiên phong phú, máy móc kỹ thuật hiện đại mà không có con
người có trình độ, năng lực, phẩm chất và sức khỏe để làm chủ trong sử dụng
nguồn tài nguyên đó thì khó có khả năng đạt được sự phát triển như mong
muốn. Con người, vì vậy là nguồn lực trực tiếp và là trung tâm của sự phát
triển. Theo Ph.Ăngghen họ phải là những người “có khả năng nắm vững
nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản xuất trong thực tiễn..., họ có thể lần lượt
chuyển từ ngành sản xuất này sang ngành sản xuất nọ tuỳ theo nhu cầu của xã
hội hoặc tuỳ theo sở thích của bản thân họ" [25, tr.475]. Trong tác phẩm "Bàn
về chế độ hợp tác xã”, V.I Lênin lý giải khoa học, cặn kẽ vì sao con người lại
là lực lượng sản xuất hàng đầu. Con người xã hội chủ nghĩa (XHCN) không
thể chỉ biết chữ, mà còn là sản phẩm của nền giáo dục hiện đại. Nếu trước kia
chỉ cần giáo dục cho giai cấp công nhân và những người lao động ý thức
chính trị, nhiệt tình cách mạng, thì giờ đây, phải đào tạo họ thành những
người lao động có cả tri thức và tay nghề [174, tr.421].
Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế nông nghiệp truyền thống. Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định trong Thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam ngày 114-1946: “Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy
canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông
mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn. Nông dân ta
giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh” [81, tr.215].
Trong sự phát triển của kinh tế nông nghiệp, Người đặc biệt coi trọng vai trò
của nông dân: “Nông dân ta đông người nhất, kinh tế nông nghiệp quan trọng
nhất; nông dân ta đã anh hùng trong cách mạng, trong kháng chiến, trong cải
cách ruộng đất, thì trong cuộc cách mạng biến đổi nông nghiệp từ thấp lên cao
2
này nông dân ta cũng phải là anh hùng” [82, tr.184]. Người cho rằng trong
thời đại cách mạng mới, người nông dân không chỉ cần cơm no, áo ấm, mà
còn cần được nâng cao dân trí, để đóng góp được nhiều hơn cho đất nước.
Vấn đề kinh tế nông nghiệp, nông thôn được Đảng tiếp tục quan tâm
ngay từ khi bắt đầu tiến hành sự nghiệp đổi mới. Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) xác định một trong
những phương hướng cơ bản trong quá trình xây dựng XHCN: Phát triển lực
lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát
triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội (CNXH), không ngừng nâng
cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân [54, tr.135].
Trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000,
Đảng xác định: xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để
ổn định tình hình kinh tế - xã hội (KT - XH). KT - XH phát triển gắn với xây
dựng nông thôn mới (NTM). Đảng chủ trương phát triển mạnh các ngành nghề,
đặc biệt là công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, đưa nhanh kỹ thuật nông nghiệp
và công nghệ mới đến từng hộ nông dân, giảm bớt việc làm và thay đổi cơ cấu
lao động, giảm bớt số lao động sản xuất nông nghiệp [54, tr.163].
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH),
Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X (2008) khẳng
định: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp
CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc..., CNH, HĐH nông nghiệp, nông
dân, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình CNH, HĐH
đất nước. Đồng thời, trong mối quan hệ nông nghiệp, nông thôn, nông dân, Đảng
luôn coi nông dân là chủ thể của quá trình phát triển, do đó đào tạo nguồn nhân
lực phục vụ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ
được Đảng quan tâm hàng đầu.
Để đưa Nghị quyết vào cuộc sống, ngày 27/11/2009, Đề án Đào tạo
nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê
3
duyệt, nhằm tăng cường đầu tư đào tạo nghề cho lao động nông thôn, nâng
cao chất lượng lao động nông thôn. Mục tiêu đề án đặt ra là mỗi năm đào tạo
1 triệu lao động nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu
kinh tế phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn [115].
Thái Bình là một tỉnh nằm trong khu vực đồng bằng Bắc Bộ, có vị trí
địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển kinh tế nông nghiệp toàn
diện. Trong lịch sử, Thái Bình là tỉnh đầu tiên của miền Bắc đạt năng suất lúa
5 tấn/ha, góp phần quan trọng trong việc cải thiện đời sống người nông dân,
ổn định nông thôn, xây dựng miền Bắc lớn mạnh, đồng thời hoàn thành xuất sắc
vai trò hậu phương lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc.
Trong thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và đặc biệt là giai đoạn đẩy
mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, bộ mặt nông thôn Thái Bình đã có
nhiều thay đổi, đời sống của nhân dân từng bước được nâng lên.
Tuy nhiên, đến năm 2000 kinh tế Thái Bình chủ yếu vẫn là nông nghiệp,
kinh tế nông nghiệp cơ bản vẫn là độc canh cây lúa bằng hình thức tự sản, tự
tiêu. Tâm lý sản xuất nhỏ của người nông dân đã hạn chế quá trình phát triển
của nền kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa trong thời kỳ hội
nhập. Với đặc điểm trên 90% dân số sống ở vùng nông thôn và là lao động
nông nghiệp, phần lớn lao động nông thôn chưa được đào tạo, dạy nghề cơ
bản, mà lao động bằng kinh nghiệm là chủ yếu nên năng suất lao động xã hội
thấp, chất lượng sản phẩm hạn chế, khả năng cạnh tranh không cao. Nhiều sản
phẩm trước đây là thế mạnh của tỉnh thì nay trước sự cạnh tranh gay gắt của
thị trường nên bị mai một. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động
diễn ra chậm. Mặt khác, nghề và làng nghề truyền thống vốn có của tỉnh,
trước điều kiện mới của sự phát triển KT - XH và hội nhập, có xu hướng
chững lại, không phát triển nên thời gian lao động nông nhàn lớn, đời sống
nông dân gặp nhiều khó khăn, gây ra nhiều tác động xấu đến tình hình KT XH của tỉnh. Sự phân hóa giàu nghèo đang diễn ra mạnh mẽ, là vấn đề xã hội
bức xúc cần được quan tâm giải quyết.
4
Để thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, đạt mục tiêu đến
năm 2020 cả nước nói chung và Thái Bình nói riêng cơ bản là tỉnh công
nghiệp theo hướng hiện đại và lao động nông nghiệp chỉ còn khoảng 30%
phải có khoảng 70% lao động được qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật và
chuyển đổi nghề nghiệp sang lĩnh vực phi nông nghiệp hoặc tiếp tục làm nông
nghiệp theo hướng hiện đại, sản xuất hàng hóa. Do đó, đào tạo nguồn nhân
lực (NNL) cho nông nghiệp là vấn đề cấp bách và cần thiết đối với sự nghiệp
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của tỉnh. Việc tổng kết thực tiễn, đánh
giá quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo đào tạo NNL cho nông nghiệp
trong 10 năm đầu của thế kỷ XXI, đúc rút những kinh nghiệm chủ yếu là một
trong những nội dung quan trọng, cần thiết đối với quá trình lãnh đạo phát
triển KT - XH của tỉnh trong những giai đoạn tiếp theo.
Với những lý do trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài: “Đảng bộ tỉnh Thái
Bình lãnh đạo đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp từ năm 2001 đến năm
2010” làm đề tài luận án tiến sỹ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo đào tạo NNL cho
nông nghiệp trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn từ năm 2001
đến năm 2010 nhằm tổng kết thực tiễn và đúc kết những kinh nghiệm có giá
trị; góp phần cung cấp một số luận cứ khoa học, có cơ sở lịch sử cho việc
hoạch định chủ trương phát triển NNL cho nông nghiệp, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới của tỉnh Thái Bình.
2.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những yếu tố tác động đến đào tạo NNL cho nông nghiệp tỉnh
Thái Bình khi bước vào thế kỷ XXI;
- Hệ thống khái quát các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng
Cộng sản Việt Nam và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thái Bình về đào tạo
NNL cho nông nghiệp trong 10 năm (2001-2010);
5
- Làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh chỉ đạo thực hiện đào tạo NNL cho
nông nghiệp từ 2001 đến năm 2010;
- Nhận xét những thành tựu, hạn chế và đúc kết kinh nghiệm từ sự lãnh đạo
của Đảng bộ tỉnh Thái Bình trong đào tạo NNL cho nông nghiệp (2001-2010).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là chủ trương và quá trình chỉ đạo thực
hiện đào tạo NNL cho nông nghiệp của Đảng bộ tỉnh Thái Bình từ năm 2001
đến năm 2010.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: NNL cho nông nghiệp là khái niệm rộng bao gồm nhiều
đối tượng như: nông dân, cán bộ khoa học kỹ thuật nông nghiệp, cán bộ quản
lý nông nghiệp… Tuy nhiên, luận án tập trung nghiên cứu, làm rõ chủ trương
và chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ tỉnh Thái Bình về đào tạo NNL cho nông
nghiệp chủ yếu ở đối tượng nông dân.
- Về thời gian: Từ năm 2001 đến năm 2010.
- Về không gian: Trên địa bàn nông thôn tỉnh Thái Bình.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam về NNL nói chung,
NNL cho nông nghiệp nói riêng; đặc biệt là những quan điểm của Đảng trong
công cuộc đổi mới.
Dựa vào cơ sở lý luận trên, luận án khai thác các nguồn tư liệu: văn kiện
của Đảng và Nhà nước, văn kiện của Đảng bộ tỉnh Thái Bình, UBND tỉnh
Thái Bình và các nguồn tư liệu của các cơ quan, ban, ngành có liên quan.
Luận án còn kế thừa tư liệu từ kết quả nghiên cứu của các công trình
khoa học đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn đào tạo NNL nói
chung và đào tạo NNL cho nông nghiệp nói riêng.
6
Đồng thời, luận án bổ sung thêm các tư liệu do cá nhân tự sưu tầm.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic là chủ yếu.
Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp khác như: phương pháp tổng hợp, phân
tích, so sánh, thống kê, khảo sát thực tiễn, phỏng vấn nhân chứng lịch sử có liên
quan tới công tác đào tạo NNL cho nông nghiệp để minh chứng và luận giải quá
trình Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo đào tạo NNL cho nông nghiệp từ năm
2001 đến năm 2010.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
- Luận án góp phần làm rõ hơn vai trò của lực lượng sản xuất trong quá
trình phát triển KT - XH trong đó vai trò cốt yếu là NNL.
- Từ thực tiễn đào tạo NNL cho nông nghiệp tỉnh Thái Bình, luận án khắc
họa rõ nét về quá trình phát triển trong nhận thức cũng như trong thực tiễn về
đào tạo NNL cho nông nghiệp qua 2 giai đoạn 2001-2005 và 2006-2010.
- Từ thành công và hạn chế trong quá trình lãnh đạo đào tạo NNL cho
nông nghiệp của Đảng bộ tỉnh Thái Bình, luận án đúc kết một số kinh nghiệm
chủ yếu có giá trị lý luận và thực tiễn.
- Luận án có thể làm tư liệu tham khảo cho các cấp, các ngành của tỉnh
Thái Bình trong đào tạo NNL cho nông nghiệp nói riêng và NNL nói chung.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận án gồm 4 chương, 9 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Vấn đề đào tạo NNL đáp ứng yêu cầu thời đại, yêu cầu phát triển KT XH đất nước đã có nhiều công trình, đề tài đề cập dưới nhiều góc độ khác
nhau. Trong quá trình nghiên cứu, có thể chia thành 3 nhóm công trình nghiên
cứu như sau:
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực, đào tạo
nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực cho nông nghiệp nói riêng
Có thể kể đến những công trình sau:
Cuốn sách “Phát triển nguồn nhân lực kinh nghiệm thế giới và thực tiễn
nước ta”, tác giả Trần Văn Tùng và Lê Ái Lâm [143] đã làm rõ vai trò quyết
định của NNL đối với sự thành công của sự nghiệp đổi mới, tổng kết kinh
nghiệm phát triển NNL của thế giới; từ đó, đưa ra những giải pháp giáo dục –
đào tạo (GD - ĐT) nhằm góp phần phát triển NNL Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Bộ sách “Trên đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa” do Trung ương
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh chủ biên [137] chuyên bàn về NNL
trẻ. Các tác giả bắt đầu từ tiêu chuẩn 5M của kinh tế thế giới, từ đó bàn về vai
trò của GD - ĐT với phát triển NNL trẻ của đất nước; đặt ra những vấn đề
hiện tại đối với NNL trẻ nước nhà như: đây là lực lượng đông đảo, có tinh
thần hăng say, sáng tạo trong việc tiếp thu tri thức mới, tuy nhiên họ đang
đứng trước nhiều vấn đề: cần kiến thức chuyên môn, kiến thức xã hội, đang
loay hoay lựa chọn nghề nghiệp cho phù hợp với mình. Tác giả Đỗ Minh
Cương khẳng định đào tạo nghề phải gắn với các chiến lược phát triển KT XH, GD - ĐT phải đặt vấn đề đào tạo nghề ngang tầm với đào tạo đội ngũ trí
thức. Tác giả Phan Chính Thức đưa ra các giải pháp phát triển giáo dục
chuyên nghiệp và đào tạo công nhân lành nghề cho các khu công nghiệp.
8
Công trình “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” của tác giả Mai Quốc Chánh [26] đặc biệt
coi trọng NNL tri thức, coi đây là tài sản quý giá của tất cả các quốc gia, trong
đó không loại trừ Việt Nam. Tác giả khẳng định công cuộc đổi mới muốn thành
công thì đào tạo NNL tri thức là công việc cấp bách. Tác giả chỉ rõ thực trạng số
lượng và chất lượng NNL tri thức hiện nay, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp
xây dựng và phát triển NNL này.
Công trình “Nền kinh tế tri thức và yêu cầu đổi mới giáo dục Việt
Nam” của tác giả Trần Văn Tùng [144] bàn về vai trò của tri thức với kinh tế
thế giới, khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung và sự nghiệp đổi mới
ở Việt Nam nói riêng. Từ đó tác giả nêu lên những yêu cầu đối với sự nghiệp
GD - ĐT nhằm đáp ứng sự nghiệp xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng NNL cho
quốc gia, trong đó có NNL cho nông nghiệp.
Công trình “Phong trào thanh niên với việc đào tạo nguồn nhân lực trẻ”
của tác giả Trần Văn Miều [80] đề cập đến NNL Việt Nam tức là có lao động
đang làm trong các cơ quan, đơn vị; có lực lượng đang học tập và có lực
lượng chưa được huy động, chưa có việc làm. Vì vậy, ở nước ta hiện nay cần
3 phương án đào tạo NNL là đào tạo mới từ đầu, đào tạo lại và đào tạo thêm.
Bài toán phải giải trong những năm tới là đối với NNL dồi dào như ở nước ta
vấn đề là phát huy NNL đó như thế nào để đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước.
Cuốn sách “ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam - Lý luận và thực
tiễn” của tập thể tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Thế Nghĩa và Đặng Hữu
Toàn [27] đã đề cập đến nhiều vấn đề con người, những bất cập, đòi hỏi về nguồn
lực con người trước sự nghiệp CNH, HĐH, những vấn đề quan tâm, bồi dưỡng,
nâng cao chất lượng nguồn lực con người dưới các khía cạnh khác nhau.
Công trình “Nhân lực Việt Nam trong chiến lược kinh tế 2001-2010” của
nhóm tác giả Nguyễn Văn Đễ, Bùi Xuân Trường và Nguyễn Kim Liệu [58] đã
tập hợp các bài viết về vai trò của NNL Việt Nam trong chiến lược phát triển
9
kinh tế 2001 - 2010. Cuốn sách chia làm 4 phần: Kinh tế tri thức; Chiến lược
phát triển NNL Việt Nam trong chiến lược KT - XH giai đoạn 2001-2010;
Hướng tới nền kinh tế tri thức - cả nước với chương trình phát triển NNL giai
đoạn 2001- 2010; Những thông tin về GD - ĐT.
Công trình “Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước” của Đoàn Văn Khái [75] đã phân tích vai trò của nguồn lực
con người trong quá trình CNH, HĐH nước ta, lý giải hợp lý nguồn lực con
người là yếu tố quyết định của sự nghiệp CNH, HĐH. Tác giả đã làm rõ: cơ
sở lý luận cho việc đề ra chiến lược phát triển NNL; một số thực trạng, giải
pháp cho lao động đào tạo nghề; yêu cầu đặt ra đối với NNL trong quá trình
đổi mới ở Việt Nam.
Tác giả Vũ Bá Thể trong cuốn sách “Phát huy nguồn lực con người để
công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [113] đề cập đến vấn đề NNL sau khi được
đào tạo được sử dụng có hiệu quả trong sự nghiệp CNH, HĐH của đất nước
hiện nay.
Về vai trò của các tổ chức xã hội với đào tạo NNL, tác giả Lê Thanh Hà
trong cuốn sách “Phát triển nguồn nhân lực công nghiệp Việt Nam trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và vai trò của công đoàn” [66]
đã làm rõ những thực trạng sử dụng NNL ở Việt Nam, từ đó đưa ra các giải
pháp nhằm đào tạo thành công và sử dụng có hiệu quả NNL, trong đó đặc biệt
nhấn mạnh vai trò của tổ chức công đoàn.
Vấn đề NNL cho nông nghiệp cũng thu hút được sự quan tâm của rất
nhiều tác giả. Công trình “Đào tạo nghề giữ vai trò trọng tâm trong chính
sách phát triển” của Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ lao động Thương binh
và xã hội [17] đã đánh giá sâu sắc về những khía cạnh của đào tạo nhân lực
cho nông nghiệp. Công trình đưa ra quan điểm phải coi nông nghiệp là một
nghề thì đào tạo nhân lực cho nông nghiệp mới được coi trọng. Còn hiện nay
có một thực tế là nông nghiệp vẫn được xem là một hoạt động tiếp nối từ cha
mẹ, có tính chất cha truyền con nối.
10
Cuốn sách “Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn Việt Nam” của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn [18] đã tập hợp nhiều bài viết của nhiều tác
giả, trong đó hầu hết các tác giả đều khẳng định muốn CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn thành công thì quan trọng hàng đầu là NNL. Từ đó các tác
giả làm rõ thực trạng nguồn NNL cho nông nghiệp, hướng đi, biện pháp đào
tạo NNL này.
Cuốn sách “Cơ sở khoa học để xây dựng tiêu chí, bước đi, cơ chế,
chính sách trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn” do GS, TS Vũ Năng Dũng chủ biên [43] nêu ra nhiều cơ sở cho việc
xây dựng cơ chế, chính sách CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Với một
quốc gia phát triển nông nghiệp lâu đời như Việt Nam thì đào tạo NNL phục
vụ nông nghiệp, nông thôn trong bối cảnh toàn cầu, hội nhập là tất yếu lịch
sử. Tác giả khẳng định nguồn lực con người đạt chuẩn cả về số lượng và chất
lượng là cơ sở quan trọng nhất trong bất kỳ chính sách nào.
Trong cuốn sách “Con đường và bước đi công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam” do Nguyễn Kế Tuấn chủ biên [140]
làm rõ yêu cầu xây dựng và phát triển NNL ở nông thôn trong công cuộc đổi
mới; thực trạng của quá trình đào tạo và sử dụng NNL ở nông thôn Việt Nam
hiện nay; những cơ sở lý luận để xây dựng tiêu chí, cơ chế, chính sách về đào
tạo NNL ở nông thôn đáp ứng yêu cầu mới.
Cuốn “Tác động của hội nhập kinh tế đối với phát triển nông nghiệp
Việt Nam” do tác giả Nguyễn Từ chủ biên [146] đã phản ánh những thay đổi
của nông nghiệp, nông thôn hiện nay theo sự tác động của hội nhập kinh tế
quốc tế. Để theo kịp sự thay đổi ấy, NNL nông nghiệp cũng phải được đào
tạo, phát triển để không bị tụt hậu.
Cuốn sách “Nông dân, nông thôn và nông nghiệp, những vấn đề đang
đặt ra” của các tác giả Phạm Hữu Nghĩa, Nguyên Ngọc, Đặng Kim Sơn, Cao
Tự Thanh và Đào Thế Tuấn [85] viết về đề tài nông nghiệp, nông dân, nông
thôn. Các tác giả tuy xuất phát từ góc độ khác nhau để nêu và giải quyết vấn
11
đề nhưng đều chung nhau ở cách nhìn về thực trạng, hướng đi của nông thôn,
nông dân và nông nghiệp Việt Nam hiện nay là muốn CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn thành công thì điều cốt yếu là phải đào tạo những người
nông dân đủ năng lực làm giàu trên chính mảnh đất của mình.
Cuốn sách: “Cơ chế, chính sách hỗ trợ nông dân yếu thế trong quá
trình chuyển sang nền kinh tế thị trường”, của tác giả Vũ Dũng [44] bàn về
đối tượng nông dân yếu thế. Theo tác giả, nông dân yếu thế thuộc nhóm
người: nông dân nghèo, thiếu tư liệu sản xuất, một phần khá lớn là nông dân
vùng dân tộc thiểu sổ, kém phát triển, nông dân bị mất đất sản xuất do đô thị
hóa, hoặc những nông dân gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm. Họ hạn chế
trong việc chậm đổi mới tư duy, khả năng tính toán đầu vào, đầu ra của sản
phẩm kém, chưa thực sự nỗ lực vươn lên thoát nghèo. Vì vậy Đảng và Nhà
nước cần có những chính sách và biện pháp phù hợp hỗ trợ họ trong quá trình
chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Cuốn sách “Đường lối phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới (1986-2011)” của tác giả Nguyễn Ngọc
Hà [65] xuất phát từ thành tựu đạt được trong phong trào xây dựng NTM, từ đó
khẳng định những thành tựu đó bắt nguồn trước hết từ đường lối, chủ trương của
Đảng về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Tác giả đã hệ thống đường lối
phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng trong thời kỳ đổi mới, qua đó làm rõ
quá trình phát triển nhận thức của Đảng về kinh tế nông nghiệp trong chiến lược
phát triển KT - XH của đất nước.
Sau khi Nghị quyết số 26-NQ/TW của Đảng về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn đi vào cuộc sống, trở thành phong trào rộng khắp, tác giả Vũ Văn
Phúc đã nghiên cứu và biên soạn cuốn sách “Xây dựng nông thôn mới - những
vấn đề lý luận và thực tiễn”[88] tổng kết những vấn đề lý luận chung và kinh
nghiệm quốc tế về xây dựng NTM; và thực tiễn xây dựng NTM ở Việt Nam.
Bên cạnh các công trình chuyên khảo, trên các tạp chí khoa học có
một số bài viết về đào tạo nguồn nhân lực như: Phát triển bền vững nông
12
nghiệp và nông thôn của Trần An Phong [86]; Phát triển lao động kỹ thuật ở
Việt Nam trên bước đường toàn cầu hóa của Mạc Văn Tiến [117]; Đào tạo
nghề theo nhu cầu sử dụng của xã hội của Dương Đức Lân [76]; Đa dạng hóa
cơ cấu để phát triển số lượng và chất lượng nguồn nhân lực, của Nguyễn
Thanh Tuấn [141]; Giáo dục đào tạo với sự phát triển nguồn nhân lực của
Trần Thanh Đức [62]; Về công tác đào tạo nguồn nhân lực trong thời kỳ đổi
mới của Nguyễn Thắng Lợi [77]; Nâng cao chất lượng lao động đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn của Hồ Văn Vĩnh
[173]; Liên kết 4 nhà tạo đường băng để nông dân cất cánh của Mai Văn
Quyền [92]; Xây dựng nông thôn mới và vấn đề đặt ra của Phạm Tất Thắng
[112]; Đất và nghề: Nhu cầu bức thiết của nông dân của Trần Văn Đông [59];
Đào tạo nguồn nhân lực: còn nhiều việc phải làm, của Phạm Vĩnh Thái
[110]... Các bài báo của các tác giả đều bắt nguồn từ chủ trương đẩy mạnh
CNH, HĐH nông nghiệp của Đảng, đồng thời nhất quán chủ trương coi đào
tạo nhân lực chất lượng cao là một trong ba khâu đột phá để thực hiện thành
công sự nghiệp CNH, HĐH. Trên cơ sở đó các tác giả nêu rõ thực trạng về
đào tạo và sử dụng NNL ở nước ta hiện nay đông về số lượng nhưng chất
lượng lại chưa đáp ứng được yêu cầu KT - XH đặt ra; thực trạng của nông
nghiệp, nông dân, nông thôn hiện nay: ruộng đất bị chia nhỏ manh mún không
phù hợp với sản xuất hàng hóa, tiến độ áp dụng khoa học kỹ thuật chậm dẫn
đến năng suất lao động thấp, làng nghề thiếu công nghệ, sức cạnh tranh kém....
Các tác giả chỉ rõ: bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, đòi hỏi NNL làm sao
có thể chuyển mình kịp với nhu cầu của đất nước, thời đại. Vì vậy đào tạo NNL
đáp ứng thời kỳ mới của đất nước là công việc chung của cả xã hội.
Cùng với các công trình, bài viết trên, còn có các đề tài, chương trình
nghiên cứu về vấn đề này như: Chương trình khoa học - công nghệ cấp Nhà
nước: “ Con người Việt Nam. Mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội” mã số KX - 07 (1991 - 1995) do Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm [67]
đã nghiên cứu con người Việt Nam truyền thống và hiện đại, thực trạng và
13
vấn đề đào tạo lại đội ngũ nhân lực... Đặc biệt, công trình đã đưa ra cái nhìn
tổng thể mang tầm chiến lược về vấn đề con người trong sự nghiệp CNH,
HĐH. Đề tài khoa học cấp Bộ: “Xây dựng cơ sở lý luận cho chiến lược phát
triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ” của Bộ Khoa học - Công nghệ Môi trường [22]; “Lý luận, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2020” của Ban Nguồn nhân lực - Viện
Nghiên cứu chiến lược - Bộ Kế hoạch và Đầu tư [21]. Công trình nghiên
cứu của Đỗ Minh Cương “Lao động kỹ thuật ở Việt Nam - Lý luận và thực
tiễn” [39] đã phân tích lực lượng lao động nói chung trong đó đề cập sâu
đến hệ thống đào tạo nghề hiện nay, sản phẩm, kết quả của quá trình đào
tạo. Đề tài KX - 05 - 10 “Thực trạng và giải pháp đào tạo lao động kỹ
thuật đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động trong điều kiện kinh tế
thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế” do tác giả Nguyễn Minh
Đường [60] làm chủ nhiệm đã nghiên cứu thực trạng, năng lực đào tạo
nghề của các cơ sở đào tạo, các chính sách đào tạo lao động kỹ thuật và
những vấn đề kỹ thuật của hoạt động đào tạo. Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp Bộ “Thực trạng và giải pháp giải quyết việc làm nông nghiệp, nông
thôn Việt Nam” của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, do Vũ Thị
Kim Mão làm chủ nhiệm [79] đã tập trung nghiên cứu, phân tích thực trạng
lao động nông thôn, đề xuất các giải pháp giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn.
Hội thảo quốc gia “ Đào tạo nghề theo nhu cầu xã hội” [20] đã đưa ra 7
nhóm giải pháp nhằm thực hiện đào tạo nghề theo nhu cầu xã hội. Bao gồm:
1. Thành lập các cơ quan dự án theo nhu cầu xã hội; 2. Xây dựng cơ chế năng
động; 3. Tăng cường hợp tác giữa nhà trường với nhà tuyển dụng; 4. Phát
triển đội ngũ cán bộ giảng dạy và cán bộ quản lý; 5. Xây dựng danh mục nghề
và các tiêu chuẩn nghề nghiệp; 6. Kiểm định và đánh giá năng lực nghề
nghiệp; 7. Tư vấn hướng nghiệp.
14
Hội thảo quốc gia “Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ hội nhập quốc
tế”[71] khẳng định trình độ của người lao động là điểm tựa của hệ thống đòn
bẩy để thực hiện các chương trình KT - XH. Muốn tăng cường hợp tác với
nước ngoài Việt Nam không thể chậm trễ trong việc nâng cao tính cạnh tranh
của NNL. Do đó, đào tạo NNL là nhiệm vụ trọng yếu.
Hội thảo quốc gia “Chân dung người nông dân Việt Nam trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập” [169] đã khẳng định vai trò của
người nông dân với nông nghiệp, nông thôn, khẳng định tầm quan trọng của
đường lối phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng, Nhà nước. Từ đó Hội thảo
đề ra những gợi mở có tính định hướng nhằm giải quyết những vấn đề lý luận
và thực tiễn của nông dân, nông thôn Việt Nam trong thời kỳ hội nhập.
Một số luận án tiến sỹ: “Các giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực phục vụ nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” của
Phan Thanh Tâm [108] đã làm rõ vai trò của NNL với sự phát triển KT - XH,
xây dựng hệ thống giải pháp nâng cao chất lượng NNL đáp ứng nhu cầu CNH,
HĐH đất nước.
“Những giải pháp phát triển đào tạo nghề góp phần đáp ứng nhu cầu
nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của Phan Chính Thức
[116] đề cập đến hệ thống đào tạo nghề ở góc độ hệ thống cung ứng nhân lực
lao động qua đào tạo nghề cho nền kinh tế và đi sâu vào nghiên cứu thực
trạng và các vấn đề của hệ thống đào tạo nghề của Việt Nam.
“ Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông thôn Việt Nam” của tác giả Trần Thanh Bình [19] đã đi sâu vào cơ
sở lý luận và thực tiễn về đào tạo NNL phục vụ quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp và nông thôn. Luận án nêu thực trạng đào tạo NNL cho nông nghiệp và
các giải pháp hoàn thiện công tác đào tạo này.
“Nghiên cứu việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở Việt Nam” của
Bùi Tôn Hiến [69] đề cập đến hệ thống lý luận về việc làm của lao động qua
đào tạo nghề, phân tích cơ hội việc làm, khác biệt thu nhập của lao động qua
15
đào tạo và mối quan hệ biện chứng giữa việc làm với đào tạo nghề và đề xuất
những giải pháp cho việc đào tạo nghề và giải quyết việc làm giai đoạn hiện nay.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về đào tạo, phát triển nguồn nhân
lực ở các vùng miền, các ngành và địa phương trong cả nước
So với những công trình nghiên cứu lý luận chung về NNL, những công
trình nghiên cứu riêng về NNL vùng, miền, các địa phương có số lượng ít hơn.
Tác giả Bùi Tiến Lợi trong cuốn sách “Phát triển nguồn nhân lực của
Thanh Hoá đến năm 2010 theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá” [78]
trên cơ sở thực trạng NNL và yêu cầu phát triển KT - XH của Thanh Hóa, tác
giả đã đề ra một số giải pháp cơ bản đến năm 2010 nhằm phát triển NNL của
Thanh Hoá theo hướng CNH, HĐH.
Cuốn sách “Việc làm của nông dân trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2020’ của TS Trần Thị
Minh Ngọc [84] đã làm rõ những khái niệm liên quan trực tiếp đến vấn đề
như: việc làm, thiếu việc làm, thất nghiệp, từ đó làm rõ đặc điểm việc làm
nông thôn hiện nay. Tác giả phân tích, đánh giá những thuận lợi, khó khăn
cũng như những thành tựu, hạn chế trong quá trình giải quyết việc làm cho
nông dân vùng Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) trong quá trình CNH, HĐH, từ
đó đề ra phương hướng và giải pháp cụ thể thiết thực nhằm tiếp tục thực hiện có
hiệu quả hơn chính sách này.
Cuốn sách “Các tỉnh ủy vùng đồng bằng sông Hồng lãnh đạo đẩy nhanh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn hiện
nay” của Nguyễn Thị Tố Uyên [147] đã phân tích vai trò, đặc điểm của nông
nghiệp, nông thôn ĐBSH với sự phát triển KT - XH cả nước, những thay đổi sâu
sắc của bộ mặt nông thôn vùng ĐBSH từ năm 2001 đến nay. Từ đó, tác giả
khẳng định CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là trách nhiệm của toàn Đảng,
toàn dân, đặc biệt là giai cấp nông dân trong vùng.
Hệ thống những bài viết về vấn đề này trên các tạp chí chủ yếu tập
trung vào vấn đề đào tạo, phát triển NNL thuộc các đối tượng khác nhau và
các địa phương trên cả nước như Giáo dục đào tạo Lào Cai góp phần quan
- Xem thêm -