ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
TRỊNH THỊ HOA
ĐẢNG BỘ TỈNH HẢI DƢƠNG
LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC THANH NIÊN
TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2010
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Hà Nội - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
TRỊNH THỊ HOA
ĐẢNG BỘ TỈNH HẢI DƢƠNG
LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC THANH NIÊN
TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2010
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Trần Thị Thu Hƣơng
Hà Nội - 2014
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bất cứ một quốc gia, dân tộc và chế độ xã hội nào muốn tồn tại và phát
triển đều phải quan tâm đến việc bồi dưỡng và phát huy trí tuệ của thanh niên.
Bởi sự phát triển của thanh niên không những quan hệ đến vận mệnh và tồn
tại của đất nước, mà còn ảnh hưởng đến tương lai của dân tộc. Do đó, trong
quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi công tác
thanh niên là một bộ phận không thể tách rời công tác xây dựng Đảng, coi
việc xây dựng tổ chức Đoàn thanh niên cộng sản cũng quan trọng như việc
xây dựng tổ chức Đảng. Trước yêu cầu của sự nghiệp cách mạng hiện nay,
Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương tiếp tục xây dựng thế hệ thanh niên Việt
Nam giàu lòng yêu nước, tự cường dân tộc, kiên định lý tưởng độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức cách mạng, có ý thức chấp hành pháp luật,
sống có văn hoá, vì cộng đồng, có năng lực, bản lĩnh trong hội nhập quốc tế,
có sức khoẻ, tri thức, kỹ năng và tác phong công nghiệp trong lao động tập
thể, trở thành công dân tốt của đất nước. Vì vậy, tại Hội nghị lần thứ tư Ban
Chấp hành Trung ương khoá VII (14/1/1993) đã nhấn mạnh: “…Công tác
thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết
định sự thành bại của cách mạng” [22, tr.82]. Đại hội X của Đảng (2006)
cũng xác định: “…Thường xuyên giáo dục chính trị, truyền thống, lý tưởng,
đạo đức và lối sống; tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực,
trí tuệ, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [26, tr.120]
Sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên trong thời kỳ đổi mới
đóng vai trò hết sức quan trọng. Việc nghiên cứu, đánh giá đúng công tác
thanh niên hiện nay là việc làm rất cần thiết, tạo nên những cơ sở khoa học và
thực tiễn cho việc đề ra những chủ trương, chính sách xây dựng chiến lược
phát triển thanh niên đáp ứng yêu cầu hội nhập.
1
Là một tỉnh nằm ở lưu vực châu thổ sông Hồng, Đảng bộ tỉnh Hải
Dương đặc biệt quan tâm lãnh đạo, xây dựng tổ chức thanh niên, động viên
tuổi trẻ hăng hái vươn lên, vượt qua những khó khăn thử thách, đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động của Đoàn, xung kích thực hiện thắng lợi các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của tỉnh.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương, công tác thanh niên đã
góp phần xây dựng được thế hệ thanh niên thời kỳ mới có đạo đức, nhân cách,
tri thức, sức khỏe, tư duy năng động và hành động sáng tạo; tiếp nối truyền
thống hào hùng của quê hương, đất nước, nêu cao lòng yêu nước, ý thức xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; không ngại khó khăn, gian khổ,
tình nguyện vì cộng đồng; có trách nhiệm với gia đình, xã hội; có ý chí vươn
lên trong học tập, lao động, lập thân, lập nghiệp, làm giàu chính đáng, quyết
tâm đưa tỉnh Hải Dương thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu; mong muốn được tin
tưởng, được cống hiến cho đất nước, có việc làm, thu nhập ổn định, đời sống
văn hoá tinh thần lành mạnh, phong phú, môi trường sống an toàn.
Các cấp ủy Đảng, chính quyền trong toàn tỉnh đã tích cực triển khai các
Nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước về thanh niên và công tác
thanh niên, xã hội hóa công tác thanh niên được đẩy mạnh.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích vẫn còn những hạn chế: tình hình
thanh niên cũng đang diễn biến hết sức phức tạp, một bộ phận thanh niên
sống thiếu lý tưởng, giảm sút niềm tin, ít quan tâm đến tình hình đất nước,
thiếu ý thức chấp hành pháp luật, sống thực dụng, xa rời truyền thống văn hóa
dân tộc. Học vấn của một bộ phận thanh niên, nhất là thanh niên nông thôn,
thanh niên dân tộc thiểu số còn thấp; nhiều thanh niên thiếu kiến thức và kỹ
năng trong hội nhập quốc tế. Tính độc lập, chủ động, sáng tạo, năng lực thực
hành sau đào tạo của thanh niên còn yếu, chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp
2
hoá, hiện đại hoá. Tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội trong thanh niên đang
gia tăng và diễn biến ngày càng phức tạp.
Xuất phát từ những cơ sở trên, tác giả quyết định chọn đề tài: “Đảng bộ
tỉnh Hải Dương lãnh đạo công tác thanh niên từ năm 2000 đến năm 2010”
làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Công tác thanh niên là một trong những vấn đề được các cấp, các
ngành cũng như toàn xã hội quan tâm. Các nhà nghiên cứu và thực tiễn cũng
đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này, có thể chia thành các nhóm
công trình sau:
Một là, các công trình khoa học đề cập đến thanh niên và công tác
thanh niên:
Về sách, có cuốn sách do tác giả Nguyễn Văn Trung (chủ biên): “Chính
sách đối với thanh niên - Lý luận và thực tiễn”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 1996; “Lịch sử Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và
phong trào thanh niên Việt Nam (1925 - 1999)”, Nhà xuất bản Thanh niên,
Hà Nội, 2000. Trần Văn Miều: “Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh 70 năm xây dựng và trưởng thành”, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2001;
Cuốn sách "Đảng Cộng sản Việt Nam với công tác vận động thanh niên trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước" (2001), Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, do tiến sĩ Nguyễn Văn Hùng, Ban Dân vận Trung
ương, làm chủ biên; Nguyễn Hữu Đức (chủ biên): “Giáo dục, rèn luyện thanh
niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam”, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân Việt Nam, Hà Nội, 2003; công trình
như: Đề tài KTN 95-01: “Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh với việc tạo
nguồn nhân lực trẻ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” do PGS.
TS Phạm Đình Nghiệp làm chủ nhiệm. Những cuốn sách và công trình nghiên
3
cứu này, các tác giả đều đề cập đến vai trò của thanh niên cũng như tổ chức
đoàn trong việc vận động thanh niên trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Về tạp chí, vấn đề công tác thanh niên cũng nhận được sự quan tâm
của nhiều tác giả khi khai thác nội dung phát triển đảng trong thanh niên một khía cạnh của công tác thanh niên như: Trên báo Quân đội nhân dân có
bài của Trần Nhật Độ: "Đổi mới hơn nữa công tác phát triển Đảng", số ra
ngày 22/3/1994; Lê Mậu Lân với bài: "Phát triển đảng viên trẻ, nguồn sinh
lực tiềm tàng của Đảng", số ra ngày 23/1/1995; Đỗ Mười với bài: "Phấn
đấu vào Đảng thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh là lý tưởng cao đẹp của thanh niên", số ra ngày 20/3/1995; Vũ
Thanh Minh với bài: "Vấn đề đào tạo nguồn phát triển Đảng trong thanh
niên", số ra ngày 11/10/1995; Hoàng Bình Quân với bài trên báo Thông tin
khoa học tự nhiên: "Vấn đề phát triển Đảng trong thanh niên sinh viên hiện
nay", số 5, 5/1999. Trên tạp chí có bài của Nguyễn Văn Muôn: "Một số suy
nghĩ về công tác phát triển Đảng hiện nay", Xây dựng Đảng, số 5, 1994;
Đỗ Xuân với bài: "Hội nghị chuyên đề về công tác phát triển đảng viên
trẻ", Xây dựng Đảng, số 3, 1995; Hồ Đức với bài: "Việc đẩy mạnh công tác
phát triển Đảng trong thanh niên", Tạp chí Cộng sản, số 5, 1995; Mạch
Quang Thắng với bài: "Một số vấn đề đặt ra đối với công tác phát triển
đảng viên", Xây dựng Đảng, số 5, 2004; Nguyễn Văn Sáu với bài: "Một số
giải pháp nâng cao công tác phát triển Đảng", Xây dựng Đảng, số 6, 2004;
Hồ Đức Việt với bài: "Đẩy mạnh công tác phát triển Đảng trong thanh
niên", Tạp chí Cộng sản, số 3, 1995.
Trong những số báo này, hầu hết các tác giả đều đề cập và giải quyết
đến các vấn đề phát triển Đảng nói chung và phát triển Đảng trong đối
tượng là thanh niên, sinh viên nói riêng.
4
Trên tạp chí khoa học và công nghệ, trường Đại học Đà Nẵng, tác giả
Trần Hồng Lưu có bài: “Đào tạo nghề nghiệp cho thanh niên - yếu tố quan
trọng đảm bảo cho việc giải quyết vấn đề an sinh và phát triển xã hội”, số
5, năm 2010. Trong bài viết này, tác giả đề cập đến các giải pháp nhằm tạo
việc làm cho thanh niên.
Các cuộc Hội thảo trong nước về thanh niên và công tác thanh niên:
Đề tài: Thực trạng thanh niên - những giải pháp và chính sách cần thiết
đối với thanh niên trước yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, do Phạm Văn Uýnh
làm chủ nhiệm. Hay: Đoàn thanh niên cộng sản trường Đại học Khoa học xã hội
và nhân văn (20/5/2006) với hội thảo: Phát huy vai trò của thanh niên trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các cuộc hội thảo này được tổ
chức nhằm đánh giá về thực trạng của thanh niên đồng thời nêu ra các giải pháp
nhằm phát huy vai trò của thanh niên trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Về luận án, luận văn nghiên cứu về thanh niên và công tác thanh niên:
Tô Thành Phát với đề tài: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác
thanh niên trong thời kỳ đổi mới từ 1991 - 2001” vào năm 2002; tác giả Ngô
Thị Khánh với đề tài: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác thanh
niên từ năm 1986 đến năm 2006”… Nội dung của luận văn đã góp phần làm
rõ sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên qua từng thời kỳ cách mạng.
Hai là, nhóm các công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến công
tác thanh niên ở tỉnh Hải Dương
Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hải Dương (1975 - 2005), tập I, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà Nôi, 2010, trong đó đề cập đến quá trình hình thành và
phát triển của tỉnh Hải Dương dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh trong 30 năm.
Nguyễn Ngọc Anh với bài viết: Đội ngũ trí thức Hải Dương trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa - thực trạng và giải pháp. Trong bài
5
viết này, tác giả đã đề cập đến vai trò của trí thức Hải Dương và đặc biệt nhấn
mạnh đến tầm quan trọng của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng đất nước
nói chung và của tỉnh Hải Dương nói riêng. Trên Tạp chí Lao động và xã hội,
Số 244, tác giả Tạ Duy có bài: Hải Dương với chương trình giải quyết việc
làm. Tác giả có đề cập đến chính sách của tỉnh nhằm tạo việc làm cho thanh
niên. Hay Đề tài: “Đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp đẩy mạnh
công tác phát triển đảng viên ở xã, phường, thị trấn tỉnh Hải Dương trong
thời kỳ mới” do Vũ Văn Sơn, Uỷ viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Tổ chức
Tỉnh uỷ Hải Dương làm chủ nhiệm.
Những công trình trên là những tư liệu quý góp phần cung cấp những
dữ liệu quan trọng để tác giả luận văn giải quyết những nhiệm vụ đặt ra cho
đề tài. Trên nhiều góc độ khác nhau, đã có nhiều công trình đề cập có liên
quan đến thanh niên nói chung và thanh niên tỉnh Hải Dương nói riêng. Tuy
nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về quá trình
Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo công tác thanh niên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương về công
tác thanh niên trong 10 năm từ 2000 đến 2010, góp phần tổng kết thực tiễn
hoạt động quan trọng ở một địa phương có nhiều biến đổi ở đồng bằng sông
Hồng. Từ đó, đóng góp cơ sở khoa học cho quá trình hoạch định chủ trương
về công tác thanh niên trong thời gian tới có hiệu quả hơn.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích đó, luận văn tập trung thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Phân tích những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh
Hải Dương đối với công tác thanh niên trong 10 năm (2000 - 2010).
6
- Trình bày hệ thống và toàn diện sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải
Dương về công tác thanh niên trong những năm 2000 đến năm 2010.
- Khảo sát quá trình lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện công tác thanh niên của
Đảng bộ tỉnh Hải Dương.
- Đánh giá thành công, hạn chế và đúc kết kinh nghiệm có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn để Đảng bộ tỉnh Hải Dương tiếp tục lãnh đạo công tác thanh niên có
hiệu quả hơn.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hải Dương và quá
trình tổ chức thực hiện công tác thanh niên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Nghiên cứu những chủ trương và quá trình tổ chức chỉ đạo
thực hiện công tác thanh niên của Đảng bộ tỉnh Hải Dương.
- Thời gian: Từ năm 2000 đến năm 2010.
- Không gian: Địa bàn tỉnh Hải Dương.
5. Nguồn tƣ liệu, phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu
Để thực hiện luận văn, tác giả đã khai thác nhiều nguồn tư liệu khác nhau:
các văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam; các văn
kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XII (1997), lần thứ XIII (2000),
lần thứ XIV (2005); lần thứ XV (2010); các Chỉ thị, Nghị quyết, thông tư của
Đảng, Nhà nước, Đảng bộ tỉnh Hải Dương về công tác thanh niên; các báo cáo
tổng kết hàng năm, báo cáo tổng kết từng giai đoạn của Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân
dân, các sở ban ngành, đoàn thể tỉnh Hải Dương; các công trình nghiên cứu, các
số liệu, kết quả điều tra thực tiễn ở Hải Dương về công tác thanh niên… Đây là
những nguồn tư liệu cơ bản, không thể thiếu của luận văn. Những nguồn tư liệu
7
đó được tác giả khai thác từ Kho Lưu trữ của Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân tỉnh,
Tỉnh Đoàn Hải Dương…
Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng nguồn tư liệu về công tác thanh niên từ
các nghiên cứu của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu trong nước, do các nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Quân đội, Thanh niên… phát hành. Đây là những tài
liệu góp phần cung cấp những gợi mở cho nghiên cứu.
5.2. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử; cơ sở lý luận chung của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về công tác thanh niên, các quan điểm và đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước về thanh niên và công tác thanh niên trong gian đoạn hiện nay.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
- Để thực hiện luận văn, tác giả chọn phương pháp lịch sử và phương pháp
logic là chủ yếu. Ngoài ra còn sử dụng kết hợp một số phương pháp như: phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh....
- Khảo sát thực tiễn quá trình lãnh đạo và chỉ đạo công tác thanh niên của
Đảng bộ tỉnh Hải Dương.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên trình bày một cách
có hệ thống quá trình lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện công tác thanh niên của
Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong những năm từ 2000 đến năm 2010.
- Ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm
phong phú thêm tài liệu tham khảo để nghiên cứu và tuyên truyền về lịch sử
Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong thời kỳ đổi mới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần
phụ lục, nội dung luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
8
Chƣơng I. CHỦ TRƢƠNG VÀ QUÁ TRÌNH CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN
CÔNG TÁC THANH NIÊN CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH HẢI DƢƠNG
(2000 - 2005)
1.1. Những yếu tố tác động đến công tác thanh niên tỉnh Hải Dƣơng
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, cư dân và truyền thống
* Điều kiện tự nhiên
Hải Dương nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ - cái nôi của nền văn
minh Sông Hồng, với diện tích tự nhiên 1.660,9 km2, được tách ra từ tỉnh Hải
Hưng (bao gồm Hải Dương và Hưng Yên hiện nay) vào ngày 1-1-1997.
Hải Dương là một trong 7 tỉnh, thành thuộc vùng kinh tế trọng điểm
phía Bắc, tiếp giáp với các vùng sau: phía đông giáp Thành phố Hải Phòng,
phía tây giáp tỉnh Hưng Yên, phía nam giáp tỉnh Thái Bình và phía bắc
giáp tỉnh Bắc Giang.
Hải Dương nằm ở giữa khu vực tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc
gồm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và nằm trong Quy hoạch vùng thủ
đô Hà Nội, là điểm trung chuyển giữa Thành phố cảng Hải Phòng và thủ đô
Hà Nội, cách Hải Phòng 45km về phía Đông và cách Hà Nội 57km về phía
Tây. Phía Bắc của tỉnh có hơn 20km quốc lộ 18 chạy qua, nối sân bay quốc
tế Nội Bài với cảng Cái Lân, tạo điều kiện giao lưu hàng hóa từ vùng Bắc
Bộ ra biển và giao lưu với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Từ sau khi tái lập tỉnh, Hải Dương có 12 đơn vị hành chính trực
thuộc gồm: Thành phố Hải Dương, thị xã Chí Linh và 10 huyện: Nam
Sách, Kinh Môn, Kim Thành, Thanh Hà, Ninh Giang, Gia Lộc, Tứ Kỳ,
Thanh Miện, Cẩm Giàng và Bình Giang.
Về địa hình, Hải Dương được chia làm 2 vùng: vùng đồi núi và vùng
đồng bằng. Vùng đồi núi nằm ở phía bắc tỉnh, chiếm 11% diện tích tự
9
nhiên gồm 13 xã thuộc huyện Chí Linh và 18 xã thuộc huyện Kinh Môn; là
vùng đồi núi thấp, phù hợp với việc trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ và cây
công nghiệp ngắn ngày. Vùng đồng bằng còn lại chiếm 89% diện tích tự
nhiên do phù sa sông Thái Bình bồi đắp, đất màu mỡ, thích hợp với nhiều
loại cây trồng, sản xuất được nhiều vụ trong năm.
Về khí hậu, Hải Dương nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ
trung bình hàng năm là 23,3 0C, nhiệt độ cao nhất vào mùa hè không quá
24°C, giờ nắng trung bình hàng năm là 1524 giờ, lượng mưa trung bình
hàng năm 1.300 - 1.700 mm, độ ẩm trung bình là 85 - 87%.
Các điều kiện tự nhiên của Hải Dương tạo điều kiện thuận lợi cho
việc phát triển một nền kinh tế nông nghiệp với ngành trồng lúa nước và
ngành công nghiệp phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh.
* Điều kiện kinh tế - xã hội
- Giao thông và cơ sở hạ tầng: Tỉnh Hải Dương có hệ thống cơ sở hạ tầng
khá hoàn chỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển.
Hệ thống giao thông: gồm đường bộ, đường thuỷ, đường sắt; Phân bố
hợp lý, giao lưu rất thuận lợi tới các tỉnh. Đường bộ: có 4 tuyến đường
quốc lộ qua tỉnh dài 99 km, đều là đường cấp I, cho 4 làn xe đi lại thuận
tiện. Đường sắt: Tuyến Hà Nội - Hải Phòng chạy song song với quốc lộ 5,
đáp ứng vận chuyển hàng hoá, hành khách qua 7 ga trong tỉnh. Tuyến Kép
- Bãi Cháy chạy qua huyện Chí Linh, là tuyến đường vận chuyển hàng lâm
nông thổ sản ở các tỉnh miền núi phía Bắc ra nước ngoài qua cảng Cái Lân,
cũng như hàng nhập khẩu và than cho các tỉnh. Đường thuỷ: với 400 km
đường sông cho tàu, thuyền 500 tấn qua lại dễ dàng. Cảng Cống Câu công
suất 300.000 tấn/năm và hệ thống bến bãi đáp ứng về vận tải hàng hoá
bằng đường thuỷ một cách thuận lợi.
10
Nhìn chung, hệ thống giao thông trên bảo đảm cho việc giao lưu kinh
tế từ Hải Dương đi cả nước và nước ngoài rất thuận lợi.
- Cơ cấu các ngành nghề: kinh tế tỉnh Hải Dương với cơ cấu nông
nghiệp - công nghiệp - dịch vụ - thương mại và du lịch. Đặc biệt là sau hơn 25
năm đổi mới, Hải Dương đang chuyển mình từ một tỉnh nông nghiệp thành
một tỉnh công nghiệp. Tốc độ tăng trưởng kinh tế 10 năm trở lại đây đạt trung
bình 10%/năm, quy mô nền kinh tế tăng gấp 2,5 lần, tổng thu ngân sách Nhà
nước tăng gấp 5 lần. Cơ cấu kinh tế ngày càng chuyển dịch theo hướng tích cực.
Năm 2008, Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng 10,5%; Giá trị sản
xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,9%; Giá trị sản xuất công nghiệp,
xây dựng tăng 13 %. Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng 13,5%.
Giá trị hàng hoá xuất khẩu ước đạt 420 triệu USD, tăng 73,6% so với
cùng kỳ năm trước, trong đó, chủ yếu tăng do các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài (tăng 85,7%). Tổng giá trị nhập khẩu ước đạt 440 triệu USD,
tăng 47,9% so với cùng kỳ năm trước.
Đến nay, Hải Dương đã quy hoạch 10 khu công nghiệp với tổng diện
tích 2.719 ha. Với chính sách thông thoáng, ưu đãi các nhà đầu tư trong và
ngoài nước, với lợi thế vị trí thuận lợi, Hải Dương đã thu hút nhiều nhà đầu
tư vào khu công nghiệp. Đến hết tháng 10/2008 đã thu hút 350,2 triệu USD
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó cấp giấy chứng nhận đầu tư mới
cho 37 dự án (tăng 9 dự án), tăng 39,2% so với cùng kỳ năm 2007. Ước
tính vốn đầu tư thực hiện của các dự án năm 2008 đạt 300 triệu USD, tăng
27,6% so với năm 2007. [10, tr.12]
- Về dân số, năm 2009, dân số của tỉnh có hơn 1.703.492 người
(nam: 833.459 người, nữ: 870.033 người). Thanh niên Hải Dương hiện nay
có gần 45 vạn thanh niên trong độ tuổi từ 16 đến 30, chiếm khoảng 25,72%
dân số và gần 49% lực lượng lao động xã hội; trong đó thanh niên nông thôn
11
chiếm 39%, thanh niên học sinh, sinh viên 29%; thanh niên công nhân, viên
chức 19,3%, thanh niên lực lượng vũ trang 3,7%, thanh niên đô thị 8%, thanh
niên dân tộc, tôn giáo 1%. Đây là lực lượng nòng cốt cho sự phát triển kinh
tế tỉnh nhà nói riêng và cho cả nước nói chung. [85, tr.1]
Xét về quy mô dân số thì Hải Dương là một tỉnh có mật độ dân số
đông, đứng thứ 11/63 tỉnh thành trong cả nước và đứng thứ 5/11 tỉnh thành
trong vùng đồng bằng sông Hồng. Nhìn chung, với quy mô dân số như hiện
nay, Hải Dương vẫn còn nhiều tiềm năng và ưu đãi của tự nhiên với bình
quân đất tự nhiên/người còn khá cao (1.029 người/km2). Mặt khác, trong cơ
cấu dân thành thị và nông thôn vẫn cho thấy, Hải Dương có dân số tập trung
đông ở các vùng nông thôn (chiếm hơn 80% dân số toàn tỉnh).
Trên địa bàn tỉnh có 10 dân tộc, đông nhất là dân tộc Kinh có
1.646.426 người, chiếm 99,74%; các dân tộc thiểu số như dân tộc Sán dìu có
1.516 người, chiếm 0,09%; dân tộc Tày có 469 người, chiếm 0,0028%; dân
tộc Nùng có 75 người, chiếm 0,0045%; dân tộc Thái có 65 người, chiếm
0,0039%; dân tộc Mông có 17 người, chiếm 0,001%; dân tộc Dao có 27
người, chiếm 0,0016%; dân tộc Thổ có 21 người, chiếm 0,0012% và các dân
tộc khác chiếm 0,213%.
Trình độ dân trí: Tính đến năm 2011 đã phổ cập giáo dục THPT cho
12 huyện, thành phố với tổng số 263 xã, phường, thị trấn; số người trên 15
tuổi trở lên đã qua đào tạo là 41% (chủ yếu là đào tạo nghề 31,54%) trong đó
có trình độ đại học trở lên là 2,9%, tăng 1,62% so với 2004, số người tốt
nghiệp cao đẳng là 2,1% tăng 0,97% so với năm 2004 (1,13%) số người tốt
nghiệp trung học chuyên nghiệp chiếm 5,8% tăng 2,58% so với năm 2004
(3,22%), số người có chứng chỉ, công nhân kỹ thuật nghiệp vụ chiếm 3,2%.
Có thể nói, Hải Dương có nguồn nhân lực dồi dào với đức tính cần
cù, hiếu học, nghiêm túc trong lao động và có trình độ văn hóa, khả năng
12
tiếp cận với những tiến bộ khoa học công nghệ tốt. Đó là những điều kiện
quan trọng để hình thành đội ngũ công nhân, cán bộ quản lý, cán bộ kỹ
thuật và lao động chất lượng cao trong quá trình phát triển kinh tế của tỉnh.
- Về văn hóa: toàn tỉnh hiện có 1.098 di tích lịch sử, văn hoá, danh
thắng; trong đó có 133 di tích được xếp hạng quốc gia, tiêu biểu là Côn Sơn,
Kiếp Bạc, Phượng Hoàng (Chí Linh) An Phụ, Kính Chủ (Kinh Môn). Các di
tích trên địa bàn mang dấu ấn của nhiều thời đại: thời đồ đá cũ có niên đại
trên 3 vạn năm ở hang Thánh Hoá - núi Nhẫm Dương (Kinh Môn), thời đại đồ
đồng với những di chỉ, di vật quý tại Đồi Thông (Kinh Môn), Hữu Chung (Tứ
Kỳ), làng Gọp (Thanh Hà)... Văn hoá Lý - Trần, Lê, Nguyễn là một dòng
chảy đậm đặc và liên tục trên vùng đất này, để lại dấu ấn đậm nét trong hàng
loạt di tích, gắn liền với những sự kiện kịch sử trọng đại, những danh nhân
nổi tiếng. Chỉ riêng huyện Chí Linh đã có hàng trăm di tích quý như thế;
trong một không gian chừng 10km2 thuộc bốn xã Hưng Đạo, Văn An, Lê Lợi,
Cộng Hoà đã có hàng chục di tích lưu giữ những kỷ niệm về 3 danh nhân vĩ
đại: Trần Hưng Đạo - danh nhân quân sự (Kiếp Bạc), Nguyễn Trãi - danh
nhân văn hoá (Côn Sơn), Chu Văn An - danh nhân giáo dục (Phượng Hoàng).
Chính những nét văn hóa truyền thống của tỉnh đã góp phần giáo dục thế hệ
thanh niên ngày nay phấn đấu, noi gương thế hệ cha anh đi trước.
Hải Dương còn là quê hương của nhiều làng nghề truyền thống danh
tiếng như chạm khắc đá Kính Chủ (Kinh Môn), chạm khắc gỗ Đông Giao
(Cẩm Giàng), kim hoàn Châu Khê và gốm Cậy (Bình Giang); gốm Chu Đậu
(Nam Sách); khắc ván in Hùng Lục, Liễu Tràng (Gia Lộc), thêu Xuân Nẻo
(Tứ Kỳ), dệt chiếu Tiên Kiều (Thanh Hà)... Sản phẩm của các làng nghề
truyền thống thể hiện sự sáng tạo, khéo léo, tài hoa của người xứ Đông, được
khách hàng trong nước và quốc tế ưa chuộng.
13
Hệ thống di tích lịch sử - văn hoá - danh thắng, đặc biệt là các di tích
quan trọng của quốc gia trên địa bàn, cùng với hệ thống các làng nghề nổi
tiếng, góp phần quan trọng làm cho Hải Dương trở thành một vùng văn hoá
đặc biệt hấp dẫn, đáp ứng nhu cầu của khách thập phương về các phương
diện: tìm hiểu lịch sử - văn hoá, sinh hoạt tâm linh, thưởng ngoạn cảnh quan
thiên nhiên tươi đẹp, chiêm ngưỡng bàn tay tài hoa, khéo léo và các sản phẩm
nghệ thuật tinh xảo của các nghệ nhân làng nghề…
Người Hải Dương không chỉ giỏi làm ra nhiều nông sản, đặc sản quý
như gạo nếp cái hoa vàng (Kinh Môn, Cẩm Giàng), vải thiều (Thanh Hà), dưa
hấu (Gia Lộc), na dai, chuối mật (Chí Linh)… mà còn giỏi chế biến nhiều
món ăn đặc sản nổi tiếng khắp trong, ngoài nước như bánh đậu xanh, bánh
khảo, bánh cuốn (thành phố Hải Dương), bánh gai (Ninh Giang), bánh đa Kẻ
Sặt (Bình Giang), rượu Phú Lộc (Cẩm Giàng), giò chả (Gia Lộc), chả, mắm
rươi (Kim Thành), mắm cáy (Thanh Hà)…. Văn hoá ẩm thực của Hải Dương
phong phú, đa dạng, dân dã mà tinh tế, hấp dẫn. Hương vị đặc biệt của các
món ẩm thực địa phương đã làm cho người Hải Dương tự tin mời khách bốn
phương và những người đã một lần thưởng thức, thì xa lâu còn nhớ.
Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, cùng với sự phát triển toàn
diện của quê hương, diện mạo của lớp thanh niên Hải Dương trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dần được định hình và khẳng định.
Cùng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng công nghiệp,
dịch vụ và thương mại; sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp và tốc
độ thu hút đầu tư nước ngoài đã tác động tích cực đến việc hình thành nên
những phẩm chất mới của thanh niên Hải Dương; học vấn, chuyên môn, tay
nghề, ý thức tôn trọng pháp luật, tác phong làm việc công nghiệp, tinh thần
vượt khó vươn lên học tập, không cam chịu nghèo khó, quyết tâm vượt lên
lập thân, lập nghiệp từng bước được nâng cao, thanh niên ngày càng chủ
14
động, tự tin, sáng tạo, nhạy bén trong tiếp cận công nghệ mới, nhạy cảm
với tình hình trong nước và quốc tế.
1.1.2. Thực trạng công tác thanh niên tỉnh Hải Dương trước năm 2000
Sau đại thắng mùa xuân 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ
quốc thống nhất. Hòa chung không khí phấn khởi, tưng bừng của ngày non
sông thu về một mối, phát huy tinh thần cách mạng kiên cường, bất khuất của
cha ông, tuổi trẻ Hải Dương tiếp tục nêu cao tinh thần xung kích, sáng tạo,
vượt mọi khó khăn gian khổ, cùng với nhân dân trong tỉnh thực hiện thắng lợi
các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, góp phần bảo vệ và
xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Về công tác giáo dục chính trị - tư tưởng: đoàn thanh niên mở nhiều
đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn, quán triệt các Nghị quyết của Đảng, của
đoàn, đường lối, nhiệm vụ kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước và của tỉnh,
giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin với giáo dục truyền thống, về Đảng, về Bác
Hồ kính yêu… giúp cho đoàn viên thanh niên thấy rõ được cuộc đấu tranh
giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, xây dựng đạo đức
cách mạng và niềm tin cho đoàn viên, thanh niên.
Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, Tỉnh đoàn Hải Dương đã chỉ đạo tốt nội
dung giáo dục chính trị với chủ đề: “Tuổi trẻ xung kích, sáng tạo, xây dựng
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”, “Cuộc hành quân theo bước chân những người
anh hùng”, “Theo chân Bác”, triển khai cuộc vận động “Toàn dân tham gia
xây dựng Đảng”… Các hoạt động thiết thực trên đã thu hút hàng vạn đoàn
viên, thanh niên Hải Dương tham gia. Thông qua đó, ý thức cách mạng và
tinh thần chiến đấu của thanh niên được nâng cao, tuổi trẻ Hải Dương nhận
thức được vai trò, trách nhiệm của mình đối với quê hương, đất nước.
15
Trên mặt trận xây dựng và phát triển kinh tế: phong trào “Ba xung kích
làm chủ tập thể”, “Lao động tình nguyện vượt mức kế hoạch” được triển khai
có hiệu quả ở tất cả các ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
Trên mặt trận sản xuất nông nghiệp: Điểm nổi bật trong phong trào thi
đua của thanh niên nông thôn là trên mặt trận thủy lợi. Đoàn viên, thanh niên
đóng vai trò là lực lượng nòng cốt trong các đội thủy lợi, thanh niên sẵn sàng
đảm nhận những khâu xung yếu, những công việc khó khăn, nặng nề nhất,
phấn đấu vượt chỉ tiêu định mức. Tỉnh Đoàn đã hướng dẫn và chỉ đạo các cơ
sở Đoàn xây dựng “Cánh đồng tăng sản”, triển khai hoạt động “Mở hội thi
tài”, khuyến khích thanh niên tích cực tham gia công tác khai hoang, mở rộng
diện tích đất nông nghiệp…
Phong trào “Lao động tình nguyện vượt mức kế hoạch” trong thanh
niên công nghiệp cũng được triển khai rộng khắp ở hầu hết các nhà máy, xí
nghiệp, công trường, nông trường… thu hút hàng vạn công nhân trẻ tham gia.
Các hoạt động “Luyện tay nghề, thi thợ giỏi”, “Tổ đội khoa học kỹ thuật trẻ”,
“Câu lạc bộ thanh niên”, “Xe máy thanh niên”… được tổ chức ở hầu hết các
cơ sở đoàn trong các nhà máy, xí nghiệp, công trường, nông trường quốc
doanh. Phong trào sáng tạo và tiết kiệm được duy trì và hoạt động tốt thông
qua các ban khoa kỹ thuật trẻ.
Cùng thi đua với đoàn viên, thanh niên trong khối công - nông nghiệp,
đoàn viên, thanh niên khối cơ quan hành chính, sự nghiệp đã không ngừng cải
tiến lề lối làm việc, thực hiện nghiêm kỷ luật lao động, bảo đảm ngày công,
giờ công và nâng cao hiệu suất công tác, năng lực phẩm chất cách mạng.
Đoàn viên, thanh niên khối học sinh tích cực hưởng ứng phong trào xây dựng
“Tập thể học sinh xã hội chủ nghĩa” và phong trào “Tập thể thanh niên giáo
viên xã hội chủ nghĩa”, phong trào “Hai tốt” trong các nhà trường được phát
16
động và đạt kết quả khá toàn diện. Qua phong trào, tinh thần tự giác học tập
và phong cách học tập mới được nâng lên rõ rệt.
Các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao thu hút đông đảo các
tầng lớp thanh niên tham gia. Rèn luyện thân thể “Khỏe để xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc” trở thành nếp sống hàng ngày của mỗi đoàn viên, thanh niên.
Trên mặt trận an ninh, quốc phòng: các cấp bộ Đoàn có kế hoạch thực
hiện các Nghị quyết liên tịch giữa Trung ương Đoàn và Bộ Nội vụ, Bộ quốc
phòng nhằm tăng cường phối hợp ba lực lượng trong việc nâng cao tinh thần
cảnh giác cách mạng, trang bị những kiến thức cơ bản về quân sự, về phương
pháp đấu tranh với tiêu cực, với kẻ xấu, với các phần tử phản động cách
mạng… Đoàn viên thanh niên đã tham gia tuần tra, canh gác, bảo vệ trật tự an
ninh, bảo vệ tài sản của nhân dân, của tập thể và của Nhà nước. Ngoài ra,
Đoàn còn có các hoạt động kết nghĩa, giúp đỡ các gia đình thương binh, liệt sĩ.
Năm 1986, quán triệt tư duy đổi mới toàn diện của Trung ương Đảng,
Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã lãnh đạo tuổi trẻ và nhân dân tiếp tục thực hiện
các mục tiêu kinh tế - xã hội mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đề ra.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy thường xuyên kết hợp với Đoàn thanh niên
giải quyết các vấn đề của công tác Đoàn và phong trào thanh niên Hải Dương
như: cụ thể hóa các nghị quyết, chủ trương của Đảng, đưa ra những chính
sách động viên, khuyến khích tuổi trẻ phát huy tiềm năng của mình vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương, Đoàn thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh tỉnh đã chỉ đạo thanh niên thực hiện tốt các chương trình
hành động cách mạng của thanh niên:
Tuổi trẻ xung kích, sáng tạo trên mặt trận phát triển kinh tế, thực hiện
thắng lợi ba mục tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
17
Tuổi trẻ đi đầu thực hiện các chính sách xã hội và đấu tranh cho công
bằng xã hội.
Tuổi trẻ xung kích trên mặt trận quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
Tuổi trẻ học tập và tiến quân vào khoa học kỹ thuật
Nhìn chung, mặc dù còn nhiều hạn chế, song công tác thanh niên của
tỉnh Hải Dương đã có nhiều chuyển biến tích cực, thanh niên đã tham gia
vào mọi mặt của đời sống xã hội, góp phần đem lại sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Ngày 22-4-1992, Hội Liên Hiệp Thanh niên Việt Nam tỉnh Hải Hưng
tổ chức lễ ra mắt. Hội Liên Hiệp Thanh niên tỉnh ra đời nhằm tổ chức, đoàn
kết, tập hợp thanh niên, kịp thời đáp ứng các nhu cầu về học tập, hoạt động
của thanh niên. Hội hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, dân chủ,
hợp tác, bảo đảm tính thống nhất của phong trào thanh niên.
Từ ngày 28 đến ngày 30-5-1992, Đại hội Đại biểu Đoàn thanh niên
toàn tỉnh lần thứ V được tiến hành. Trên cơ sở phân tích những thành tựu và
hạn chế của công tác Đoàn, Đại hội đã tổng kết, đánh giá công tác Đoàn và
phong trào thanh, thiếu niên 5 năm (1987-1991), đề ra phương hướng, nhiệm
vụ của tổ chức Đoàn những năm tới.
Quán triệt Nghị quyết số 04-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa VII) tháng 1 - 1993: “Về công tác thanh niên trong thời kỳ mới”,
Tỉnh ủy đã chỉ đạo trực tiếp tổ chức Đoàn và phong trào thanh, thiếu niên
trong tỉnh. Nhờ vậy, tổ chức Đoàn và phong trào thanh niên trong tỉnh ngày
càng được đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động. Tổ chức Đoàn từ
tỉnh đến cơ sở được củng cố và phát triển theo hướng ngày càng thích ứng với
nền kinh tế thị trường.
Tiếp nối phong trào “Thanh niên nông thôn sản xuất giỏi”, Đoàn
Thanh niên và Hội Liên hiệp Thanh niên tỉnh dưới sự chỉ đạo trực tiếp của
18
- Xem thêm -