Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Dạng bị động trong tiếng pháp và những phương thức biểu đạt tương đương trong ti...

Tài liệu Dạng bị động trong tiếng pháp và những phương thức biểu đạt tương đương trong tiếng việt_unprotected

.PDF
33
180
92

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ************************** ĐINH HỒNG VÂN DẠNG BỊ ĐỘNG TRONG TIẾNG PHÁP VÀ NHỮNG PHƢƠNG THỨC BIỂU ĐẠT TƢƠNG ĐƢƠNG TRONG TIẾNG VIỆT CHUYÊN NGÀNH : LÝ LUẬN NGÔN NGỮ MÃ SỐ : 5.04.08 (62.22.01.01) LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC Người hướng dẫn khoa học : GS. TS. ĐINH VĂN ĐỨC Hà Nội - 2006 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ................................................................ 6 PHẦN MỞ ĐẦU : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ................................................................ 6 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................6 2. Mục đích của luận án .....................................................................................................8 3. Đối tượng và nội dung nghiên cứu ................................................................................. 9 4. Giả thuyết nghiên cứu ....................................................................................................9 5. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................................10 6. Phương pháp và tư liệu nghiên cứu.............................................................................. 11 7. Bố cục của luận án .......................................................................................................11 CHƢƠNG 1 : NHỮNG NỘI DUNG LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI .............. 14 1.1. Những quan niệm chung về dạng bị động ................................................................ 14 1.1.1. Dạng và dạng bị động ........................................................................................ 14 1.1.1.1. Dạng là gì ? ................................................................................................. 14 1.1.1.2. Kết cấu là gì ? ............................................................................................. 16 1.1.1.3. Dạng bị động là gì ? .................................................................................... 17 1.1.2. Dạng bị động trong ngữ pháp truyền thống ....................................................... 17 1.1.3. Dạng bị động trong ngữ pháp cải biến-tạo sinh ................................................. 19 1.1.4. Dạng bị động trong loại hình học cú pháp ......................................................... 21 1.1.5. Dạng bị động trong ngữ pháp ngữ nghĩa-chức năng ......................................... 22 1.1.5.1. Dạng bị động xét trên phương diện chức năng dụng học ........................... 22 1.1.5.2. Dạng bị động xét trên phương diện cấu trúc ngữ nghĩa .............................. 23 1.1.5.3. Dạng bị động xét trên phương diện hình thái cú pháp ................................ 23 1.2. Những lý luận phổ biến liên quan đến dạng bị động của tiếng Pháp ........................ 23 1.2.1. Định nghĩa dựa trên ngữ nghĩa .......................................................................... 24 1.2.2. Định nghĩa dựa trên hình thái ............................................................................ 25 1.2.3. Định nghĩa dựa trên cú pháp .............................. Error! Bookmark not defined. 1.2.4. Định nghĩa dựa trên cả ngữ nghĩa lẫn hình thái . Error! Bookmark not defined. 1.2.5. Định nghĩa dựa trên cả hình thái lẫn cú pháp .... Error! Bookmark not defined. 1.3. Vấn đề "bị động" trong tiếng Việt ............................. Error! Bookmark not defined. 1.3.1. Các quan niệm cho rằng tiếng Việt không có cấu trúc bị độngError! Bookmark not defined. 1.3.2. Các quan niệm cho rằng tiếng Việt có cấu trúc bị động ... Error! Bookmark not defined. 1.4. Phong cách học và việc sử dụng dạng bị động ......... Error! Bookmark not defined. CHƢƠNG 2 : NHỮNG PHƢƠNG DIỆN CƠ BẢN CỦA DẠNG BỊ ĐỘNG TRONG TIẾNG PHÁP ......................................................................... Error! Bookmark not defined. 2.1. Dạng bị động nhìn từ phương diện cấu trúc hình thứcError! Bookmark not defined. 2.1.1. Một số miêu tả và nhận xét về dạng bị động trong tiếng PhápError! Bookmark not defined. 2.1.1.1. Vấn đề hình thái học động từ bị động ......... Error! Bookmark not defined. 2.1.1.2. Sự hoán đổi vị trí giữa chủ ngữ và bổ ngữ của động từError! Bookmark not defined. 2.1.1.3. Vấn đề bổ ngữ chỉ tác nhân......................... Error! Bookmark not defined. 2.1.1.4. Sự lựa chọn giới từ dẫn nhập bổ ngữ chỉ tác nhânError! Bookmark not defined. 2.1.1.5. Động từ có hai bổ ngữ................................. Error! Bookmark not defined. 2.1.2. Các kiểu cấu trúc bị động có mặt trong ngữ liệu Error! Bookmark not defined. 2.1.2.1. Những cấu trúc bị động cơ bản trong tiếng PhápError! Bookmark not defined. 2.1.2.2. Các cấu trúc khác thể hiện ý nghĩa bị động trong tiếng PhápError! Bookmark not defined. 2.1.2.3. Dạng bị động đầy đủ và dạng bị động khuyết thiếu .. Error! Bookmark not defined. 2.1.3. Tần số sử dụng dạng bị động trong các dạng văn bản tiếng PhápError! Bookmark not defined. 2.1.3.1. Tần số sử dụng dạng bị động trong phong cách văn chươngError! Bookmark not defined. 2.1.3.2. Tần số sử dụng dạng bị động trong phong cách hành chính công vụ ..Error! Bookmark not defined. 2.1.3.3. Tần số sử dụng dạng bị động trong phong cách khoa học và báo chí công luận .................................................................................. Error! Bookmark not defined. 2.1.3.4. Tần số sử dụng dạng bị động trong phong cách sinh hoạt hàng ngày .Error! Bookmark not defined. 2.2. Dạng bị động nhìn từ phương diện ngữ nghĩa .......... Error! Bookmark not defined. 2.2.1. Một số nhận xét.................................................. Error! Bookmark not defined. 2.2.1.1. Vấn đề đồng nghĩa giữa câu bị động và câu chủ độngError! Bookmark not defined. 2.2.1.2. Vấn đề "hành động phải chịu đựng"........... Error! Bookmark not defined. 2.2.1.3. Bị thể bị biến đổi ......................................... Error! Bookmark not defined. 2.2.2. Những ràng buộc về mặt ngữ nghĩa của dạng bị độngError! Bookmark not defined. 2.2.2.1. Sự đối lập trạng thái/hành động ................. Error! Bookmark not defined. 2.2.2.2. Sự đối lập nghĩa đen/nghĩa bóng ................ Error! Bookmark not defined. 2.2.3. Chức năng của dạng bị động trong tiếng Pháp .. Error! Bookmark not defined. 2.2.3.1. Dạng bị động cho phép tránh nêu chủ thể hành động Error! Bookmark not defined. 2.2.3.2. Dạng bị động hướng sự chú ý vào đối tượng của hành độngError! Bookmark not defined. 2.2.3.3. Dạng bị động hướng sự chú ý vào chủ thể hành độngError! Bookmark not defined. 2.2.3.4. Dạng bị động trình bày sự việc theo góc nhìn của đích thể, nhấn mạnh tiến trình của hành động .......................................................... Error! Bookmark not defined. 2.2.3.5. Dạng bị động bảo đảm tính liên kết đề tài .. Error! Bookmark not defined. Tiểu kết............................................................................. Error! Bookmark not defined. CHƢƠNG 3 : VIỆC CHUYỂN DỊCH CẤU TRÚC BỊ ĐỘNG TỪ TIẾNG PHÁP SANG TIẾNG VIỆT .......................................................................... Error! Bookmark not defined. 3.1. Một số miêu tả........................................................... Error! Bookmark not defined. 3.1.1. Việc diễn đạt ý nghĩa bị động trong tiếng Việt . Error! Bookmark not defined. 3.1.1.1. Những biện luận cho sự tồn tại của lối nói tiếp thụ-bị động tiếng ViệtError! Bookmark not defined. 3.1.1.2. Cấu trúc bị động hiện có trong tiếng Việt ... Error! Bookmark not defined. 3.1.1.3. So sánh lịch đại về tần số sử dụng cấu trúc bị động tiếng ViệtError! Bookmark not defined. 3.1.2. Việc chuyển dịch cấu trúc bị động tiếng Pháp sang tiếng ViệtError! Bookmark not defined. 3.1.2.1. Việc chuyển dịch cấu trúc bị động trong tác phẩm Miếng da lừa .......Error! Bookmark not defined. 3.1.2.2. Việc chuyển dịch cấu trúc bị động trong Hiến pháp CH Pháp 1958 ..Error! Bookmark not defined. 3.2. Bàn luận .................................................................... Error! Bookmark not defined. 3.2.1. Những nét tương đồng giữa dạng bị động của tiếng Pháp với lối nói tiếp thụ-bị động của tiếng Việt ............................................................... Error! Bookmark not defined. 3.2.1.1. Về mặt hình thức ......................................... Error! Bookmark not defined. 3.2.1.2. Về mặt chức năng và ý nghĩa ...................... Error! Bookmark not defined. 3.2.2. Những nét dị biệt giữa dạng bị động của tiếng Pháp với lối nói tiếp thụ-bị động của tiếng Việt ...................................................................... Error! Bookmark not defined. Tiểu kết............................................................................. Error! Bookmark not defined. CHƢƠNG 4 : MỘT KHẢO SÁT VỀ VIỆC SỬ DỤNG DẠNG BỊ ĐỘNG Ở NGƢỜI VIỆT NAM HỌC TIẾNG PHÁP .................................................... Error! Bookmark not defined. 4.1. Đặt vấn đề ................................................................. Error! Bookmark not defined. 4.1.1. Đối tượng khảo sát ............................................. Error! Bookmark not defined. 4.1.2. Mục đích ............................................................ Error! Bookmark not defined. 4.1.3. Phương pháp ...................................................... Error! Bookmark not defined. 4.1.4. Một số kết quả khảo sát ..................................... Error! Bookmark not defined. 4.1.4.1. Dịch ngôn ngữ hành chính công vụ ............ Error! Bookmark not defined. 4.1.4.2. Dịch ngôn ngữ văn học ............................... Error! Bookmark not defined. 4.1.4.3. Dịch ngôn ngữ báo chí-công luận ............... Error! Bookmark not defined. 4.2. Bàn luận .................................................................... Error! Bookmark not defined. 4.2.1. Một số lỗi đã gặp trong cách sử dụng dạng bị độngError! Bookmark not defined. 4.2.2. Nguyên nhân mắc lỗi trong cách sử dụng dạng bị động ... Error! Bookmark not defined. 4.2.3. Một số gợi ý về hướng giải quyết ...................... Error! Bookmark not defined. 4.2.3.1. Điều chỉnh cách dạy dạng bị động tiếng PhápError! Bookmark not defined. 4.2.3.2. Tăng cường so sánh đối chiếu giữa tiếng Pháp và tiếng Việt.Error! Bookmark not defined. 4.2.3.3. Xác định rõ yêu cầu về tính trung thành trong dịch thuậtError! Bookmark not defined. Tiểu kết............................................................................. Error! Bookmark not defined. KẾT LUẬN ............................................................................. Error! Bookmark not defined. NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .................................................................................................. Error! Bookmark not defined. TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 26 TỪ VIẾT TẮT Adj à INF C Ctbd d de + SN être + PP FF1,2,…7 N à INF ND P1 par + SN PPP PPR SN SN1 SN2 Ts V VF1,2, …7 Tính từ + động từ nguyên thể Chủ ngữ Cấu trúc bị động Giới từ Giới từ DE + danh ngữ Động từ être + phân từ quá khứ Cấu trúc bị động tiếng Pháp Danh từ + động từ nguyên thể Người dịch Câu Giới từ PAR + danh ngữ phân từ quá khứ bị động Mệnh đề bị động Danh ngữ Danh ngữ tác thể Danh ngữ đích thể Tổng số Verbe, động từ Cấu trúc bị động tiếng Việt DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1: Tỷ lệ các cấu trúc bị động trong ngữ liệu ............... Error! Bookmark not defined. Bảng 2 : Tỷ lệ các cấu trúc bị động trong tác phẩm Miếng da lừaError! Bookmark not defined. Bảng 3 : Cấu trúc bị động trong Hiến pháp CH Pháp 1958 Error! Bookmark not defined. Bảng 4: Tỷ lệ câu bị động tiếng Pháp trong các bài báo và báo cáo khoa họcError! Bookmark not defined. Bảng 5 : Tỷ lệ câu bị động trong ngôn ngữ nói ................... Error! Bookmark not defined. Bảng 6 : Tỷ lệ các cấu trúc bị động trong các bài báo và các báo cáo khoa họcError! Bookmark not defined. Bảng 7 : Tần số của dạng bị động trong phong cách sinh hoạt hàng ngàyError! Bookmark not defined. Bảng 8 : Tỷ lệ cấu trúc bị động trong ngữ liệu tiếng Việt ... Error! Bookmark not defined. Bảng 9 : Tần số sử dụng cấu trúc bị động thời kỳ trước 1954Error! Bookmark not defined. Bảng 10 : Tần số sử dụng cấu trúc bị động thời kỳ sau 2000Error! Bookmark not defined. Bảng 11 : Kết quả dịch một số câu từ Hiến pháp CH Pháp 1958Error! Bookmark not defined. Bảng 12 : Kết quả dịch một số câu trích từ Hiến pháp CHXHCNVN 1992Error! Bookmark not defined. Bảng 13 : Kết quả dịch một số câu trích từ một số tác phẩm văn học PhápError! Bookmark not defined. PHẦN MỞ ĐẦU : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1. Lý do chọn đề tài Luận án này nghiên cứu một phương tiện ngữ pháp tiếng Pháp đó là dạng bị động (voix passive) cũng như những khả năng biểu đạt tương đương ý nghĩa đó ở tiếng Việt. 1.1. Ý nghĩa lý luận Dạng bị động là một hiện tượng ngữ pháp phổ biến trong các ngôn ngữ châu Âu nói chung (tức là các ngôn ngữ khuất chiết hoặc ngôn ngữ có biến hình) cũng như trong tiếng Pháp Đây là một hiện tượng đặc biệt của động từ giúp người ta biểu đạt tư tưởng một cách phong phú hơn, nhất là qua ngôn ngữ viết và làm phong phú thêm các phương tiện phong cách. Dạng bị động và dạng chủ động làm thành một cặp đối lập ngữ pháp mà ta gọi là phạm trù dạng. Ví dụ : - L'agneau a été mangé par le loup. // Le loup a mangé l'agneau. (Con cừu non bị con sói ăn thịt. // Con sói ăn thịt con cừu non.) Ví dụ này cho thấy dạng bị động không phải là đơn nhất cho nên người sử dụng có quyền chọn lựa và điều đó cũng có nghĩa là bên cạnh đặc trưng ngữ pháp thì dạng bị động này còn thể hiện chức năng phong cách của cú pháp. Trong tiếng Pháp, dạng bị động là một phương tiện biểu đạt xuất hiện muộn hơn, chủ yếu là trong văn viết và ở một số phong cách nhất định. Việc nghiên cứu dạng bị động tiếng Pháp trong mối liên hệ so sánh với tiếng Việt sẽ cho phép : - làm sáng tỏ một số vấn đề về cách ứng xử của người Pháp. - việc tìm hiểu về lối nói tiếp thụ-bị động ở tiếng Việt và có thể cũng sẽ làm sáng tỏ một số vấn đề ngữ pháp tiếng Việt. - Trong tình hình đó, luận án sẽ góp phần vào kho tàng lý luận tiếng Việt : cụ thể là nguồn gốc và lai lịch của lối nói bị động trong tiếng Việt; vai trò và ảnh hưởng của tiếng Pháp đối với tiếng Việt trong cách diễn đạt ý nghĩa bị động. - Luận án này cũng sẽ góp phần củng cố quan điểm cho rằng cùng một ý nghĩa ngữ pháp nhưng có thể được biểu đạt bằng những phương thức khác nhau ở các ngôn ngữ khác nhau. 1.2. Ý nghĩa thực tiễn Theo các nhà nghiên cứu, ý nghĩa bị động tồn tại ở hầu hết các ngôn ngữ, sự khác biệt là ở cách biểu đạt ý nghĩa này. Đối với các ngôn ngữ châu Âu thì dạng bị động là một hiện tượng quen thuộc, còn ở tiếng Việt thì đây là một hiện tượng ngữ pháp đang phát triển. Vì vậy, khi học tiếng Pháp, do quen diễn đạt theo lối chủ động, người Việt Nam ít dùng dạng bị động khi diễn đạt bằng tiếng Pháp. Về phần mình, các dịch giả không tránh khỏi một số băn khoăn khi phải chuyển một ý nào đó được thể hiện dưới dạng một câu bị động trong tiếng Pháp sang tiếng Việt. Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu đối chiếu cách biểu đạt ý nghĩa bị động ở tiếng Việt với nhiều thứ tiếng khác mà chúng tôi có thể đơn cử ra ở đây như luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học "Analyse contrastive du passif en français et en vietnamien" của Nguyễn Văn Hoàng [106], "So sánh ngữ nghĩa, ngữ pháp của được, bị, phải trong tiếng Việt với ban, t'râw trong tiếng Khmer." của Vũ Đức Nghiệu [39], "Một số nhận xét loại câu bị động của tiếng Việt và tiếng Nhật" của Nguyễn Thị Việt Thanh [49], luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học "Câu bị động tiếng Anh và cấu trúc tương đương trong tiếng Việt" của Bùi Thị Diên [19], v.v… Tất cả các công trình nghiên cứu này đều rút ra một nhận xét chung là : tuy có nhiều khác biệt về mặt loại hình với nhiều ngôn ngữ, tiếng Việt vẫn có đủ phương tiện để biểu đạt ý nghĩa bị động. Điều này đã được tác giả Vương Toàn khẳng định lại trong một phạm vi rộng hơn :"[…] tiếng Việt và tiếng Pháp là hai ngôn ngữ khác biệt về loại hình, do vậy mỗi ngôn ngữ có những nét đặc thù riêng biệt. Là một ngôn ngữ đơn lập, tiếng Việt không có hệ thống các biến tố chỉ giống, số, thời, thể … như trong tiếng Pháp nhưng cần lưu ý rằng không phải nó không có những hình thức ngôn ngữ biểu hiện thích hợp các phạm trù khi cần." [59] Trong bối cảnh đó, luận án này sẽ đi theo hướng đối chiếu hai ngôn ngữ Pháp và Việt về vấn đề dạng bị động. Để không lặp lại điều khá phổ biến trước đây, theo như nhận xét của tác giả Đường Công Minh là "Những công trình của họ thường dừng lại ở cấp lý thuyết, vĩ mô, mang mục đích so sánh cơ bản, chưa quan tâm nhiều đến địa hạt sư phạm của ngôn ngữ học đối chiếu." [37], luận án này sẽ đi sâu vào phân tích thực tiễn cách biểu đạt ý nghĩa bị động trong hai ngôn ngữ ở trên bình diện ngôn ngữ nói chung cũng như trên góc độ người học nói riêng để làm nổi rõ không chỉ những nét dị biệt mà cả những nét tương đồng giữa tiếng Việt và tiếng Pháp trong những vấn đề liên quan đến việc biểu đạt ý nghĩa bị động. Luận án này, sẽ góp phần : - nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Pháp ở người Việt Nam, giúp nắm vững cách sử dụng dạng bị động tiếng Pháp theo phong cách của người Pháp; - làm sáng tỏ thêm một vài vấn đề có tính thực tiễn trong thực hành dịch, đặc biệt là các cách chuyển dịch dạng bị động từ tiếng Pháp sang tiếng Việt. - Nghiên cứu khả năng chuyển tải dạng bị động từ tiếng Pháp sang tiếng Việt sẽ góp phần vào việc khai thác những khả năng tiềm tàng của tiếng Việt để thực hiện các sắc thái ý nghĩa khác nhau của hiện tượng ngữ pháp này, làm cho tiếng Việt có thể tiếp tục phát triển mà vẫn giữ được những nét đẹp riêng vốn có của nó trong quá trình tiếp xúc với các ngôn ngữ khác. 2. Mục đích của luận án - Mục đích của luận án này là nghiên cứu một hiện tượng ngữ pháp của tiếng Pháp trong mối liên hệ so sánh với tiếng Việt đó là dạng bị động. - Luận án sẽ xem xét một cách cụ thể các vấn đề về cấu trúc, ý nghĩa và vai trò của dạng bị động. - Luận án sẽ nhấn mạnh vào những nét tương đồng vì cho dù cả hai ngôn ngữ đều có những cấu trúc tương đối giống nhau để biểu đạt ý nghĩa bị động, nhưng chính những nét tương đồng này đã gây cho người học không ít những điều ngộ nhận và khó khăn, nhất là khi trong tiếng Việt có sự khác biệt trong việc sử dụng các từ bị/được. Vả lại điều này cũng đúng như nhận xét của tác giả Vương Toàn :"Hiểu và tiếp thu cái khác biệt đã khó nhưng đối với những cái tương đồng cũng chẳng phải lúc nào cũng dễ dàng, bởi mỗi ngôn ngữ thường phải tuân thủ những quy tắc riêng của nó, cái khiến cho chúng không phải là đồng nhất : trong tương đồng có chỗ khác biệt và trong khác biệt cũng có lúc tương đồng." [59] - Tất cả mọi công việc sẽ được tiến hành dựa trên một cơ sở ngữ liệu là những câu có thực. Với cách làm như vậy, luận án này có thể góp phần giải quyết một số vấn đề liên quan đến dạng bị động trong tiếng Pháp cũng như trong tiếng Việt. 3. Đối tƣợng và nội dung nghiên cứu Trên nguyên tắc, việc nghiên cứu của luận án này phải tính tới toàn bộ các kiểu câu tiếng Pháp có sử dụng dạng bị động. Nhưng nếu đi vào nghiên cứu sâu tất cả các cấu trúc tiếng Pháp có thể biểu đạt ý nghĩa bị động thì sẽ là quá lớn nên luận án chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu chi tiết một số cấu trúc phổ biến nhất. Luận án sẽ không có tham vọng đi sâu nghiên cứu để tìm lời giải cho bài toán trong tiếng Việt có câu bị động hay không mà chỉ dừng lại ở việc mô tả, ghi nhận những cấu trúc hiện có trong tiếng Việt có khả năng biểu đạt ý nghĩa bị động. Luận án này cũng sẽ dựa trên một số văn bản đã được dịch từ tiếng Pháp sang tiếng Việt để có thể phát hiện những phương tiện tương đương cho phép chuyển dạng bị động từ tiếng Pháp sang tiếng Việt. 4. Giả thuyết nghiên cứu Với luận án này, chúng tôi có những giả thuyết sau : - Trong tiếng Pháp cũng như trong tiếng Việt đều có những phương tiện cần thiết để thể hiện ý nghĩa bị động. Song, dạng bị động của động từ là một hiện tượng phổ biến trong tiếng Pháp còn trong tiếng Việt thì không hẳn như vậy. - Vì mỗi ngôn ngữ đều có những cách riêng để thể hiện ý nghĩa bị động nên nếu không có sự so sánh đối chiếu giữa hai ngôn ngữ thì người học khó có thể làm chủ được ngoại ngữ với tư cách là một phương tiện giao tiếp hữu hiệu. - Vì lối nói tiếp thụ - bị động của tiếng Việt chịu ảnh hưởng ít nhiều của dạng bị động tiếng Pháp, nhất là thông qua con đường dịch thuật nên nếu dịch giả hiểu rõ đặc điểm của từng ngôn ngữ thì sẽ hạn chế được những chuyển di tiêu cực. - Nếu áp dụng phương pháp tiếp cận về ngữ nghĩa cũng như làm rõ những nét tương đồng và những nét dị biệt giữa hai ngôn ngữ chứ không chỉ dừng lại ở việc rèn luyện cấu trúc thì sẽ nâng cao được chất lượng dạy và học tiếng Pháp nói chung và khắc phục được những khó khăn trước dạng bị động tiếng Pháp nói riêng. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận án này sẽ có các nhiệm vụ sau : 1- Tìm hiểu lịch sử vấn đề dạng bị động và quan niệm lý luận của một số tác giả có uy tín về dạng bị động nói chung và về dạng bị động trong tiếng Pháp nói riêng; 2- Mô tả và khảo sát các cấu trúc cú pháp biểu thị ý nghĩa bị động trong tiếng Pháp; 3- Tìm hiểu các chức năng của dạng bị động trong tiếng Pháp; 4- Nghiên cứu việc diễn đạt ý nghĩa bị động trong tiếng Việt sử dụng một số từ như "bị, được, do, v.v..."; 5- Tìm những cách dạy có hiệu quả để giúp cho người Việt Nam khi học tiếng Pháp có khả năng sử dụng được hiện tượng ngữ pháp này trong các quá trình hiểu (nghe - đọc) và nhất là trong diễn đạt (nói - viết). 6- Nghiên cứu những khả năng chuyển tải dạng bị động với những ý nghĩa chức năng khác nhau từ tiếng Pháp sang tiếng Việt và ngược lại để có thể đưa ra những đề nghị hữu ích cho công tác dịch thuật Pháp-Việt, Việt-Pháp khi gặp hiện tượng ngữ pháp này. 6. Phƣơng pháp và tƣ liệu nghiên cứu 6.1. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp trình bày của luận án là quy nạp. Luận án đã sử dụng một loạt các phương pháp nghiên cứu của ngôn ngữ học như mô tả, phân tích, so sánh, đối chiếu, và các thao tác cụ thể như lược, thế, chêm xen, để tìm hiểu hiện tượng dạng bị động trong tiếng Pháp và trong các lối nói tiếp thụ của người Việt Nam. Vì phải có sự liên hệ giữa hai ngôn ngữ, nên quá trình thực hiện luận án này cũng phải dựa vào các phương pháp nghiên cứu liên văn hoá nhằm tìm hiểu các giao thoa văn hoá thông qua việc khảo sát một số bản dịch từ tiếng Pháp sang tiếng Việt và theo chiều ngược lại để tìm hiểu những cái thoả đáng, cái chưa thoả đáng trong quá trình chuyển dịch dạng bị động sang tiếng Việt. 6.2. Tƣ liệu nghiên cứu - Nguồn tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu dạng bị động trong tiếng Pháp, sẽ được thu thập từ các văn bản viết có phong cách khác nhau (báo chí, báo cáo khoa học, văn học, chính luận); một số kiểu hội thoại. - Việc nghiên cứu khả năng chuyển dịch từ tiếng Pháp sang tiếng Việt sẽ được tiến hành dựa trên một số bản dịch của một số báo cáo khoa học, một số bài báo, cũng như của một số tác phẩm văn học Pháp quen thuộc đối với người Việt Nam. - Cơ sở để nghiên cứu cách giảng dạy dạng bị động của tiếng Pháp cho người Việt Nam là các dạng bài tập đã và đang được sử dụng cũng như các câu thu thập được qua các bài viết và nói của người học ở các trình độ khác nhau. 7. Bố cục của luận án Phần mở đầu : Những vấn đề chung Phần nội dung : Chƣơng 1 : Những nội dung lý luận liên quan đến đề tài Những quan niệm chung về dạng bị động Những lý luận phổ biến liên quan đến dạng bị động của tiếng Pháp Vấn đề "bị động" trong tiếng Việt Phong cách học và dạng bị động Chƣơng 2 : Những phƣơng diện cơ bản của dạng bị động trong tiếng Pháp 2.1. Dạng bị động nhìn từ phương diện cấu trúc hình thức 2.1.1. Một số nhận xét và miêu tả dạng bị động trong tiếng Pháp 2.1.2. Các kiểu cấu trúc bị động có trong ngữ liệu 2.1.3. Tần số sử dụng của dạng bị động trong các dạng văn bản tiếng Pháp 2.2. Dạng bị động nhìn từ phương diện ngữ nghĩa 2.2.1. Những ràng buộc về mặt ngữ nghĩa của dạng bị động 2.2.2. Chức năng của dạng bị động trong tiếng Pháp Chƣơng 3 : Việc chuyển dịch cấu trúc bị động từ tiếng Pháp sang tiếng Việt 3.1. Một số miêu tả việc chuyển dịch cấu trúc bị động tiếng Pháp sang tiếng Việt 3.1.1. Việc chuyển dịch cấu trúc bị động tiếng Pháp sang tiếng Việt 3.1.2. Việc diễn đạt ý nghĩa bị động trong tiếng Việt 3.2. Bàn luận 3.2.1. Những nét tương đồng giữa dạng bị động của tiếng Pháp với việc diễn đạt ý nghĩa bị động của tiếng Việt 3.2.2. Những nét dị biệt giữa dạng bị động của tiếng Pháp với lối nói tiếp thụ-bị động của tiếng Việt Chƣơng 4 : Thực trạng của việc sử dụng dạng bị động ở ngƣời Việt Nam học tiếng Pháp 4.1. Đặt vấn đề 4.2. Bàn luận 4.2.1. Một số lỗi thường gặp trong cách sử dụng dạng bị động 4.2.2. Nguyên nhân mắc lỗi trong cách sử dụng dạng bị động 4.2.3. Một số đề xuất về hướng giải quyết Kết luận Tài liệu tham khảo CHƢƠNG 1 : NHỮNG NỘI DUNG LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Chương này nhằm giới thiệu những vấn đề mang tính lý luận làm cơ sở cho luận án. Trước tiên sẽ là các quan điểm cơ bản về dạng bị động nói chung. Phần tiếp theo sẽ được dành riêng để trình bày những lý luận phổ biến có liên quan đến dạng bị động của tiếng Pháp. Một số quan niệm cơ bản về vấn đề "bị động" trong tiếng Việt sẽ là nội dung chính của phần thứ 3 của chương này. Phần thứ 4 của chương sẽ được dành cho những lý luận liên quan đến vấn đề phong cách. 1.1. Những quan niệm chung về dạng bị động Ở phần này, đề tài sẽ điểm qua các cách quan niệm cơ bản về dạng bị động nói chung để có thể có được một bức tranh chung về hiện tượng ngữ pháp này. Trước tiên, chúng ta sẽ điểm qua một số khái niệm cơ bản có liên quan đến dạng bị động như : dạng, dạng bị động, kết cấu bị động, câu bị động, sau đó sẽ là quan niệm về dạng bị động trong các trường phái ngữ pháp khác nhau. 1.1.1. Dạng và dạng bị động 1.1.1.1. Dạng là gì ? Có nhiều tác giả đã đưa ra các định nghĩa về "dạng của động từ". Nhìn chung, dạng được coi là một phạm trù ngữ pháp phổ biến của động từ, giống như giống, số, cách, ngôi, v.v… Theo Maurice Grévisse, "Dạng thể hiện mối quan hệ giữa một bên là động từ, với một bên là chủ ngữ (hoặc bổ ngữ chỉ tác nhân) và bổ ngữ trực tiếp." [100:1121]. Theo quan niệm này, trong tiếng Pháp có dạng chủ động, dạng bị động và dạng phản thân. - Dạng chủ động : khi chủ ngữ chính là chủ thể hành động, còn bổ ngữ trực tiếp của động từ chính là đối tượng của hành động : "Les spectateurs ont piétiné la pelouse."(Khán giả giẫm lên thảm cỏ.); - Dạng bị động : khi câu có một ngoại động từ và có thể cải biến sao cho nghĩa sâu (sens profond) không thay đổi nhưng có thể cho phép đối tượng của hành động lên giữ vị trí chủ ngữ, chủ thể của hành động nếu xuất hiện trong câu thì sẽ xuống giữ vai trò bổ ngữ chỉ tác nhân, còn động từ thì sẽ có một dạng đặc biệt đó là sự kết hợp giữa trợ động từ être và phân từ quá khứ: "La pelouse a été piétinée par les spectateurs." (Thảm cỏ bị khán giả giẫm lên.); - Dạng phản thân : khi động từ có bổ ngữ chỉ đối tượng hình thức là một đại từ có quy chiếu là chủ ngữ (G. Mauger, 117: 291) : Les vendanges se font à la fin de l'été. (Vụ thu hoạch nho diễn ra vào mùa thu.) Trong cuốn sách: “Dẫn luận ngôn ngữ học” của Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết [26:238] có định nghĩa như sau : "Dạng (thái): là phạm trù ngữ pháp của động từ, biểu thị quan hệ giữa hành động với các sự vật nói ở chủ ngữ và bổ ngữ của động từ ấy. Nếu dạng thức của động từ nói lên rằng sự vật nêu ở chủ ngữ là đối tượng mà hành động hướng vào, còn kẻ thực hiện hành động là sự vật nêu ở bổ ngữ, thì đó là dạng bị động của động từ." Trong A Dictionary of Linguistics & Phonetics của David Crystal, dạng được định nghĩa như sau :"Dạng là một phạm trù được dùng trong việc mô tả cấu trúc câu hoặc mệnh đề chủ yếu liên quan đến động từ, để thể hiện cách mà các câu có thể lựa chọn mối quan hệ giữa chủ ngữ và bổ ngữ của động từ, mà không làm thay đổi nghĩa của câu." [130] Phạm trù dạng được thể hiện bằng những hình thức khác nhau tùy theo từng ngôn ngữ. Chẳng hạn như ở tiếng La-tinh, dạng được thể hiện bằng hình thái của động từ. Ví dụ như với động từ "yêu, thương", cùng được chia ở thức chỉ định, thì hiện tại nhưng có hình thức khác nhau ở dạng chủ động và ở dạng bị động : Dạng chủ động Dạng bị động amo amor amas amaris amat amatur amamus amamur amatis amamini amant amantur Trong khi đó ở tiếng Pháp hoặc tiếng Anh thì lại không có hình thái riêng biệt cho dạng bị động, dạng này được thể hiện bằng sự kết hợp giữa trợ động từ être, trong tiếng Pháp, to be, trong tiếng Anh, với phân từ quá khứ. Ví dụ : - …, Jacques a surpris le voleur. (Jacques đã bắt gặp tên trộm.) - Un voleur a été surpris par la police… (Tên trộm đã bị công an bắt gặp.) - Millions of people have read that book. (Hàng triệu người đã đọc cuốc sách này.) - That book has been read by millions of people.(Cuốn sách này đã được hàng triệu người đọc.) 1.1.1.2. Kết cấu là gì ? Trong ngôn ngữ, nhìn chung, "kết cấu" có thể được hiểu là sự kết hợp của nhiều đơn vị ngữ pháp với nhau theo quan hệ ngữ đoạn và có một chức năng nhất định. Theo định nghĩa trong Dictionnaire de l'Académie française thì "Kết cấu là sự kết hợp của các từ theo các quy tắc và cách dùng của từng ngôn ngữ" [85]. Vậy, một kết cấu có thể là một từ, một ngữ, một mệnh đề hoặc một câu. Một kết cấu bị động có thể là : - một động từ ở dạng bị động : amor – trong tiếng La tinh - một động ngữ : a été supris par la police – trong tiếng Pháp - một mệnh đề : (il craint d'être tué,) alors qu'il a été arrêté à deux reprises par les autorités ivoiriennes et qu'il a été relâché.i (ông ta sợ bị giết, trong khi đó ông ta đã từng bị nhà cầm quyền Bờ Biển Ngà bắt hai lần và sau đó đã được thả. ) - Một câu : Il a ensuite été convoqué par la Police de Bizerte le 4 mai 2005. (Anh ta đã bị cảnh sát của Bizerte triệu tập hôm 4-5-2005). 1.1.1.3. Dạng bị động là gì ? Theo từ điển Le Trésor de la Langue Française [84], Le passif là tập hợp của các hình thái động từ bị động (L'ensemble des formes verbales passives.). Le passif đã được dịch sang tiếng Việt theo nhiều cách khác nhau : dạng bị động, thái bị động, cấu trúc bị động hay câu bị động. Trong luận án này, khái niệm le passif sẽ được hiểu theo định nghĩa trên đây của từ điển Le Trésor de la Langue Française và được dịch theo một trong những cách nói phổ biến đó là dạng bị động. Dạng bị động là một hiện tượng ngữ pháp phổ biến ở các ngôn ngữ Ấn-Âu. Song, có thể nói là mỗi trường phái ngữ pháp đều có cách quan niệm riêng của mình về hiện tượng ngữ pháp này. Sau đây, chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu xem dạng bị động được quan niệm như thế nào trong các trường phái ngữ pháp truyền thống, cải biến-tạo sinh, loại hình học cú pháp, ngữ nghĩa-chức năng. 1.1.2. Dạng bị động trong ngữ pháp truyền thống Có thể là do chịu ảnh hưởng của cách quan niệm ở các ngôn ngữ như tiếng La-tinh hoặc Hy-lạp mà các tác giả của ngữ pháp truyền thống thường quan niệm rằng dạng bị động là một phạm trù hình thái học thuần tuý. G. Mauger [117:199] đã xếp dạng bị động vào mục chia động từ của tiếng Pháp. Tuy nhiên, ngay cả trong các ngôn ngữ có phạm trù dạng rõ ràng, khi đề cập đến phạm trù này, các nhà nghiên cứu, ngoài việc phân biệt dạng chủ động (voix active) với dạng bị động (voix passive) của động từ ra, còn phải nói đến sự thay đổi vị trí giữa chủ ngữ và bổ ngữ trực tiếp của động từ. Cụ thể là trong một câu có động từ ở dạng chủ động, chủ ngữ của câu đồng thời là chủ thể thực hiện hành động và bổ ngữ trực tiếp của câu là đối tượng chịu tác động của hành động. Sau đây là ví dụ do Maurice Grévisse đưa ra trong cuốn Le Bon Usage [100], một trong những cuốn cẩm nang ngữ pháp tiếng Pháp. - Un chauffard a renversé (Một lái xe đi ẩu đã làm ngã un piéton. một người đi bộ.) - Un piéton a été renversé par un chauffard. (Một người đi bộ đã bị làm ngã bởi một lái xe đi ẩu.) Trong ví dụ này, câu thứ nhất có chủ ngữ ngữ pháp đồng thời là chủ thể hành động, bổ ngữ trực tiếp là đối tượng của hành động, động từ thì ở dạng chủ động; câu thứ hai, theo quan niệm của ngữ pháp truyền thống, có cùng một nghĩa sâu với câu thứ nhất, nhưng quan hệ của chủ thể và đối tượng hành động với động từ đã thay đổi ở chỗ chủ ngữ của câu thứ hai là đối tượng của hành động, còn chủ thể hành động lúc này lại trở thành bổ ngữ chỉ tác nhân, còn động từ thì đã được chuyển thành dạng bị động. Câu thứ nhất có động từ ở dạng chủ động, được gọi là câu chủ động, câu thứ hai có động từ ở dạng bị động được gọi là câu bị động. Như vậy, dạng bị động không chỉ đơn thuần là một phạm trù hình thái học mà còn thể hiện mối quan hệ cú pháp của các thành tố trong câu. Cách quan niệm này của ngữ pháp truyền thống coi dạng bị động như một phạm trù hình thái học của động từ, chủ yếu là của động từ ngoại động không hoàn toàn thỏa đáng trên nhiều phương diện. Theo cách quan niệm này, dạng bị động chỉ có thể được biểu hiện bằng hình thái của động từ, trong khi đó như ta đã thấy thì dạng bị động còn được thể hiện cả bằng các phương tiện cú pháp. Mặt khác, cũng theo quan niệm này thì mỗi động từ ngoại động đều có thể tồn tại ở 2 dạng chủ động và bị động. Trong thực tế thì như ở tiếng Pháp chẳng hạn, có nhiều động từ như avoir, peser, … chỉ có thể tồn tại ở dạng chủ động mà không có dạng bị động tương ứng : - J'ai 20 ans. (Tôi 20 tuổi.)(Là một câu đúng) - * 20 ans ont été eus par moi. (*20 tuổi đã có bởi tôi.)(Là một câu đúng ngữ pháp nhưng không tồn tại trong tiếng Pháp) - Je pèse 70 kilos. (Tôi nặng 70 kg.) - * 70 kilos ont été pesés par moi. (*70 kg đã cân nặng bởi tôi.) Mặt khác, ở một số ngôn ngữ, chẳng hạn như trong tiếng La-tinh, có những động từ chỉ tồn tại ở dạng bị động mà thôi mặc dù chúng có nghĩa chủ động (verbes déponents): - imitor, imitaris, imitari, (có nghĩa là "bắt chước"). Ngoài ra, theo ngữ pháp truyền thống thì chủ ngữ của động từ ở dạng bị động luôn là đối tượng chịu tác động của động từ. Nhưng trong nhiều trường hợp, nhất là với những động từ chỉ tình cảm, bổ ngữ chỉ đối tượng của động từ ngoại động trong câu chủ động tức là chủ ngữ của động từ đó ở dạng bị động không hề chịu tác động của hành động mà chỉ là nguồn tạo tình cảm. Ví dụ như với động từ "aimer" (yêu) trong tiếng Pháp : - La souris est aimée par Marie. (Con chuột được Marie yêu quý.) Trong câu này, khó có thể nói rằng "La souris – con chuột" đã chịu tác động của tình cảm của Marie. 1.1.3. Dạng bị động trong ngữ pháp cải biến-tạo sinh Trong ngữ pháp cải biến-tạo sinh, dạng bị động được coi là một hiện tượng ngữ pháp phổ quát gắn liền với phép cải biến bị động (passive transformation) hay quá trình bị động hóa (passivization). Trong cuốn "Structures syntaxiques" của N. Chomsky [81:88], câu bị động được coi như là kết quả của sự cải biến từ các câu chủ động tương ứng: "Khi cố gắng xây dựng một cuốn ngữ pháp tiếng Anh đơn giản nhất bao gồm một phần về cú pháp và một phần về cải biến, chúng tôi nhận thấy rằng cốt lõi (của ngôn ngữ - ND) bao gồm các câu đơn, trần thuật và chủ động (rất có thể là với số lượng hữu hạn) và rằng tất cả các câu khác có thể dễ dàng được mô tả như là những câu đã được chuyển đổi.". Theo quan niệm của ngữ pháp cải biến-tạo sinh giai đoạn đầu thì cấu trúc chủ động gần với cấu trúc sâu còn cấu trúc bị động thì được tạo nên từ cấu trúc chủ động bằng phép cải biến bị động (passive transformation). Chomsky đã khẳng định: "[…] chúng tôi đã chứng minh rằng ngữ pháp sẽ vô cùng phức tạp khi nó phải chứa đựng trong phần cốt lõi của mình cả câu chủ động lẫn câu bị động. Tình hình sẽ trở nên đơn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng