Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Dân số và phát triển kinh tế xã hội tỉnh bình dương...

Tài liệu Dân số và phát triển kinh tế xã hội tỉnh bình dương

.PDF
110
370
90

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Hiển DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH BÌNH DƯƠNG Chuyên ngành : Địa lí học Mã số : 60 31 95 LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM THỊ XUÂN THỌ Thành phố Hồ Chí Minh – 2009 LỜI CẢM ƠN Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tác giả xin gửi lời cảm ơn tới TS. Phạm Thị Xuân Thọ người đã tận tình hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn thiện luận văn. Tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy, cô giáo trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài. Tác giả cũng trân trọng cảm ơn các cơ quan: Cục Tống kê tỉnh Bình Dương, Ủy ban Dân số - gia đình và trẻ em tỉnh Bình Dương và các huyện thị, Sở Y tế Bình Dương, Sở Lao động – Thương binh – Xã hội tỉnh Bình Dương đã giúp đỡ tác giả trong quá trình thu thập số liệu, tài liệu và thông tin có liên quan đến nội dung nghiên cứu. Cuối cùng, tác giả xin lời cảm ơn đến bạn bè, đồng nghiệp và người thân đã giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tác giả trong suốt thời gian học tập và thực hiện luận văn. Bình Dương, ngày………tháng……….năm 2009 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Hiển MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Bình Dương là một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, được Trung ương xác định là một trong 4 tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, cùng với TP.HCM, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu. Là tỉnh được tái lập năm 1997 với 7 huyện thị gồm 79 phường, xã, thị trấn; diện tích tự nhiên là 2.681km2 và mật độ dân số gần 300 người/km2. Với lợi thế về vị trí địa lí, Bình Dương có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc giao lưu kinh tế, văn hoá, khoa học kĩ thuật với các tỉnh trong cả nước và quốc tế. Đây cũng là lợi thế thu hút các nhà đầu tư, dân cư, lao động đến làm ăn, sinh sống. Chính điều này đã làm cho đặc điểm dân số và tình hình phát triển kinh tế - xã hội của Bình Dương có nhiều biến động đặc biệt là từ năm 1997 đến nay. Do nhu cầu tăng trưởng kinh tế, tỉnh đã thu hút rất nhiều lao động ngoại tỉnh đến làm việc làm cho quy mô dân số Bình Dương ngày càng lớn và phần lớn là do gia tăng cơ học. Vấn đề dân số bao gồm cả quy mô, cơ cấu, chất lượng dân số và phân bố dân cư có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và vẫn là thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống cả trong hiện tại và tương lai. Dân số và mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh là một vấn đề cần được quan tâm, nhìn nhận, phân tích và đánh giá. Làm được điều này sẽ góp phần lớn vào việc thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời gian tới. Chính vì vậy, tác giả luận văn đã chọn đề tài “Dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương” để làm luận văn tốt nghiệp. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu 2.1. Mục tiêu - Phân tích đặc điểm dân số và sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương từ 1997 – 2007. - Phân tích mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương; định hướng sự phát triển dân số của tỉnh trong tương lai, đưa ra giải pháp nhằm phát triển cân đối giữa dân số và kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tổng quan cơ sở lí luận về dân số, phát triển; mối quan hệ giữa dân số và phát triển. - Phân tích các đặc điểm về dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương. Từ đó rút ra mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. - Căn cứ thực trạng dân số và tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh để định hướng sự phát triển dân số của tỉnh trong tương lai đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm tạo sự cân đối hài hòa giữa phát triển dân số và phát triển kinh tế - xã hội ở Bình Dương. 2.3. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: Đi sâu vào nghiên cứu mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương trên địa bàn toàn tỉnh theo ranh giới hành chính hiện nay (gồm 7 huyện, thị). - Về thời gian: đề tài nghiên cứu tình hình phát triển dân số và kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương từ năm 1997 đến nay (tức là từ khi Bình Dương chính thức tách ra khỏi tỉnh Sông Bé, tái thành lập vào năm 1/1/1997). Đây là giai đoạn có những biến đổi sâu sắc và mạnh mẽ về tình hình kinh tế - xã hội và những thay đổi rõ rệt về quy mô và đặc điểm dân số của tỉnh. 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu của nhiều nhà nghiên cứu về nhân khẩu, chính trị, kinh tế trên thế giới. Nó là một quá trình, trong đó mỗi yếu tố phát triển theo những quy luật riêng và giữa chúng luôn tồn tại những mối quan hệ chặt chẽ. Ảnh hưởng của dân số tới phát triển kinh tế - xã hội đã được các nhà dân số, kinh tế và chính trị trên thế giới quan tâm nghiên cứu. Chẳng hạn như trong các tác phẩm của R.C. Sharma – Population Resources Environment and Quality of Life; Frank T.Denton và Byron G.Spener – Population and the Economy; Parks.s – Tăng trưởng và phát triển. Ở Việt Nam, những năm cuối thập kỉ 80 đến nay đã có các công trình nghiên cứu của GS.TS. Đặng Thu, PGS.TS. Nguyễn Minh Tuệ, GS. Đào Thế Tuấn…. về vấn đề mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội; tác phẩm “Dân số và phát triển ở Việt Nam” của Patrick Gubry, Nguyễn Hữu Dũng, Phạm Thuý Hương. Ngoài ra còn có luận án tiến sĩ với đề tài “Phát triển dân số và mối quan hệ của nó với phát triển kinh tế - xã hội TP.HCM” của PGS.TS. Nguyễn Kim Hồng – Trường Đại học Sư phạm TP.HCM, luận án P.TS “Lượng hoá một số tương quan chủ yếu giữa các chỉ tiêu về dân số và phát triển kinh tế tại TP.HCM” của Nguyễn Thuấn – Trường Đại học Kinh tế TP.HCM”…. Bên cạnh đó còn có 2 cuộc hội thảo Quốc gia và Quốc tế về vấn đề dân số và phát triển kinh tế - xã hội (năm 1987 và 1992). Các cuộc hội thảo nói trên đã đề cập đến nhiều lĩnh vực và biện pháp làm giảm áp lực của gia tăng dân số, tận dụng mọi tiềm năng về tự nhiên và lao động để phát triển nhanh chóng nền kinh tế - xã hội nước ta. Bình Dương có một số đề tài nghiên cứu liên quan đến một số khía cạnh của dân số như “Chiến lược dân số Bình Dương, giai đoạn 2001 – 2010” – UBND tỉnh Bình Dương, “Báo cáo 15 năm công tác dân số, gia đình và trẻ em tỉnh Bình Dương 1990 – 2005” - Ủy ban dân số, gia đình và trẻ em tỉnh Bình Dương, “Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện công tác dân số, gia đình và trẻ em năm 2006 và nhiệm vụ công tác năm 2007” – Uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em tỉnh Bình Dương, “Chương trình giải quyết việc làm tỉnh Bình Dương giai đoạn 2001 – 2005” – Ban chỉ đạo xây dựng chương trình việc làm - UBND tỉnh Bình Dương, “Đề án xúc tiến lao động” – Sở Lao động Thương binh - Xã hội tỉnh Bình Dương….. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách đầy đủ và chi tiết vấn đề mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương. Các công trình nghiên cứu kể trên sẽ là những tài liệu tham khảo quý giá cho tác giả nghiên cứu đề tài “Dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương” được đầy đủ và hoàn chỉnh hơn. 4. Hệ quan điểm nghiên cứu 4.1. Quan điểm hệ thống Dân số và phát triển kinh tế - xã hội là một bộ phận cấu thành của hệ thống kinh tế – xã hội. Sự thay đổi về quy mô, đặc điểm dân số có thể chịu ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế - xã hội và ngược lại. Vì vậy, phải coi các vấn đề dân số và phát triển như là một hệ thống nằm trong hệ thống kinh tế xã hội hoàn chỉnh, luôn luôn vận động và phát triển không ngừng. 4.2. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ Việc nghiên cứu các vấn đề dân số và phát triển của tỉnh không thể tách rời vấn đề dân số và phát triển của các tỉnh lân cận, của vùng Đông Nam Bộ và cả nước. Vì dân số và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Dương cũng là một bộ phận của dân số và phát triển kinh tế - xã hội vùng Đông Nam Bộ và cả nước. 4.3. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh Sự phát triển dân số và kinh tế - xã hội trong quá khứ, tương lai ảnh hưởng rất lớn đến quy mô, đặc điểm dân số và phát triển kinh tế - xã hội hiện tại. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề dân số và phát triển kinh tế - xã hội trong mối liên hệ quá khứ - hiện tại – tương lai sẽ làm rõ được bản chất của vấn đề theo một chuỗi thời gian, đảm bảo được tính logic, khoa học và chính xác khi nghiên cứu. 4.4. Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững Nghiên cứu những vấn đề dân số phải dựa trên quan điểm sinh thái và phát triển bền vững. Phát triển dân số, kinh tế - xã hội phải đi đôi với sử dụng hợp lí, bảo vệ và tái tạo tài nguyên thiên nhiên, chống gây ô nhiễm môi trường; kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp sưu tầm Đây là một phương pháp rất quan trọng vì trên cơ sở sưu tầm được những số liệu có liên quan đến nôi dung nghiên cứu, chúng ta mới rút ra được các đặc điểm về dân số tỉnh Bình Dương cũng như nhìn nhận, đánh giá chính xác mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. 5.2. Phương pháp phân tích – tổng hợp Trong quá trình nghiên cứu đề tài, việc vận dụng phương pháp phân tích – tổng hợp nhuần nhuyễn mang lại nhiều lợi ích. Vì dựa trên việc phân tích tài liệu đã có cũng như thực tế, chúng ta mới có cái nhìn toàn diện về vấn đề nghiên cứu. Từ đó, rút ra được những nội dung tổng hợp nhất, đầy đủ nhất đáp ứng được những nhiệm vụ và mục tiêu mà vấn đề đã đặt ra. 5.3. Phương pháp bản đồ - biểu đồ Đây là phương pháp đặc trưng của khoa học Địa lí. Sử dụng phương pháp này giúp cho các vấn đề nghiên cứu được cụ thể, trực quan và toàn diện hơn. Các bản đồ trong đề tài được thành lập bằng phần mềm Mapinfo 7.0, dựa trên cơ sở các dữ liệu đã thu thập và xử lý. Ngoài ra, đề tài còn thể hiện các mối quan hệ địa lí thông qua hệ thống bảng số liệu và biểu đồ. 5.4. Phương pháp nghiên cứu ngoài thực địa Thực địa là phương pháp cần thiết trong quá trình nghiên cứu các vấn đề địa lí kinh tế - xã hội. Vì vậy, trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp này để kiểm tra độ chính xác, tin cậy của các nguồn tài liệu đã thu thập được. V.5. Phương pháp dự báo Đề tài sử dụng phương pháp dự báo dựa trên cơ sở tính toán từ các số liệu đã thu thập được và sự phát triển có tính quy luật của các sự vât, hiện tượng trong quá khứ, hiện tại và tương lai. 6. Các đóng góp chính của đề tài - Tổng quan có chọn lọc một số vấn đề lí luận về dân số, phát triển và mối quan hệ giữa dân số và phát triển. - Phân tích các đặc điểm dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương. - Phân tích mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội ở Bình Dương. - Dự báo sự phát triển dân số của tỉnh trong tương lai và đề xuất những giải pháp nhằm phát triển cân đối mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương. 7. Cấu trúc luận văn Mở đầu Chương 1 : Cơ sở lí luận Chương 2 : Dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương Chương 3 : Kết luận Định hướng và các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương đến 2020 Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN 1.1. Dân số và sự phát triển dân số 1.1.1. Các khái niệm dân số Dân số là tổng số người dân sinh sống trên một lãnh thổ nhất định, được tính ở một thời điểm nhất định. 1.1.1.1. Gia tăng dân số a. Gia tăng tự nhiên: Sự biến động dân số trên thế giới (tăng lên hoặc giảm đi) là do hai nhân tố chủ yếu quyết định: sinh đẻ và tử vong. - Tỉ suất sinh thô (Crude Birth Rate) CBR = B P Trong đó: CBR: tỉ suất sinh thô B: Số trẻ em sinh ra trong năm của địa phương P: Dân số trung bình của địa phương trong năm Tỉ suất sinh thô biểu thị số trẻ em sinh ra tính trung bình so với 1000 người dân trong một năm. Đơn vị tính là phần nghìn (0/00). Đây là thước đo được sử dụng rộng rãi để đánh giá mức sinh. Tỉ suất sinh thay đổi theo không gian và thời gian. Có nhiều yếu tố tác động đến mức sinh trong đó quan trọng nhất là các yếu tố tự nhiên – sinh học, phong tục tập quán và tâm lí xã hội, trình độ phát triển kinh tế - xã hội và các chính sách phát triển dân số của từng nước. Tỉ suất sinh thô trên toàn thế giới và 2 nhóm nước giảm theo thời gian. Trong nửa thế kỉ qua, tỉ suất sinh ở các nhóm nước đều có xu hướng giảm mạnh (1,6 lần) nhưng các nước phát triển giảm nhanh hơn (2 lần). Ở các nước đang phát triển, tỉ suất sinh thô thường cao hơn các nước phát triển. Tỉ suất sinh thời kì 1950 – 1955 của các nước đang phát triển cao hơn các nước phát triển 190/00, đến năm 2004 – 2005 vẫn còn 130/00. Hình 1.1. Tỉ suất sinh thô thời kì 1950 - 2005 phần ngàn 45 40 42 36 36 35 30 25 Toàn thế giới 31 31 27 26 23 20 23 17 15 24 21 Các nước phát triển 15 12 11 1995 2000 2004 2005 10 Các nước đang phát triển 5 0 1950 1955 1975 1980 1985 1990 Nhóm nước - Tổng tỉ suất sinh (Total Fertility Rate TFR) Tổng tỉ suất sinh là số con trung bình sinh ra còn sống của một phụ nữ (hay một nhóm phụ nữ trong suốt cuộc đời mình [6, tr.47] 49 TFR =  ASFRx 15 1000 Trong đó: ASFR: Tỉ suất sinh đặc trưng theo tuổi được tính bằng công thức ASFR = B P fx wx Với: Bfx: số trẻ em sinh ra trong năm bởi số phụ nữ trong độ tuổi x Pwx: Số phụ nữ trong độ tuổi x - Tỉ suất tử thô (Crude Death Rate): CDR = D P Trong đó: CDR: Tỉ suất tử thô D: Số người chết trong năm của địa phương P: Dân số trung bình trong năm của địa phương. Tỉ suất tử thô là số người tử vong trong năm tính trung bình so với 1000 dân. Đơn vị tính là phần nghìn (0/00). Tỉ suất tử thô chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, trong đó những nguyên nhân dẫn đến tử suất tử thô cao chủ yếu là do quy luật tự nhiên, kinh tế - xã hội (chiến tranh, đói nghèo, bệnh tật…) và thiên tai (động đất, núi lửa, hạn hán…). Tỉ suất tử thô trên toàn thế giới cũng như các khu vực nói chung và trong từng nước nói riêng có xu hướng giảm đi rõ rệt so với thời gian trước đây nhờ các tiến bộ về mặt y tế, khoa học – kĩ thuật, đặc biệt là nhờ các điều kiện sống, mức sống và thu nhập ngày càng được cải thiện. Hình 1.2. Tỉ suất tử thô thời kì 1950 - 2005 phần ngàn 30 28 25 25 Toàn thế giới 20 17 15 15 Các nước phát triển 15 12 11 10 9 9 1975 1980 1985 1990 9 10 9 9 10 Các nước đang phát triển 8 5 0 1950 1955 1995 2000 2004 2005 Nhóm nước Nhìn chung, tỉ suất sinh thô có xu hướng giảm dần nhờ những biến đổi sâu sắc về kinh tế - xã hội và cả trong mức sinh. Đầu thế kỉ XX, mức tử vong còn khá cao, nhưng từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đã giảm nhanh. Đối với các nước phát triển, mức chết giảm nhanh, nhưng sau đó chững lại và có chiều hướng tăng lên (150/00 giai đoạn 1950 – 1995, 90/00 giai đoạn 1960 – 1965 và 1975 – 1980 rồi lại tăng lên 100/00 từ năm 1985 đến nay) là do cơ cấu dân số già, tỉ lệ người lớn tuổi cao. Ngược lại, đối với các nước đang phát triển, mức chết giảm chậm hơn (từ 280/00 giai đoạn 1950 – 1955 xuống 120/00 giai đoạn 1975 – 1980) nhưng hiện nay đã đạt mức thấp hơn so với các nước phát triển do cơ cấu dân số trẻ. - Tỉ suất tử vong trẻ em (Infant Mortality Rate – IMR) Tỉ suất tử vong trẻ em là tỉ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi trong năm tính trên 1000 đứa trẻ sinh ra trong năm. Đơn vị tính là phần nghìn ((0/00). [6, tr.54]. IMR = D 0 B0 Trong đó: D0: Số trẻ tử vong dưới 1 tuổi trong năm B0: Số trẻ sinh ra trong năm. - Gia tăng tự nhiên (Natural Increase): Là hiệu số giữa số sinh và tử trong một thời gian nhất định. NI = B – D Trong đó: B: Số sinh D: Số tử vong trong cùng thời kì. - Tỉ suất gia tăng tự nhiên (Rate of Natural Increase): là tỉ số giữa gia tăng tự nhiên và dân số trung bình trong cùng thời kì [6, tr.60]. RNI = BD P - Tỉ suất gia tăng tự nhiên còn được xác định bằng hiệu số giữa tỉ suất sinh thô và tỉ suất tử thô. Đơn vị tính là phần trăm (%). RNI = CBR – CDR Tỉ suất gia tăng tự nhiên có ảnh hưởng rõ rệt đến tình hình biến động dân số và được coi là động lực phát triển dân số. Trong bất kì thời gian nào, mức chết và mức sinh có ảnh hưởng mạnh mẽ đến gia tăng dân số tự nhiên và diễn ra theo một xu hướng nhất định. Trong giai đoạn đầu của xã hội loài người, do mức sinh khá cao nhưng mức chết cũng rất lớn nên gia tăng dân số chậm, hàng trăm năm dân số chỉ tăng vài phần trăm, thậm chí có khi không tăng. Đến cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, do trình độ phát triển kinh tế - xã hội và những thành tựu y học đã đạt được nên tỉ suất tử giảm nhanh, trong khi tỉ suất sinh giảm chậm hoặc có nơi vẫn tiếp tục tăng, làm cho dân số tăng nhanh. Khi mức tử đã đạt thấp, sẽ không tiếp tục giảm nữa, trong khi mức sinh lại giảm nhanh, dân số tăng chậm. Đó là tính quy luật của gia tăng dân số tự nhiên. Tuy nhiên trong cùng thời kì, giữa các nước có trình độ khác nhau, gia tăng tự nhiên diễn ra không như nhau. Bảng 1.1. Biến động tự nhiên dân số trên thế giới giai đoạn 1800 - 2005 (%) Thời kì Các vùng Thế giới Trong đó: Châu Phi Châu Á Mỹ Latinh Bắc Mỹ Châu Âu Châu Đại Dương 1800 1850 0,5 1900 1950 0,8 1975 1980 1,9 1985 1990 1,7 1995 1,5 2005 1,2 0,1 0,5 0,9 2,7 2 - 1,0 0,8 1,6 1,4 0,6 1,6 2,7 2,0 2,7 1,0 0,6 1,9 3,0 1,8 2,2 0,8 0,2 1,4 2,8 1,7 1,9 0,7 - 0,1 1,2 2,3 1,3 1,6 0,6 - 0,1 1,0 Nguồn: World Population Data Sheet 2005 Nơi nào có tốc độ tăng tự nhiên dân số cao, nơi đó dân số tăng nhanh và thời gian dân số tăng gấp đối rút ngắn lại. Hiện nay, tốc độ tăng dân số ở các nước đang phát triển cao hơn nhiều so với các nước phát triển. Do đó, trong tương lai, dân số các nước đang phát triển chiếm tuyệt đại bộ phận dân số thế giới. b. Gia tăng cơ học Gia tăng cơ học liên quan đến hiện tượng chuyển cư của con người. Chuyển cư bao gồm 2 bộ phận: xuất cư (những người rời khỏi nơi cư trú) và nhập cư (những người đến nơi cư trú mới). Trên phạm vi toàn thế giới, gia tăng cơ học không ảnh hưởng đến số dân, nhưng đối với từng khu vực, từng quốc gia và từng địa phương thì gia tăng cơ học nhiều khi lại có ý nghĩa quan trọng làm thay đổi số lượng dân, thay đổi cấu trúc tuổi và các hiện tượng kinh tế - xã hội khác. Gia tăng cơ học được xác định bằng các yếu tố sau: - Tỉ suất nhập cư (Immigration Rate – IR) là tỉ số giữa số người nhập cư và dân số trung bình năm. Đơn vị tính là phần trăm (%) [6, tr.58] IR = I P Trong đó: I: Số người nhập cư trong năm P: Dân số trung bình năm. - Tỉ suất xuất cư (Emigration Rate – ER) là tỉ số giữa số người di chuyển khỏi nơi sinh sống trên tổng số dân của vùng mà họ chuyển khỏi. Đơn vị tính là phần trăm (%) [6, tr.58]. ER = E P Trong đó: E: số người xuất cư trong năm P: Dân số trung bình năm của vùng xuất cư. - Chuyển cư thực (Gia tăng cơ học) (Net Migration): là hiệu số giữa số người nhập cư và số người xuất cư [6, tr.59]. NI = I – E Trong đó: I: số người nhập cư trong năm E: số người xuất cư trong năm. - Tỉ suất chuyển cư thực (Tỉ suất gia tăng cơ học) (Net Migration Rate – NMR) là tỉ số giữa chuyển cư thực với dân số trung bình của vùng [6, tr.59]. NMR = I E = IR – ER P c. Gia tăng dân số (PGR: Population Growth Rate) Đây là thước đo phản ánh đầy đủ và trung thực tình hình biến động dân số của một quốc gia, một vùng. Nó được thể hiện bằng tổng số giữa tỉ suất gia tăng tự nhiên và tỉ suất chuyển cư thực. PGR = RNI + NMR Tỉ suất gia tăng dân số còn được tính theo công thức: PGR = Pt  Po Po Po: dân số ở thời điểm điều tra ban đầu Pt: dân số ở thời điểm điều tra cuối. Nếu thời điểm điều tra cách nhau một năm thì công thức trên cho biết tốc độ tăng trưởng dân số trong một năm. Nếu tốc độ tăng trưởng dân số theo thời gian nhiều năm, các nhà dân số học thường sử dụng công thức hàm mũ để dự báo dân số: Pt = Po.ert Trong đó: Pt: dân số ở năm dự báo Po: dân số ở năm gốc. r: tỉ lệ tăng trưởng dân số t: thời gian tính từ năm gốc đến năm dự báo. Từ đó ta có: 1 Pt Pt Pt Pt  e rt  ln e rt  ln  rt  ln  r  * ln Po Po Po t Po 1.1.1.2. Cơ cấu dân số a. Cơ cấu theo tuổi và giới tính - Cơ cấu theo tuổi: Cơ cấu tuổi của dân số thể hiện tình hình sinh tử, khả năng phát triển dân số và nguồn lao động của một quốc gia, một vùng. Trong dân số học, người thường phân chia lớp tuổi cách nhau từ 5 – 10 năm. Ví du: 0 – 4, 5 – 9, 10 – 14, 15 – 19…. Các nhà dân số học còn chia 3 nhóm tuổi liên quan đến việc sử dụng lao động: - Nhóm dưới tuổi lao động: 0 – 14 tuổi. - Nhóm tuổi lao động: 15 – 59 tuổi (hoặc đến 64 tuổi) - Nhóm trên tuổi lao động: trên 60 tuổi (hoặc trên 65 tuổi). Số người trong nhóm tuổi lao động là nguồn nhân lực quan trọng, là vốn quý của quốc gia, cần phải sử dụng số người trong nhóm tuổi này một cách tối ưu để tạo ra sức sản xuất cao nhất cho xã hội.  Dân số già và dân số trẻ: - Dân số già là dân số có tỉ lệ người già (60 tuổi trở lên) chiếm trên 10% dân số, thể hiện tỉ suất sinh rất thấp, tỉ suất tử rất thấp, trẻ em (0- 14 tuổi) dưới 30 – 35% và tuổi thọ trung bình (kì vọng sống) cao. - Dân số trẻ là dân số có tỉ suất sinh cao, tỉ suất tử thấp, số trẻ em từ 0 – 14 tuổi chiếm đến trên 35% dân số, số người già (từ 60 tuổi trở lên) chiếm dưới 10% dân số, tuổi thọ trung bình (kì vọng sống) thấp. - Tỉ số phụ thuộc: còn gọi là "gánh nặng phụ thuộc", là số người ngoài độ tuổi lao động tương ứng với 100 người trong độ tuổi lao động. Số trẻ em + Số người cao tuổi Tỷ số phụ thuộc = -----------------------------------Số người trong độ tuổi lao động Bảng 1.2. Tỷ số phụ thuộc ở nước ta giai đoạn 1979 - 2005 Năm Tỷ số phụ thuộc 1979 95 1989 86 1999 69 2005 55 Nguồn: Nguyễn Minh Tuệ - Giáo trình dân số - sức khỏe sinh sản - Tỷ số phụ thuộc không ngừng giảm xuống: Năm 1979 là 95, năm 1989: là 86, năm 1999 là 69 và năm 2005 là 55. Như vậy, nếu năm 1979, cứ 100 người trong độ tuổi lao động phải nuôi 95 người ngoài độ tuổi lao động (bình quân mỗi người phải nuôi 0,95 người phụ thuộc) thì con số này năm 2005 chỉ còn 55, giảm tới hơn 42%. Theo dự báo, tỷ lệ này đến năm 2014, chỉ còn khoảng 48, nghĩa là chỉ còn bằng gần nửa năm 1979. Người ta nói rằng, đây là “cơ cấu dân số vàng”, hay “ Dư lợi dân số" tức là mỗi người lao động gánh nhẹ dần số người ăn theo, tạo điều kiện tốt cho kinh tế quốc dân, kinh tế gia đình có tiết kiệm để đầu tư phát triển. Điều này chắc chắn tác động lớn đến chất lượng cuộc sống. Nghiên cứu chi tiết hơn về "gánh nặng phụ thuộc ", người ta tính: Tỷ số trẻ em phụ thuộc, và Tỷ số người già phụ thuộc, bằng cách, trong công thức tính nói trên, ở tử số, tương ứng là số lượng "trẻ em" hoặc "người già". Tỷ số phụ thuộc trẻ em = Tỷ số phụ thuộc người già = Dân số dưới tuổi lao động Dân số trong tuổi lao động Dân số trên tuổi lao động Dân số trong tuổi lao động - Cơ cấu theo giới tính: Việc nghiên cứu cơ cấu dân số theo giới tính có một ý nghĩa thực tiễn to lớn trong việc phân công lao động xã hội và áp dụng chính sách kinh tế - xã hội của một quốc gia. Tỉ suất giới tính nam nữ thường chênh lệch nhau, tỉ suất này lại thay đổi theo các nhóm tuổi. Cơ cấu dân số theo giới biểu thị tương quan giữa giới nam so với giới nữ hoặc so với tổng số dân. Đơn vị tính là %. Pm Pf Pm hoặc hoặc P P Pf Trong đó: Pm: dân số nam Pf: dân số nữ.  Tháp tuổi hay tháp dân số: là sự biểu thị kết hợp cơ cấu tuổi và giới tính của dân số dưới dạng hình học. Trục hoành thể hiện số lượng tuyệt đối (hoặc %) một bên là nam, một bên là nữ, trục tung thể hiện độ tuổi [6, tr.121]. Tháp dân số bao gồm những thanh ngang thể hiện những nhóm tuổi liên tiếp nhau từ độ tuổi thấp nhất ở đáy của tháp đến độ tuổi cao nhất ở đỉnh tháp. Tháp dân số được chia thành 2 phần bởi trục thẳng đứng (trục tung) vuông góc với trục ngang (trục hoành) từ đáy lên đỉnh tháp. Phần bên trái của tháp chỉ cơ cấu tuổi của nam giới, phần bên phải – nữ giới. Các nhà dân số học chia ra 3 kiểu tháp tuổi: - Kiểu mở rộng: là của những nước có cơ cấu dân số trẻ. Các nước đang phát triển phần lớn là kiểu tháp tuổi mở rộng. - Kiểu thu hẹp: Dân số tăng chậm, nhóm tuổi từ 0 – 14 chiếm tỉ lệ nhỏ. Những thế hệ sau mới sinh thu hẹp dần, tạo nên một kiểu cấu trúc chuyển tiếp từ “mở rộng” sang “thu hẹp”. - Kiểu ổn định: Dân số gần như không tăng, tỉ suất sinh rất thấp và tỉ suất tử vong cũng rất thấp ở nhóm tuổi trẻ, nhưng ở nhóm tuổi già tỉ suất tử vong cao, dần dần thu hẹp lại ở nhóm tuổi già. Kiểu tháp tuổi này phổ biến ở các nước phát triển. + 80 + 80 75-79 75-79 70-74 70-74 65-69 NAM NỮ 60-64 65-69 NAM 55-59 55-59 50-54 50-54 45-49 %8 45-49 40-44 40-44 35-39 35-39 30-34 30-34 25-29 25-29 20-24 20-24 15 -19 15 -19 10-14 10-14 5-9 5-9 0-4 6 4 2 0 NỮ 60-64 0 2 4 6 % 8 Năm 1999 %6 0-4 4 2 0 0 2 4 % 6 Năm 2004 Hình 1.3. Tháp tuổi dân số Việt Nam, thời kì 1999 - 2004 b. Cơ cấu dân tộc và xã hội của dân số - Cơ cấu dân tộc: Dân tộc là một cộng đồng người ổn định, được hình thành trong quá trình lịch sử, có những quan hệ chung về lãnh thổ cư trú, tâm lí dân tộc, ngôn ngữ, kinh tế và một số đặc trưng về văn hoá, hình thành trên cơ sở phát triển của các bộ tộc. Trên thế giới có nhiều chủng tộc. Những dấu hiệu để phân loại chủng tộc là các đặc điểm về hình thái. Đặc điểm bề ngoài dễ nhận thấy nhất là màu da, mắt, dạng tóc, song quan trọng hơn cả là hình dạng hộp sọ. Trong sự phát triển của các chủng tộc, điều kiện tự nhiên có vai trò đặc biệt. Việc cư trú của các nhóm người ở các vùng với các điều kiện tự nhiên khác nhau là tiền đề cho việc hình thành các chủng tộc. Vào thời kì sơ khai, nhiều hàng rào tự nhiên như núi cao khó vượt qua, sông sâu, biển rộng đã dần ngăn cách các nhóm người. Sự tách biệt về mặt địa lí đã dẫn tới sự phân hoá mạnh mẽ giữa các chủng tộc. Do sự thay đổi các điều kiện tự nhiên, của các điều kiện sinh thái trên Trái Đất và các hoạt động kinh tế xã hội của loài người đã dẫn đến các cuộc chuyển cư của con người. Dần dần, loài người cư trú hầu hết các lãnh thổ thuận lợi cho việc sinh sống của con người. Khi mật độ dân số tăng lên do có người từ nơi khác tới thì xảy ra sự tiếp xúc giữa nhóm người này với nhóm người khác. Bằng cách này đã dẫn tới sự pha trộn giữa các chủng tộc và làm giảm bớt sự phân hoá ban đầu. Quá trình này xảy ra lâu dài và liên tục. Ngày nay, nhân loại càng phát triển, càng tiến tới văn minh hơn, nhân bản hơn, mối quan hệ giữa con người càng trở nên phức tạp hơn. Bất cứ dân tộc, cá nhân nào cũng đều chịu sự tác động qua lại trong mối quan hệ nhiều chiều giữa các cộng đồng khác nhau. Các mối quan hệ đó đan xen nhau, chồng chéo nhau, tác động cả tích cực lẫn tiêu cực. Nhưng ý tưởng thường trực, trong đó cao hơn hết, thiêng liêng hơn hết là họ thuộc về dân tộc và cộng đồng chính trị - xã hội nào. Đó là quê hương, là nguồn cội, là ý nghĩa cuộc sống của họ. Vấn đề dân tộc, tộc người trong một quốc gia luôn luôn là một vấn đề lâu dài nhưng đầy rẫy tính thời sự nóng bỏng. Việt Nam có 54 dân tộc cùng chung sống, gắn bó với nhau trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước. Mỗi dân tộc có những nét văn hóa riêng, thể hiện trong ngôn ngữ, trang phục, quần cư, phong tục, tập quán… làm cho nền văn hóa Việt Nam thêm phong phú, giàu bản sắc. Trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, dân tộc Kinh có số dân đông nhất, chiếm khoảng 86% dân số cả nước. Đây là dân tộc có nhiều kinh nghiệm trong thâm canh lúa nước, các nghề thủ công đạt mức độ tinh xảo. Người Kinh là lực lượng lao động đông đảo trong các ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, khoa học – kĩ thuật. Các dân tộc ít người có số dân và trình độ phát triển kinh tế khác nhau. Mỗi dân tộc có kinh nghiệm riêng trong một dân số lĩnh vực như trồng cây ăn quả, cây công nghiệp, chăn nuôi, làm nghề thủ công…. Các hoạt động công nghiệp, dịch vụ, văn hóa, khoa học – kĩ thuật… của nước ta đều có sự tham gia của các dân tộc ít người. - Cơ cấu xã hội + Cơ cấu dân số theo lao động:  Nguồn lao động: Bao gồm bộ phận dân số trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động. Nguồn lao động gồm dân số hoạt động kinh tế và dân số không hoạt động kinh tế. - Dân số hoạt động kinh tế: Dân số hoạt động kinh tế hay còn gọi là lực lượng lao động bao gồm toàn bộ những người đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc không có việc làm nhưng đang có nhu cầu tìm việc. Dân số hoạt động kinh tế trong độ tuổi lao động bao gồm những người trong độ tuổi lao động (nam từ đủ 15 tuổi đến hết 60 tuổi, nữ từ đủ 15 tuổi đến hết 55 tuổi). Dân số hoạt động kinh tế thường xuyên trong 12 tháng là những người từ 15 tuổi trở lên có tổng số ngày làm việc và có nhu cầu làm thêm lớn hơn hoặc bằng 183 ngày và ngược lại là dân số không hoạt động kinh tế thường xuyên. Căn cứ vào hoạt động kinh tế thường xuyên trong 12 tháng của những người từ đủ 15 tuổi trở lên, số người hoạt động kinh tế thường xuyên chia làm 2 loại: + Dân số có việc làm thường xuyên trong 12 tháng bao gồm những người từ đủ 15 tuổi trở lên có tổng số ngày làm việc thực tế lớn hơn hoặc bằng tổng số ngày có nhu cầu làm thêm. + Dân số không có việc làm thường xuyên gồm những người từ đủ 15 tuổi trở lên có tổng số ngày làm việc thực tế nhỏ hơn số ngày có nhu cầu làm thêm. - Dân số không hoạt động kinh tế: Dân số không hoạt động kinh tế bao gồm toàn bộ những người từ đủ 15 tuổi trở lên không thuộc bộ phận có việc làm và không có việc làm. Những người này không hoạt động kinh tế vì những lí do:  Đang đi học;  Hiện đang là nội trợ cho gia đình;  Già cả, ốm đau;  Tàn tật, không có khả năng lao động;  Hoặc ở tình trạng khác (gồm những người không muốn làm việc và những người nghỉ hưu không làm việc). - Người thất nghiệp: là những người đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế mà trong tuần lễ trước cuộc điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc: + Có hoạt động đi tìm việc trong 4 tuần qua; hoặc không có hoạt động đi tìm việc trong 4 tuần qua vì lí do không biết tìm việc ở đâu hoặc tìm mãi mà không được. + Hoặc trong tuần lễ trước cuộc điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 8 giờ, muốn làm thêm nhưng không tìm được việc. Tỉ lệ dân số hoạt động kinh tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố: tỉ lệ lớp tuổi trẻ và già trong tổng số dân, số người đang đi học hoặc ở trong quân đội chiếm bao nhiêu phần trăm. Việc giải quyết công ăn, việc làm hoặc đầu tư vốn để mở mang nền kinh tế quốc dân ở từng quốc gia như thế nào...  Dân số hoạt động chia theo khu vực hoạt động kinh tế: Theo các nhà kinh tế, có 3 khu vực hoạt động kinh tế xã hội ứng với 3 khu vực có số lượng lao động nhất định. Mỗi khu vực có tính chất sản xuất, chất lượng và giá trị sản phẩm, hiệu quả kinh tế riêng, phản ánh sức sản xuất, trình độ sản xuất của xã hội. - Khu vực I: bao gồm lao động trong các ngành nông - lâm - ngư nghiệp - Khu vực II: lao động hoạt động trong ngành công nghiệp, xây dựng. - Khu vực III: bao gồm lao động trong các ngành dịch vụ. Các nước có nền kinh tế phát triển, tỉ trọng lao động trong khu vực III rất cao (chiếm khoảng 70% dân số trở lên), ngược lại các nước đang phát triển còn thấp (chỉ chiếm khoảng 20% dân số). Trên bình diện toàn cầu hiện nay, hơn 40% dân số hoạt động trong khu vực I, 30% khu vực II và gần 30% ở khu vực III. + Cơ cấu dân số theo trình độ văn hoá: Cơ cấu dân số theo trình độ văn hoá phản ánh trình độ dân trí và học vấn của dân cư, là một trong những tiêu chí để đánh giá chất lượng cuộc sống ở mỗi quốc gia. Trình độ dân trí của dân cư cao là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, thúc đẩy các mặt khác của đời sống xã hội. Để xác định cơ cấu dân số theo trình độ văn hoá, người ta thường dùng 2 tiêu chí: tỉ lệ biết chữ (số % những người từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết) và số năm đến trường (số năm bình quân đến trường học của những người từ 25 tuổi trở lên). Hiện nay, trên thế giới có trên 1 tỉ người mù chữ. Tỉ lệ người mù chữ cao nhất là ở các nước Châu Phi, Nam Á và các nước Ả Rập. Trong khi đó, tại các nước có phát triển, tỉ lệ người biết chữ rất cao, từ 90 đến 100%. Số năm đi học của người dân ở các nước phát triển khá cao, từ 10 – 14 năm, trong khi đó ở các nước đang phát triển, con số đó chỉ dao động từ 3 - 5 năm. 1.1.2. Các học thuyết dân số 1.1.2.1. Học thuyết quá độ dân số [6, tr.36] Là học thuyết về sự biến đổi dân số từ tỉ suất gia tăng cao, tỉ suất sinh cao xuống tỉ suất gia tăng thấp, tỉ suất tử thấp dẫn đến gia tăng dân số thấp. Học thuyết quá độ dân số dựa trên cơ sở những biến đổi về dân số ở châu Âu vào lúc bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp. Mô hình xây dựng là dựa trên việc quan sát các biến đổi dân số ở châu Âu là một mô hình kinh điển về quá độ dân số. Hiện tượng biến đổi dân số được chia thành 4 giai đoạn: Giai đoạn 1: từ 1750 – 1800: tỉ suất sinh và tỉ suất tử tương đối cao, gia tăng tự nhiên thấp (khoảng 0,5% mỗi năm). Giai đoạn 2: Từ năm 1800 – 1875: tỉ suất sinh tiếp tục tăng cao nhưng tỉ suất chết ngày càng giảm, dẫn đến tỉ suất gia tăng tự nhiên cao (2%/năm). Giai đoạn 3: Từ năm 1875 – 1950: tỉ suất sinh giảm và tỉ suất tử tiếp tục giảm đến mức thấp nhất, tỉ suất gia tăng tự nhiên bắt đầu giảm dần. Giai đoạn 4: Từ năm 1950 – 1975: tỉ suất sinh và tỉ suất tử đều ở mức độ thấp: tỉ suất gia tăng tự nhiên thấp và tạo nên ổn định dân số. Giai đoạn 2 và giai đoạn 3 được gọi là giai đoạn quá độ dân số. Học thuyết quá độ dân số đã chú ý đến sự thay đổi về tỉ suất sinh và tỉ suất tử ở các giai đoạn khác nhau của những nước phát triển, khi mà các nước chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp truyền thống sang nền kinh tế công nghiệp và dịch vụ, tức là trải qua thời kì tỉ suất sinh, tỉ suất tử cao sang thời kì tỉ suất sinh, tỉ suất tử thấp. Đánh giá về mối quan hệ giữa tiến trình phát triển kinh tế - xã hội với các biến động dân số, các nhà nhân khẩu học đã rút ra nhận xét là “tất cả các dân tộc trong kỉ nguyên hiện đại đã chuyển từ nền kinh tế truyền thống sang nền kinh tế công nghiệp lớn trên cơ sở đô thị hoá, hiện đại hoá đều chuyển từ mức sinh và mức chết cao sang mức sinh và mức chết thấp”. Như vậy, quá độ dân số là giai đoạn nhất thiết phải trải qua, mặc dù thời gian dài ngắn có thể khác nhau. Theo lí thuyết này, việc giảm mức sinh là quá trình đi kèm của công nghiệp hoá và hiện đại hóa. Tuy vậy, đối với các nước đang phát triển, dân số tăng rất nhanh, không thể chờ đợi công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà phải chấp nhận chương trình kế hoạch hoá gia đình nhằm tác động trực tiếp đến sự gia tăng dân số. 1.1.2.2. Học thuyết dân số tối ưu [6, tr.40] Hiện nay có nhiều quốc gia có dân số quá đông khiến việc làm và cuộc sống gặp nhiều khó khăn, tình trạng đói ăn diễn ra thường xuyên, nạn suy dinh dưỡng trở nên phổ biến. Tuy nhiên, ở một số quốc gia lại có mật độ dân số không cao, dân cư thưa thớt. Cả hai trường hợp trên đều dẫn đến những khó khăn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Xuất phát từ những vấn đề trên, nhiều nhà nhân khẩu học đã đề xuất học thuyết “dân số tối ưu”. Trước khi nghiên cứu dân số tối ưu, cần tìm hiểu thế nào là dân số tối đa. Dân số tối đa của một quốc gia hay một địa phương là dân số đã đạt đến mức giới hạn không được vượt qua mức đó, nếu vượt qua dân cư sẽ nhanh chóng lâm vào tình trạng bần cùng, đói khổ. Hiện nay chỉ còn một vài nơi trên thế giới có dân số thưa thớt như ở Bắc cực, Nam cực…. Những nơi này cũng không thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Từ hai hình ảnh tương phản trên, thuyết “dân số tối ưu” ra đời nhằm xây dựng một dân số hợp lí để có thể phát triển kinh tế - xã hội thuận lợi. Sự gia tăng dân số khác nhau sẽ kéo theo sự gia tăng nhu cầu tiêu thụ sản phẩm khác nhau. Có hai cách để giải quyết: Một là phải tìm cách giảm sự gia tăng dân số, hai là phải đẩy mạnh nền sản xuất xã hội nhằm tạo ra nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu của dân số. Nếu sự gia tăng dân số không đi đôi với sự gia tăng sản xuất thì kết quả sẽ vô cùng tồi tệ, bởi vì mức sống của con người sẽ nhanh chóng giảm sút. Sự gia tăng dân số của nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay không hợp lí. Bởi vì, sự gia tăng dân số nhanh khiến cho ngân sách quốc gia phải gánh chịu nhiều tốn kém. Chẳng hạn ở Pháp cứ 1% dân số tăng thêm thì chính phủ phải chi thêm 6,3 – 8% thu nhập quốc dân để đảm bảo mức sống không bị sụt giảm; còn ở Mĩ cứ 1% dân số tăng thêm thì chính phủ phải chi 2 – 3% ngân sách quốc gia để ổn định mức sống dân cư. Đối với các quốc gia đang phát triển, do nền kinh tế kém phát triển, ngân sách quốc gia vốn đã eo hẹp, sản xuất không có tích luỹ nên dân số tăng lên không hợp lí sẽ đẩy nền kinh tế vốn kém phát triển vào tình trạng khó khăn hơn, tốc độ phát triển kinh tế có thể bằng 0 hoặc âm. Như vậy, một quốc gia muốn phát triển kinh tế - xã hội một cách thuận lợi thì cần có một dân số phù hợp, tức là “dân số tối ưu”. 1.2. Các khái niệm về phát triển và chỉ số đo sự phát triển 1.2.1. Khái niệm phát triển - Tăng trưởng kinh tế: Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên của tổng sản phẩm quốc dân và tổng sản phẩm quốc nội hoặc mức tăng của tổng sản phẩm quốc dân hoặc tổng sản phẩm trong nước tính theo đầu người [2, tr.115]. - Phát triển kinh tế: Theo các nhà kinh tế chính trị học thì sự phát triển là quá trình mà xã hội đạt đến thoả mãn các nhu cầu về vật chất và tinh thần mà xã hội đó coi là cơ bản. khi nói đến nền kinh tế phát triển là muốn nhấn mạnh mức độ lớn lên của nền kinh tế và mặt chất lượng [2, tr.115]. Phát triển không chỉ đơn thuần là sự tăng trưởng. Không phải mọi sự tăng trưởng đều dẫn đến sự phát triển, nhưng không có một sự phát triển nào mà lại không bao hàm sự tăng trưởng. Ngoài tăng trưởng, phát triển còn bao hàm nhiều yếu tố khác, trong đó phát triển phải đi kèm sự thay đổi về cơ cấu kinh tế, lao động, nâng cao chất lượng cuộc sống… Đặc trưng của sự phát triển kinh tế là sự thay đổi trong cơ cấu nền kinh tế, tức là tăng tỉ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ, đồng thời giảm tỉ trọng của ngành nông nghiệp trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc dân. Từ đó kéo theo việc tăng tỉ lệ người sống trong các đô thị và giảm tỉ lệ người sống ở nông thôn. Qua đó, chúng ta có thể thấy: - Có một số quốc gia trên thực tế có sự tăng trưởng mà không có sự phát triển. Đó là những nước chọn sự phát triển thuần tuý tức là chỉ chú trọng tới việc tăng thêm về số lượng. - Ở một vài quốc gia khác tuy không đạt đến sự tăng trưởng nhưng lại thực hiện được công bằng xã hội tốt hơn, giảm bớt lãng phí để mang lại lợi ích cho người dân. Thông thường, tăng trưởng và phát triển thường đi đôi với nhau. Khi có sự gia tăng về thu nhập và sản phẩm theo đầu người thì ít nhiều có sự gia tăng về phúc lợi xã hội. Vì thế không thể có sự phát triển mà không có tăng trưởng. Như vậy, đã có phát triển thì chắc chắn có tăng trưởng nhưng có tăng trưởng chưa chắc đã có phát triển. 1.2.2. Các chỉ số đo sự phát triển 1.2.2.1. Tổng sản phẩm quốc dân (GNP hay GNI) và tổng sản phẩm quốc nội (GDP) Tổng sản phẩm quốc dân (GNP): là tổng giá trị thị trường của tất cả hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng cuối cùng được tạo ra do một quốc gia ở một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). GNP không chỉ bao gồm tổng sản phẩm cuối cùng về hàng hoá và dịch vụ được tạo ra bên trong lãnh thổ một quốc gia mà còn tính đến các khoản thu nhập do đầu tư ở nước ngoài và các khoản tiền của công nhân từ nước ngoài gửi về, nhưng phải trừ đi giá trị sản phẩm mà nền kinh tế nước đó phải trả cho người nước ngoài dưới dạng lợi nhuận do việc họ đã đầu tư vào nền kinh tế của nước mình [2, tr.34]. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP): là tổng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng cuối cùng mà một nền kinh tế tạo ra bên trong một quốc gia không phân biệt do người trong nước hay người nước ngoài làm ra, ở một thời kì nhất định, thường là một năm [2, tr.35]. GDP thường dùng để phân tích cơ cấu kinh tế, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, trình độ phát triển và mức sống con người. 1.2.2.2. Kì vọng sống hay tuổi thọ trung bình (Life expectancy): Kì vọng sống hay tuổi thọ trung bình là số năm trung bình của người sinh ra có khả năng sống được. Tuổi thọ trung bình không tính tới những trường hợp chết không bình thường (chết tai nạn, chết chiến tranh…) [6, tr.98]. Kì vọng sống là một trong những chỉ tiêu để đánh giá trình độ phát triển kinh tế, điều kiện sống, mức thu nhập, điều kiện y tế, chăm sóc sức khoẻ của một quốc gia, một khu vực…. 1.2.2.3. Chỉ số calo bình quân đầu người Thức ăn là nguồn cung cấp năng lượng cho con người. Theo quy ước, người dùng đơn vị calo để đo nhu cầu năng lượng và khả năng cung cấp năng lượng cho con người. Theo tổ chức lương thức thế giới (FAO) thì chính lương thực thực phẩm là nguồn cung cấp năng lượng thiết yếu cho con người. Những hoạt động sinh hoạt và sản xuất khác nhau đòi hỏi mức cung cấp năng lượng khác nhau. Nhu cầu năng lượng còn thay đổi theo độ tuổi và giới tính, mức lao động và trọng lượng cơ thể. Ở các nước công nghiệp phát triển, lượng calo cung cấp cho một người cao gấp 1,5 lần các nước đang phát triển và vượt nhu cầu năng lượng của cơ thể (khoảng 3500 calo/người/ngày). Lượng calo cung cấp thực tế ở các nước đang phát triển thấp hơn (khoảng 2600 calo/người/ngày). Ở các nước chậm phát triển, lượng calo bình quân hàng ngày của một người khoảng 2100 và lại không được phân
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan