VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÀN THỊ QUỲNH GIAO
DÂN CA NGHI LỄ TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
CỦA NGƯỜI DAO TUYỂN Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Văn học dân gian
Mã số: 62 22 01 25
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Huế
HÀ NỘI, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong luận án là trung thực, đảm bảo độ chuẩn xác cao nhất có thể.
Các tài liệu tham khảo, trích dẫn có xuất xứ rõ ràng. Tôi hoàn toàn chịu trách
nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.
Hà Nội, 13 tháng 02 năm 2017
Tác giả
Bàn Thị Quỳnh Giao
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, nghiên cứu sinh cảm ơn lãnh đạo Viện Văn học và Học
Viện Khoa học Xã hội – Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam đã tạo
điều kiện cho nghiên cứu sinh thực hiện luận án. Cảm ơn quý Thầy, Cô đã
nhiệt tình giảng dạy trong suốt quá trình làm nghiên cứu sinh.
Đặc biệt, xin gửi đến PGS. TS Nguyễn Thị Huế lòng biết ơn sâu sắc.
Cô đã tận tình chỉ dạy, hướng dẫn, trao đổi, trao cơ hội và đặt niềm tin vào
các nghiên cứu của tôi.
Cảm ơn những người bạn thiểu số đã giúp đỡ, các thầy cúng người Dao
Tuyển ở các vùng miền thực địa của luận án đã cùng thảo luận, góp ý trong
mọi hoàn cảnh, điều kiện và mục đích chung đưa dân ca nghi lễ của người
Dao Tuyển đến gần với bạn đọc.
Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình, bạn hữu đã động viên, ủng hộ trong
suốt quá trình nghiên cứu.
Tác giả
Bàn Thị Quỳnh Giao
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ
LUẬN VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU ..................................................... 8
1.1. Tình hình nghiên cứu .............................................................................. 8
1.2. Cơ sở lý luận ......................................................................................... 18
1.3. Khái quát về người Dao Tuyển và dân ca nghi lễ của người Dao Tuyển
ở Việt Nam ................................................................................................... 27
Chương 2: DIỄN TRÌNH DIỄN XƯỚNG DÂN CA NGHI LỄ CỦA
NGƯỜI DAO TUYỂN .................................................................................. 39
2.1. Dân ca trong nghi lễ cấp sắc ................................................................. 40
2.2. Dân ca trong nghi lễ đám cưới .............................................................. 50
2.3. Dân ca trong nghi lễ tang ma ................................................................ 60
Chương 3: SỰ PHẢN ÁNH THẾ GIỚI TÂM LINH VÀ ĐỜI SỐNG CON
NGƯỜI TRONG DÂN CA NGHI LỄ CỦA NGƯỜI DAO TUYỂN.............. 73
3.1. Dân ca nghi lễ phản ánh thế giới quan của người Dao Tuyển.............. 73
3.2. Dân ca nghi lễ phản ánh vũ trụ quan của người Dao Tuyển ............... 87
3.3. Dân ca nghi lễ phản ánh triết lý nhân sinh quan của người Dao Tuyển ... 99
Chương 4: CÁC YẾU TỐ NGHỆ THUẬT TRONG DÂN CA NGHI LỄ
CỦA NGƯỜI DAO TUYỂN ...................................................................... 115
4.1. Nghệ thuật diễn xướng dân ca nghi lễ của người Dao Tuyển ............ 115
4.2. Ngôn ngữ trong dân ca nghi lễ của người Dao Tuyển........................ 130
4.3. Thể thơ trong dân ca nghi lễ của người Dao Tuyển ........................... 140
KẾT LUẬN .................................................................................................. 147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG
BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ....................................... 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 152
PHỤ LỤC
QUY ƯỚC VIẾT TẮT ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN
1
Giáo sư
GS
2
Hà Nội
H.
3
Nhà xuất bản
Nxb
4
Phó giáo sư
PGS
5
Phụ lục
PL
6
Tiến sĩ
TS
7
Trang
tr
8
Văn hóa dân tộc
VHDT
9
Văn hóa thông tin
VHTT
10
Văn hóa dân gian
VHDG
11
Khoa học xã hội
KHXH
12
Đại học Quốc gia
ĐHQG
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU TRONG LUẬN ÁN
Bảng 1: Diễn trình nghi lễ cấp sắc của người Dao Tuyển .............................. 40
Bảng 2: Diễn trình nghi lễ cưới hỏi của người Dao Tuyển ............................ 50
Bảng 3: Diễn trình nghi lễ tang ma của người Dao Tuyển ............................. 61
Sơ đồ 1: Đường đi của linh hồn người Dao Tuyển ......................................... 93
Sơ đồ 2: Mô phỏng vũ trụ 3 tầng của người Dao Tuyển ................................ 94
Bảng 4: Tên gọi trong từng giai đoạn của lúa............................................... 132
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Người Dao Tuyển nói riêng và người Dao nói chung di cư đến Việt
Nam khá sớm. Trên con đường di cư cũng như khi “cắm bản” tại vùng đất
mới, người Dao Tuyển gặp nhiều khó khăn về điều kiện vật chất nhưng không
vì thế mà họ đánh mất đi đời sống văn hóa tinh thần của mình. Trong nền văn
hóa ấy, nổi bật lên là kho tàng dân ca nghi lễ phong phú về thể loại và đặc sắc
về nội dung – một tài sản văn hóa phi vật thể vô giá của người Dao Tuyển.
Dân ca nghi lễ của người Dao Tuyển không chỉ phản ánh phong tục, tập quán,
tín ngưỡng, tư tưởng, tình cảm mà còn mang nét bản sắc văn hóa đặc trưng
riêng. Do vậy, nghiên cứu dân ca nghi lễ của người Dao Tuyển đặt trong cơ
tầng văn hóa tộc người Dao sẽ giúp chúng ta hiểu sâu hơn đời sống văn hóa
của tộc người này.
1.2. Dân ca nghi lễ của người Dao Tuyển chứa đựng trong nó văn hóa
truyền thống của tộc người. Ở đó thế giới tâm linh (thế giới quan, vũ trụ quan)
và triết lý nhân sinh quan được phản ánh rõ nét. Từ những bài dân ca nghi lễ
được thực hành trong đời sống văn hóa ta thấy được đặc tính văn hóa cũng
như những tâm tư, tình cảm của cộng đồng cư dân người Dao Tuyển.
1.3. Dân ca nghi lễ của người Dao Tuyển có vai trò quan trọng trong
thực hành nghi lễ vòng đời đồng thời cũng phản ánh được đời sốngvật chất,
đời sống tinh thần của đồng bào. Tuy nhiên cho đến nay, nó vẫn chưa được
nghiên cứu chuyên sâu đúng với tiềm năng và thực trạng vốn có. Do vậy, tìm
hiểu dân ca nghi lễ của người Dao Tuyển ở Việt Nam trong đời sống văn hóa
chúng ta sẽ có một cái nhìn khái quát, toàn diện hơn về thể loại dân ca nghi lễ
của tộc người này.
1.4. Người Dao Tuyển ở Việt Nam cư trú trên những địa bàn có điều
kiện sinh tồn khác nhau. Vì thế, ở mỗi địa phương người Dao Tuyển lại có
những sắc thái văn hóa riêng, điều đó đã tạo nên tính đa dạng, phong phú
trong nguồn mạch văn hóa Dao nói chung. Việc sử dụng dân ca trong thực
1
hành nghi lễ vừa thể hiện tính thống nhất trong đời sống tinh thần tộc người,
vừa biểu hiện nét khác biệt của người Dao Tuyển so với các nhóm Dao khác.
Luận án nghiên cứu dân ca nghi lễ của người Dao Tuyển ở Việt Nam nhằm
góp phần chỉ ra những nét đặc thù và phổ quát của loại hình nghệ thuật này.
1.5. Bản thân nghiên cứu sinh là một người mang dòng máu và tâm thức
văn hóa của người Dao, sinh tồn trong môi trường văn hóa ấy nên có vốn hiểu
biết nhất định về đời sống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng của dân tộc mình.
Khi tiến hành khảo sát, nghiên cứu về dân ca nghi lễ của người Dao Tuyển,
nghiên cứu sinh có điều kiện tiếp cận thực tế, sưu tầm, tìm hiểu các nghi lễ
trong đời sống văn hóa của tộc người. Do đó, trong đề tài nghiên cứu của luận
án, nghiên cứu sinh hy vọng sẽ trình bày được những hiểu biết của mình về
dân ca nghi lễ của người Dao Tuyển từ góc nhìn khoa học của một người
trong cuộc.
1.6. Mặc dù không mong muốn nhưng có một thực tế mà chúng ta vẫn
phải thừa nhận, đó là sự mai một dần của các loại hình văn học dân gian đặc
biệt là văn học dân gian của các tộc người thiểu số trong đời sống hiện đại.
Bởi vậy, nghiên cứu, tìm hiểu dân ca nghi lễ trong đời sống văn hóa của
người Dao Tuyển ở Việt Nam cũng góp một phần vào việc giữ gìn, bảo tồn
những giá trị văn hóa truyền thống của tộc người Dao Tuyển ở Việt Nam.
Từ các lý do đã trình bày trên, trong khuôn khổ một luận án Tiến sĩ,
chúng tôi chọn đề tài: “Dân ca nghi lễ trong đời sống văn hóa của người
Dao Tuyển ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của mình. Chúng tôi hy vọng
luận án này có thể góp một tiếng nói khoa học trong việc nghiên cứu văn học,
văn hóa dân gian của người Dao Tuyển nói riêng và người Dao nói chung ở
Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu các nội dung phản ánh, phương thức phản
ánh của dân ca nghi lễ người Dao Tuyển trong đời sống văn hóa tộc người
2
(đời sống văn hóa vật chất và đời sống văn hóa tinh thần) thông qua việc phân
tích, diễn giải các văn bản dân ca nghi lễ.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án tiến hành tập hợp, hệ thống, đối chiếu tư liệu trên các văn bản đã
được công bố đồng thời điền dã, khảo sát thêm một số tư liệu mới, quan sát
thực tế bối cảnh diễn xướng dân ca nghi lễ của người Dao Tuyển.
Luận án tập trung nghiên cứu nội dung phản ánh và phương thức phản
của dân ca nghi lễ với tư cách là một thành tố quan trọng trong mối quan hệ
giữa bối cảnh diễn xướng với các lễ thức tín ngưỡng dân gian. Bên cạnh đó,
luận án cũng xem xét dân ca nghi lễ như một hiện tượng văn hóa dân gian
mang tính nguyên hợp đồng thời dựa vào những đặc trưng văn hóa tộc người
để có cơ sở lý giải ý nghĩa cơ bản của một số hình ảnh nghệ thuật thẩm mĩ.
Để từ đó làm nổi bật lên mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa văn hóa với dân
ca nghi lễ người Dao Tuyển.
Trong luận án, ở một mức độ cho phép chúng tôi sẽ cố gắng so sánh dân
ca nghi lễ của người Dao Tuyển với dân ca nghi lễ của một số ngành Dao
khác để tìm ra sự tương đồng và nét văn hóa đặc trưng của dân ca nghi lễ dân
tộc Dao nói chung, nhằm làm rõ tính chuyên biệt và phổ quát của các loại
hình dân ca nghi lễ người Dao Tuyển.
Luận án, đặt dân ca nghi lễ trong đời sống văn hóa của người Dao
Tuyển, với mong muốn làm rõ nội dung và nghệ thuật phản ánh của nó, để từ
đó góp phần khẳng định vai trò, vị trí, giá trị của loại hình dân ca này trong
cộng đồng người Dao Tuyển nói riêng và người Dao nói chung ở Việt Nam.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những bài dân ca trong nghi lễ vòng
đời của người Dao Tuyển, cụ thể là: dân ca trong nghi lễ cấp sắc, dân ca trong
nghi lễ đám cưới và dân ca trong nghi lễ tang ma qua các công trình sưu tầm,
nghiên cứu đã được xuất bản.
3
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi một mặt căn cứ vào các thư tịch, văn bản dân ca nghi lễ đã
được tuyển chọn và giới thiệu, cụ thể: Lễ cưới người Dao Tuyển, xuất bản
năm 2001; Thơ ca dân gian người Dao Tuyển xuất bản năm 2005; Thơ ca dân
gian người Dao Tuyển (Song ngữ: Việt – Dao) xuất bản năm 2011; Đám cưới
người Dao Tuyển xuất bản năm 2011; Những bài ca giáo lý xuất bản năm
2012. Mặt khác, chúng tôi tiến hành nghiên cứu, điền dã sưu tầm, đối chiếu
các bài dân ca nghi lễ của người Dao Tuyển đã được xuất bản với các bài dân
ca nghi lễ trong thực tiễn sinh hoạt, thực hành nghi lễ của họ từ quá khứ tới
hiện tại. Việc khảo sát, đối chiếu dân ca trong thực tiễn sinh hoạt, thực hành
nghi lễ của người Dao Tuyển được chúng tôi tiến hành trên các địa bàn tỉnh
Lào Cai – địa phương có số lượng người Dao Tuyển sống tập trung đông
nhất ở các huyện Bảo Yên, Bảo Thắng, Bát Xát, Mường Khương… nơi văn
hóa truyền thống của người Dao Tuyển còn được lưu giữ khá nguyên vẹn. Tại
địa bàn tỉnh Lào Cai, với điều kiện tự nhiên đặc thù của vùng núi cao, nhất là
đối với các huyện vùng sâu, vùng xa, biên giới là nơi cư trú lâu đời của người
Dao Tuyển thì sự tác động của các yếu tố văn hóa ngoại lai đến đời sống kinh
tế, văn hóa của tộc người này diễn ra chậm hơn so với các khu vực khác. Do
vậy, các phong tục, tập quán, tín ngưỡng nơi đây ít bị biến đổi hơn so với các
địa phương khác có người Dao Tuyển cư trú.
Ngoài ra, trong quá trình điều tra, điền dã, chúng tôi cũng mở rộng
phạm vi thực địa ra các địa phương khác như tỉnh Lai Châu, Yên Bái… đó là
những tỉnh có người Dao Tuyển sinh sống với số lượng ít hơn và mật độ phân
bố thưa thớt hơn ở Lào Cai để có một cái nhìn toàn diện hơn về sự ảnh hưởng
của dân ca nghi lễ trong đời sống văn hóa của tộc người.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
Ngoài phương pháp luận chung của nghiên cứu khoa học xã hội nhân
văn, khi thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng tôi triển khai luận án trên
những phương pháp luận riêng sau đây:
4
Đặt dân ca nghi lễ trong bối cảnh diễn xướng folklore: Chúng tôi
không nghiên cứu dân ca nghi lễ như là một thành tố tồn tại độc lập mà đặt
trong bối cảnh diễn xướng của tộc người để tìm hiểu dân ca nghi lễ trong mối
quan hệ với các thành tố văn hóa khác. Đồng thời đặt dân ca nghi lễ của
người Dao Tuyển trong bối cảnh diễn xướng để có những luận giải về đời
sống văn hóa vật chất và đời sống văn hóa tinh thần thông qua nội dung phản
ánh và phương thức phản ánh.
Vận dụng linh hoạt lý thuyết tính nguyên hợp ở phương diện chức năng
của folklore: Cụ thể là trong luận án chúng tôi đặc biệt chú ý đến chức năng
thực hành – sinh hoạt của dân ca nghi lễ trong đời sống văn hóa của tộc người
Dao Tuyển. Song do đặc thù của loại hình dân ca nghi lễ và cũng do sự quy
định của mã ngành nghiên cứu nên trong luận án chúng tôi chỉ đi sâu nghiên
cứu tính chất thực hành – sinh hoạt của dân ca nghi lễ biểu hiện trực tiếp
thông qua chủ thể diễn xướng, không gian, thời gian diễn xướng, ngôn ngữ,
thể thơ trong các nghi lễ cấp sắc, đám cưới, tang ma.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận án này, chúng tôi chủ yếu áp dụng một
số phương pháp nghiên cứu như sau:
Phương pháp phân tích ngữ văn: Phương pháp này được chúng tôi
tiến hành thường xuyên và là phương pháp chủ đạo của luận án nhằm phát
hiện ra đặc điểm cơ bản của dân ca nghi lễ người Dao Tuyển. Đồng thời, tìm
hiểu sâu hơn giá trị về nội dung và nghệ thuật của dân ca nghi lễ.
Phương pháp so sánh lịch sử và so sánh loại hình: Các phương pháp
này được chúng tôi sử dụng nhằm so sánh đối chiếu dân ca nghi lễ các ngành
Dao từ truyền thống đến hiện đại, trên cơ sở phân tích, tổng hợp nhằm tìm ra
nét văn hóa đặc trưng của dân ca nghi lễ người Dao Tuyển.
Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Dân ca nghi lễ của người Dao
Tuyển ẩn chứa những giá trị tinh thần quý báu của dân tộc, như: Tín ngưỡng,
tôn giáo, tâm hồn, tình cảm, nghệ thuật… các giá trị ấy tồn tại trong tính
nguyên hợp. Để khám phá được những giá trị ấy khi triển khai luận án chúng
5
tôi sử dụng đồng thời các phương pháp nghiên cứu khác nhau như: lịch sử
học, tâm lý học, dân tộc học, triết học, xã hội học… việc kết hợp các phương
pháp nghiên cứu liên ngành sẽ giúp khai mở các bình diện của dân ca nghi lễ
một cách toàn diện và sâu sắc hơn.
Phương pháp sưu tầm điền dã: Đây là một phương pháp quan trọng đối
với việc nghiên cứu dân ca nghi lễ như một sự kiện xã hội tổng thể. Chúng tôi
tiến hành sưu tầm điền dã, tham gia thực tế vào các nghi lễ để lắng nghe, quan
sát, ghi chép lại những bài dân ca nghi lễ được thực hành trong nghi lễ hiện nay
của người Dao Tuyển. Từ đó, tìm hiểu và mô tả lại diễn trình, diễn xướng thực tế
của dân ca nghi lễ trong đời sống văn hóa của tộc người. Đó cũng chính là chìa
khóa, là phương thức giúp chúng tôi mở ra hướng thâm nhập sâu hơn đời sống
văn hóa vật chất và đời sống văn hóa tinh thần của người Dao Tuyển thông qua
các hình thức sinh hoạt của loại hình dân ca này.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Thứ nhất: Qua khảo sát của chúng tôi, cho đến thời điểm hiện tại chưa
có một công trình nghiên cứu nào đi sâu, tìm hiểu một cách hệ thống, khoa
học về dân ca nghi lễ trong đời sống văn hóa của người Dao Tuyển. Luận án
là công trình đầu tiên cung cấp một bức tranh cơ bản về diện mạo dân ca nghi
lễ của người Dao Tuyển ở Việt Nam theo từng tiểu loại đã và đang tồn tại
trong đời sống văn hóa của người Dao Tuyển.
Thứ hai: Từ các cuộc điều tra điền dã, chúng tôi có sự so sánh, đối chiếu
giữa các văn bản hóa của dân nghi lễ với các văn bản dân ca nghi lễ được
thực hành trong đời sống văn hóa của người Dao Tuyển hiện nay. Điều này,
giúp chúng ta hiểu sâu hơn về đặc điểm, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật
cũng như quy luật sản sinh, diễn biến, lưu truyền của dân ca nghi lễ đặt trong
bối cảnh văn hoá tộc người.
Thứ ba: Bằng việc tiến hành khảo sát, giải mã dân ca trong đời sống
văn hóa của người Dao Tuyển, bước đầu chúng tôi hệ thống dân ca nghi lễ
theo các loại hình nghi lễ như sau: dân ca trong nghi lễ cấp sắc, dân ca trong
nghi lễ đám cưới, dân ca trong nghi lễ tang ma. Khi tiến hành nghiên cứu,
6
chúng tôi sẽ chỉ ra chức năng, ý nghĩa nội dung và giá trị nghệ thuật của từng
tiểu loại dân ca nghi lễ ấy.
Thứ tư: Đề tài cũng góp phần thực hiện chủ trương chính sách bảo tồn,
phát huy các di sản văn hóa truyền thống của các tộc người Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án là công trình khoa học có ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn.
Luận án cũng sẽ là tài liệu giúp cho các nhà nghiên cứu văn học, nghiên cứu
văn hóa người Dao Tuyển và người Dao nói chung, có hướng tiếp cận mới
với thể loại dân ca này cũng như có cách đánh giá, nhìn nhận mới về các giá
trị của dân ca nghi lễ trong đời sống văn hóa của người Dao Tuyển nói riêng
và các dân tộc thiểu số ở khu vực miền núi phía Bắc nói chung.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung
của luận án gồm có 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và đối tượng
nghiên cứu
Chương 2: Diễn trình diễn xướng dân ca nghi lễ của người Dao Tuyển
Chương 3: Sự phản ánh thế giới tâm linh và đời sống con người trong
dân ca nghi lễ của người Dao Tuyển
Chương 4: Các yếu tố nghệ thuật trong dân ca nghi lễ của người
Dao Tuyển
7
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ
LUẬN VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về người Dao và dân ca nghi lễ Dao
Theo khảo sát của chúng tôi, tình hình nghiên cứu về người Dao và dân
ca nghi lễ Dao ở Việt Nam thời kỳ trước năm 1945 ít được các nhà nghiên
cứu quan tâm đến. Các công trình nghiên cứu về người Dao ở giai đoạn này
gần như chỉ thiên về giới thiệu sơ lược nguồn gốc, địa bàn cư trú, trang
phục… và không thấy xuất hiện một công trình nào nghiên cứu về dân ca
nghi lễ Dao. Căn cứ vào các thư tịch hiện còn lại chúng tôi thấy, việc ghi
chép, tìm hiểu về lịch sử, phong tục tập quán, tín ngưỡng của người Dao đã
được các nhà Nho tiến hành từ thế kỷ XVIII. Đầu tiên phải nhắc đến là trường
hợp nhà bác học Lê Quí Đôn, trong tác phẩm nổi tiếng Kiến văn tiểu lục
(1778) của mình, ông đã giới thiệu sơ lược về nguồn gốc, cuộc sống, cách ăn
mặc của một nhóm người Man (Dao) ở Việt Nam [24]. Mặc dù mới giới thiệu
một cách sơ lược về nhóm người Man nhưng Lê Quí Đôn cũng đã đưa ra
được những đặc điểm bên ngoài cơ bản nhất giúp chúng ta phân biệt được tộc
người này với các tộc người thiểu số khác. Người thứ hai phải kể đến là tiến sĩ
Hoàng Bình Chính trong cuốn Hưng hóa xứ phong thổ lục (1778), đây là cuốn
sách được viết theo thể loại địa chí, nhưng ở đó ông đã ghi chép và giới thiệu
khái quát về trang phục, phong tục của người Dao ở Lào Cai [9]. Người thứ
ba là nhà sử học Phạm Thận Duật trong năm 1856 ông viết tác phẩm Hưng
Hóa ký lược, ở mục phong tục tập quán ông đã giới thiệu về phong tục, tập
quán của các dân tộc ở Tây Bắc Việt Nam, trong đó ông dành nhiều trang viết
về dân tộc Dao [17]. Có thể thấy, mặc dù đó chưa phải là các công trình
chuyên biệt về tộc người Dao, nhưng các tác giả thời phong kiến của Việt
Nam bước đầu đã có ý thức đề cập đến nguồn gốc, phong tục, tập quán của
tộc người này một cách tương đối có hệ thống. Điều đó chứng tỏ rằng, ngay từ
thế kỷ XVIII, người Dao ở Việt Nam đã được quan tâm tìm hiểu, ghi chép.
8
Nhưng do nguồn tư liệu còn bị hạn chế nên hầu hết các công trình nghiên cứu
mới chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu sơ lược về tên gọi, một vài nét đặc sắc
về phong tục, tập quán, trang phục của người Dao. Nhưng đó là nguồn tư liệu
đáng tin cậy để tìm hiểu về nguồn gốc, quá trình di cư, địa bàn cư trú của
người Dao ở Việt Nam.
Thời kỳ Pháp thuộc ở Việt Nam, một số cha cố và sĩ quan Pháp đã có
những tìm hiểu, ghi chép về người Dao nhằm hiểu hơn về tộc người này.
Những nghiên cứu ấy đã được công bố trên tạp chí Viễn Đông Bác Cổ
(BEFEO). Chúng ta có thể kể đến một vài bài viết đáng chú ý thời kỳ này
như: Một cuộc công cán ở vùng người Mán từ tháng 10 năm 1901 đến cuối
tháng giêng năm 1902 [5]; Mán Chàm hoặc Lam Diên (1906), Mán Tiểu Bản
hay Đeo Tiền (1907), Mán Đại Bản hoặc Sừng (1908), Giản chí về người
Mán Cao Lan [6], những bài viết này của tác giả A. Bonifacy chỉ dừng lại ở
việc miêu tả về nhà cửa, trang phục, kinh tế, tổ chức xã hội, tôn giáo, tín
ngưỡng và văn học dân gian... của nhóm Dao Lam Điền, Dao Đeo Tiền, Mán
Cao Lan. Trong những bài viết này mặc dù A. Bonifacy có giới thiệu qua về
thể loại văn học dân gian của các nhóm Dao nhưng không thấy đề cập đến
thể loại dân ca nghi lễ. Song các bài viết thời kỳ Pháp thuộc là một nguồn tư
liệu quý, có giá trị tham khảo cho luận án của chúng tôi.
Từ sau năm 1945: Tình hình nghiên cứu về người Dao và dân ca Dao có
sự khởi sắc hơn giai đoạn trước đó, song có thể thấy ở tất cả các hướng
nghiên cứu chưa có công trình nghiên cứu sâu nào về dân ca nghi lễ của
người Dao. Song ở giai đoạn này các nhà nghiên cứu trong nước đã quan tâm
hơn đến việc sưu tầm, tuyển chọn, giới thiệu thể loại dân ca Dao. Trong số
các công trình đã được tuyển chọn, giới thiệu, một số bài dân ca nghi lễ của
dân tộc Dao (một số bài dân ca trong nghi lễ cấp sắc của người Dao Tiền, một
số bài dân ca nghi lễ đám cưới của người Dao Đỏ) xuất hiện trong các công
trình đó. Nhiều tác giả ở thời kỳ này đã đầu tư thời gian, công sức, trí tuệ để
tìm hiểu, nghiên cứu về dân tộc Dao. Bước đầu các tác giả đã giới thiệu
những làn điệu dân ca Dao đặc sắc, trữ tình đến với bạn đọc, đó là các tác giả:
9
Mạc Đường, Trần Quốc Vượng, Triệu Hữu Lý, Bàn Tài Đoàn, Nguyễn Khắc
Tụng, Bế Viết Đẳng, Nông Trung, Nguyễn Nam Tiến, Ngô Đức Thịnh, Phạm
Quang Hoan, Lý Hành Sơn, Trần Hữu Sơn… Căn cứ vào các công trình đã
được xuất bản chúng tôi xin chia thành ba hướng nghiên cứu chính:
* Ở hướng nghiên cứu thứ nhất: Các công trình chủ yếu đề cập đến những
vấn đề khái quát, giới thiệu chung về nguồn gốc lịch sử, dân số, quá trình thiên
di, địa bàn cư trú… mức độ đậm nhạt khác nhau. Nhà dân tộc học Mạc Đường
công bố một số bài báo khoa học về Dân tộc Mán sau này ông cho in trong cuốn
Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam (1959) [28, Tr.119 – 138], các bài viết của Mạc
Đường giới thiệu sơ lược về nguồn gốc lịch sử, dân số, đặc điểm kinh tế - xã hội,
văn hóa của người Dao ở Việt Nam. Năm 1963 nhà sử học Trần Quốc Vượng
trong bài viết Qua nghiên cứu bình Hoàng Khoán điệp thử bàn về gốc tích người
Dao (Mán) đăng tải trên tạp chí Dân tộc học[145, Tr.46- 51] đã trình bày lịch sử,
quá trình thiên di của người Dao đến Việt Nam. Đây có thể coi là một trong
những bài viết có giá trị học thuật cao, tác giả đã chỉ ra được nguồn gốc lịch sử
của người Dao nói chung và người Dao ở Việt Nam nói riêng. Đến năm 1971,
nhóm tác giả Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Nam Tiến cho
xuất bản cuốn Người Dao ở Việt Nam [19], đề cập một cách tổng quan về tộc
người Dao ở Việt Nam, như: dân số, địa vực cư trú, tên gọi, nguồn gốc; các hình
thức kinh tế, sinh hoạt vật chất và sinh hoạt xã hội; một số tục lệ chủ yếu; tôn
giáo, tín ngưỡng. Năm 2010, tác giả Đỗ Quang Tụ, Nguyễn Liễn cho xuất bản
cuốn Người Dao trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam [131], đề cập đến nguồn
gốc và quá trình hình thành dân tộc Dao ở Việt Nam; các nhóm Dao; văn hóa
dân tộc Dao; quá trình đấu tranh bảo vệ tổ quốc và phát triển tộc người.
* Ở hướng nghiên cứu thứ hai: Các nhà nghiên cứu đã công bố những
công trình nghiên cứu chuyên sâu về văn hóa dân tộc Dao, các công trình đó
đã khái quát được văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần của người Dao từ truyền
thống đến hiện đại, có thể kể đến: Văn hóa truyền thống người Dao ở Hà
Giang (1999) [36] của tác giả Phạm Quang Hoan và Hùng Đình Quý, cuốn
sách đã đề cập một cách tương đối đầy đủ các lĩnh vực đời sống, kinh tế, văn
10
hóa, xã hội của người Dao. Năm 2011, tác giả Nguyễn Khắc Tụng xuất bản
cuốn Trang phục cổ truyền của người Dao ở Việt Nam [135]. Trong cuốn
sách này các tác giả đã miêu tả sâu các công đoạn làm ra một bộ trang phục
truyền thống của 7 nhóm người Dao ở Việt Nam. Từ việc giải mã các hoa văn
trên trang phục của người Dao, các tác giả đã chỉ ra những đặc tính văn hóa
riêng của từng nhóm Dao. Cùng nghiên cứu về vấn đề trang phục của người
Dao, năm 2013 tác giả Phan Thị Phượng xuất bản cuốn Trang phục và nghệ
thuật trang trí trên trang phục của người Dao Đỏ ở Lào Cai [85] trong cuốn
sách đó tác giả đã phân tích được vai trò của người phụ nữ trong việc sử dụng
nguyên liệu, kỹ thuật tạo hoa văn trên vải thổ cẩm để làm ra bộ trang phục của
người Dao Đỏ. Ở phương diện văn hóa tinh thần, đã có một số công trình đi
sâu vào nghiên cứu các phong tục, tập quán của người Dao, cụ thể: trong cuốn
Tập tục chu kỳ đời người của các tộc người ngôn ngữ H’Mông – Dao ở Việt
Nam (2002) [54] tác giả Nguyễn Đức Lợi đã giới thiệu tới người đọc những
tập tục trong chu kỳ đời người thuộc nhóm ngôn ngữ H’Mông – Dao. Qua đó,
chúng ta biết được một số nghi lễ trong chu kỳ vòng đời của người Dao như:
cấp sắc, cưới xin, tang ma…. Năm 2011, tác giả Tẩn Kim Phu cho xuất bản
cuốn Nghi lễ trong việc cưới – việc tang của người Dao Khâu (ở Sìn Hồ, Lai
Châu) [83]. Cuốn sách bước đầu nghiên cứu, sưu tầm, giới thiệu những nghi
thức, ý nghĩa của việc thực hành các nghi lễ cưới, tang ma của người Dao
Khâu. Năm 2016, tác giả Chu Quang Cường bảo vệ thành công luận án tiến sĩ
Nhân học Hôn nhân của người Dao họ ở huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai.
Luận án đã giới thiệu khái quát được về người Dao Họ, hôn nhân truyền
thống, những biến đổi trong hôn nhân đặc biệt đưa ra được nhiều thông tin
trong các lĩnh vực: quá trình lịch sử tộc người, sự giao thoa tiếp biến văn hóa
giữa người Dao Họ với các tộc người khác; những biểu hiện sinh động của
các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể trong các nghi lễ liên quan đến hôn
nhân; triết lý và thân phận con người, nghĩa vụ của các thành viên trong gia
đình và cộng đồng; giá trị văn hóa tạo nên sự gắn kết giữa các thành viên với
nhau...[12].
11
* Ở hướng nghiên cứu thứ ba: Đây là hướng nghiên cứu liên quan trực
tiếp đến đề tài luận án, chúng tôi dành sự quan tâm, khảo sát kỹ hơn cho
những công trình nghiên cứu về thể loại văn học dân gian của dân tộc Dao.
Đây cũng là hướng nghiên cứu nhận được nhiều sự đầu tư với những công
trình khá công phu, cụ thể:
Về truyện cổ, truyện thơ, tục ngữ - câu đố: Nhà nghiên cứu, sưu tầm
Triệu Hữu Lý cho công bố Truyện Đặng Hành và Bàn Đại Hộ (1974) [56]
trên tạp chí Dân tộc học, đây là truyện thơ viết theo lối cổ phong (7 chữ) của
người Dao, gồm 632 câu, ghi lại lịch sử chuyển cư của người Dao từ thế kỉ
thứ 10 đến nay qua nhiều vùng đất khác nhau ở miền nam Trung Quốc và
miền Bắc Việt Nam. Đến năm 1978 nhà sưu tầm Doãn Thanh xuất bản cuốn
Truyện cổ Dao [111], giới thiệu đến bạn đọc 72 truyện cổ, cuốn sách bao gồm
các câu chuyện thần thoại về nguồn gốc ra đời của tộc người; các truyện cổ
tích lý giải vì sao người Dao ở nhà đất, không ở nhà sàn; nguồn gốc chữ viết
và tục cúng trời của người Dao có từ đâu?… Tác giả Doãn Thanh đã cung cấp
những tư liệu quý đồng thời gợi mở cho việc khảo sát và tìm hiểu truyện cổ
của người Dao. Hơn 20 năm sau, tác giả Trần Hữu Sơn cho ra mắt cuốn Tục
ngữ, câu đố của dân tộc Dao (1999) [100], đây là cuốn sách được tác giả dày
công sưu tầm và dịch thuật, cuốn sách chia làm 2 phần: phần tục ngữ đã giới
thiệu tới người đọc 396 câu tục ngữ về mùa vụ, thời tiết, quan hệ gia đình…
trong dân gian; phần câu đố tác giả sưu tầm được 186 câu đố dân gian, các
câu đố đó được bắt nguồn từ nhu cầu giải trí, thi tài, thử tài suy đoán của
người Dao. Đỗ Quang Tụ và Nguyễn Liễn cho xuất bản cuốn Câu đố - Tục
ngữ - Dân ca dân tộc Dao (2007) [132]. Cuốn sách này được hai tác giả sưu
tầm và diễn giải một cách cẩn trọng bốn thể loại văn học dân gian, đó là: các
câu đố dân gian được phân chia theo các chủ đề thiên nhiên, thực vật, động
vật, dụng cụ lao động sinh hoạt, ngâm – vịnh đố, hát đối đáp đố giải trong hôn
lễ; những câu thành ngữ châm ngôn bao gồm một số thành ngữ đời thường,
một số thành ngữ biến hóa thành tục ngữ, thành ngữ rút ra từ sách dần biến
thành câu cửa miệng, thành ngữ tham gia kết cấu bài ca…; các câu tục ngữ, ở
12
thể loại này tác giả đã trình bày định nghĩa, nội dung, hình thức cấu trúc, ảnh
hưởng qua lại giữa tục ngữ Dao và Kinh, Tày. Ngoài ra hai tác giả còn phân
loại tục ngữ theo các chủ đề như tục ngữ về thiên nhiên, môi trường, con
người, gia đình, dòng họ, lao động sản xuất, mua bán, tình yêu, hôn nhân, tín
ngưỡng, ứng xử xã hội, chống thói hư tật xấu; các khúc ca ngâm được hai tác
giả sắp xếp theo các chủ đề như tình và cảnh, cộng đồng xã hội, tình yêu, hôn
nhân, hôn lễ, hát ru. Năm 2010, tác giả Trần Trí Dõi, Triệu Phúc Xuân, Triệu
Thị Nga xuất bản cuốn Tác phẩm Đặng Hành và Bàn Đại Hội [15], cuốn sách
này là một tài liệu quý đối với những nhà nghiên cứu về văn học dân gian
Dao. Cuốn sách được chia làm hai phần: phần đầu giới thiệu khái quát về
người Dao ở Thanh Hóa, giới thiệu về tác phẩm “Tằng S’hi thênh Piền Tạ
Ụi”, đôi nét về ngôn ngữ Dao và việc phiên âm tác phẩm; phần hai giới thiệu
tác phẩm “Đặng Hành và Bàn Đại Hội” nguyên bản chữ Nôm Dao và phiên
âm chữ Nôm Dao. Hai năm sau (năm 2012), tác giả Tẩn Kim Phu cho xuất
bản cuốn Truyện thơ người Dao Khâu ở Sìn Hồ - Lai Châu [84]. Đây là cuốn
sách sưu tầm và giới thiệu được nội dung một số câu chuyện thơ của người
Dao Khâu trên địa bàn tỉnh Lai Châu. Sách gồm hai phần: Phần một là giới
thiệu về người Dao Khâu trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; phần hai
giới thiệu một số truyện thơ của người Dao Khâu bằng chữ Nôm Dao, phiên
âm chữ Dao và dịch nghĩa ra tiếng Việt. Nhà nghiên cứu văn hóa người Dao
Bàn Tuấn Năng đã công bố cuốn Truyện cổ dân tộc Dao (2013), cuốn sách
giới thiệu đến bạn đọc 23 câu chuyện cổ bao gồm: nguồn gốc ra đời người
Dao, sự tích ra đời của các loài vật, truyện kể về các phong tục tập quán của
người Dao [60].
Về dân ca: Dân ca Dao đã được các nhà nghiên cứu, sưu tầm dành nhiều
công sức, giới thiệu đến bạn đọc. Các nhà nghiên cứu Hồng Thao, Triệu Hữu
Lý lần lượt công bố những công trình dân ca có giá trị cao như: cuốn Dân ca
Dao (1963) [113] của nhà nghiên cứu sưu tầm Hồng Thao, cuốn sách ghi
chép lại những làn điệu Páo dung của người Dao trên mọi miền của tổ quốc,
qua đó giúp người đọc cảm nhận được những làn điệu dân ca trong trẻo của
13
tộc người này. Cuốn sách Dân ca Dao có thể coi là cuốn sách mở đường cho
việc sưu tầm, nghiên cứu tiếp theo về dân ca Dao. Năm 1982, tác giả Triệu
Hữu Lý xuất bản cuốn Bàn Hộ - Trường ca dân tộc Dao [57], cuốn sách đã
ghi chép lại những câu ca, ca ngợi Bàn Hộ người được coi là ông tổ của người
Dao, người đã có công đưa người Dao đến với vùng đất mới. Những câu ca
trong cuốn sách ngoài việc ngợi ca vị thần Bàn Hộ, người đã che chở cho
cuộc sống, là điểm tựa tâm linh của người Dao chúng ta còn thấy xuất hiện
những câu ca nói về thế giới tâm linh cũng như triết lý nhân sinh quan của
người Dao. Cho đến nay, các bài dân ca trong cuốn sách này vẫn được người
Dao nói chung và người Dao Tuyển nói riêng sử dụng trong các nghi lễ cấp
sắc, tang ma và trong hát Páo dung đầu xuân. Đến năm 1990, Triệu Hữu Lý
tiếp tục cho ra mắt bạn đọc cuốn Dân ca Dao [58]. Đây là công trình giới
thiệu khá đầy đủ diện mạo dân ca Dao với 5 nhóm phân loại: Hát đối; Bài ca
can chi; Tình thơ gửi; Những bài hát đám cưới; Lời răn lưu truyền. Công
trình này đã được tác giả dày công sưu tầm và dịch thuật một cách công phu,
cho nên đã đảm bảo được tính khoa học, truyền tải được nội dung của dân ca
Dao từ tiếng Dao sang tiếng Việt/ Kinh song vẫn giữ được nhạc điệu và nhịp
điệu của lời ca. Có thể nói, cuốn sách này của ông đã trở thành nguồn tư liệu
quí giá, phục vụ cho việc bảo tồn và nghiên cứu văn học dân gian của người
Dao. Trong cuốn Dân ca các dân tộc thiểu số Việt Nam – tập 2 (1997) [129],
tác giả Hoàng Văn Trụ cũng tuyển chọn, giới thiệu đến bạn đọc một số bài
dân ca trong nghi lễ cấp sắc của người Dao Tiền. Mặc dù số lượng bài dân ca
trong nghi lễ cấp sắc được giới thiệu rất hạn chế (03 bài), nhưng đây cũng là
tư liệu quý để chúng tôi đối sánh trong luận án. Có thể khẳng định, các công
trình sưu tầm, giới thiệu về thể loại dân ca đã giới thiệu tới bạn đọc được một
số làn điệu dân ca giao duyên, dân ca đám cưới, dân ca nghi lễ cấp sắc, các
bài hát răn dạy của dân tộc Dao. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công
trình nghiên cứu chuyên sâu nào về dân ca nghi lễ cũng như dân ca giao
duyên của dân tộc Dao nói chung và người Dao Tuyển nói riêng.
14
- Xem thêm -