ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐẶNG THỊ THANH HOA
ĐẢM BẢO AN NINH NÔNG THÔN VÙNG
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG TRƯỚC YÊU CẦU
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Luận văn thạc sĩ Chính trị học
Hà Nội - 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐẶNG THỊ THANH HOA
ĐẢM BẢO AN NINH NÔNG THÔN VÙNG
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG TRƯỚC YÊU CẦU
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Luận văn thạc sĩ Chính trị học
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 20
Người hướng dẫn khoa học: TS VŨ THIỆN VƯƠNG
Hà Nội - 2009
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
Chương 1: ĐẢM BẢO AN NINH NÔNG THÔN VÙNG ĐỒNG
BẰNG SÔNG HỒNG - NHỮNG VẤN ĐỀ Lí LUẬN VÀ THỰC
TIỄN
1.1. Nông thôn đồng bằng sông hồng trong quá trình công nghiệp
Trang
1
5
5
hóa, hiện đại hóa
1.2. Đảm bảo an ninh nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng trước
23
yêu cầu CNH, HĐH
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐẢM BẢO AN NINH
NÔNG THÔN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG TRƯỚC
YÊU CẦU CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
33
2.1. Thực trạng an ninh nông thôn và công tác đảm bảo an ninh nông
33
thôn vùng đồng bằng sông Hồng trước yêu cầu CNH, HĐH
2.2. Đánh giá thực trạng công tác đảm bảo an ninh nông thôn vùng
54
ĐBSH trước yêu cầu CNH, HĐH
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ ĐẢM BẢO AN
NINH NÔNG THÔN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
TRƯỚC YÊU CẦU CNH- HĐH
63
3.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về đảm bảo an ninh nông thôn
63
vùng đồng bằng sông Hồng
3.2. Một số giải pháp cơ bản đảm bảo an ninh nông thôn vùng đồng
70
bằng sông Hồng trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
3.2. Những kiến nghị góp phần hoàn thiện chủ trương, chính sách,
89
pháp luật trong công tác đảm bảo an ninh nông thôn vùng ĐBSH
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
95
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ANNT
: An ninh nông thôn
ANTT
: An ninh trật tự
CNH, HĐH
: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CAND
: Công an nhân dân
ĐBSH
: Đồng bằng sông hồng
HĐND
: Hội đồng nhân dân
NBND
: Nội bộ nhân dân
UBND
: Ủy ban nhân dân
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đồng bằng sông Hồng là một trong hai vựa thóc lớn của đất nước (Đồng
bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long) nơi tập trung đông dân cư,
nơi có ý nghĩa quyết định trong đảm bảo an ninh lương thực của đất nước.
Chính vì vậy mà Đảng ta khẳng định hiện nay và trong nhiều năm tới vấn đề
nông nghiệp, nông thôn và nông dân có tầm quan trọng đặc biệt. Và phải luôn
coi trọng đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn hướng tới xây dựng
một nền nông nghiệp hàng hóa lớn, đa dạng, phát triển nhanh, bền vững có
năng suất chất lượng và khả năng cạnh tranh cao.
Đồng bằng sông Hồng được Đảng, Nhà nước ta xác định cần tập trung
đầu tư trước hết là phát triển kết cấu hạ tầng để khai thác tốt hơn các lợi thế
về đất, nước, lao động và làm gia tăng nhanh giá trị sản phẩm nông nghiệp và
nâng cao chất lượng phát triển nông nghiệp, thủy sản với công nghệ tiên tiến
tỷ suất hàng hóa cao góp phần chủ yếu đảm bảo vững chắc an ninh lương thực
quốc gia.
Để cho Đồng bằng sông Hồng phát huy được tiềm năng của mình đối với
kinh tế quốc gia và phát triển đúng theo định hướng mà các văn kiện đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX, X đã xác định thì một tất yếu là an ninh
nông thôn trên địa bàn phải được đảm bảo. Bởi xây dựng đất nước phải đi đôi
với bảo vệ đất nước.
An ninh nông thôn vùng Đồng bằng sông Hồng hiện nay đang nổi lên
những vấn đề bức xúc cần giải quyết. An ninh nông thôn diễn biến phức tạp,
tiềm ẩn nhiều yếu tố bất trắc có thể tác động ảnh hưởng xấu đến đời sống, đến
sự phát triển kinh tế xã hội trong vùng. Đó là, những điểm nóng phát sinh có
xu hướng tăng ở trên địa bàn; nhiều vụ khiếu kiện, mâu thuẫn, tranh chấp
trong nội bộ nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế xã hội chưa được quan tâm
giải quyết kịp thời, dứt điểm.
1
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, CNH, HĐH, xây dựng nhà nước pháp
quyền bên cạnh những thuận lợi, thời cơ thì cũng đặt ra những thách thức cho
an ninh Đồng bằng sông Hồng. Ví như phân hóa giàu nghèo; đất đai canh tác
bị thu hẹp; lao động có chất lượng cao thiếu nhưng lại dư thừa ra lao động thủ
công….
Trong chiến lược Diễn biến hòa bình do các thế lực thù địch thực hiện
nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, chúng đang hết
sức quan tâm đến những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân ở nông thôn nước
ta, nhằm khoét sâu những mâu thuẫn đó với hy vọng hòng chuyển hóa những
mâu thuẫn từ mâu thuẫn không đối kháng thành mâu thuẫn đối kháng; thành
mâu thuẫn giữa cách mạng và phản cách mạng.
Với nhận thức trên thấy rằng vấn đề Đảm bảo An ninh nông thôn vùng
Đồng bằng sông Hồng không chỉ là trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính
quyền và cơ quan chức năng trên địa bàn mà còn cần có vai trò to lớn của các
cơ quan khoa học, cơ quan nghiên cứu lý luận. Các cơ quan khoa học, cơ
quan nghiên cứu lý luận bằng nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn cần chỉ
ra con đường, biện pháp góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả đảm bảo An
ninh nông thôn trong thời kỳ đẩy mạnh CNH- HĐH.
Với lý do trên tôi chọn đề tài” Đảm bảo An ninh nông thôn vùng Đồng
bằng sông Hồng trước yêu cầu Công nghiệp hóa, Hiện đại hoá” làm đề tài
luận văn thạc sỹ khoa học chính trị của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề đảm bảo an ninh nông thôn
ở nước ta được tiếp cận ở những góc độ, cấp độ và địa bàn khác nhau.
Từ góc độ khoa học an ninh có đề tài: “An ninh nông thôn trong chiến
lược phát triển kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay” do Viện Nghiên cứu chiến
lược và Khoa học Công an thực hiện năm 2000; hoặc đề tài” An ninh nông
2
thôn ở tỉnh Hà Tây- thực trạng và giải pháp do tác giả Đinh Văn Hiển, Học
viện An ninh nhân dân thực hiện.
Từ góc độ Khoa học Triết học và Tâm lý học có các đề tài: ” Điểm nóng
chính trị - xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Tây- thực trạng và giải pháp do tác giả
Trần Đắc Hiến, Học viện an ninh nhân dân thực hiện; đề tài” Nguyên nhân
tâm lý xã hội của các điểm nóng ở nông thôn vùng Đồng bằng Bắc bộ” do tác
giả Vũ Trung Quý, Học viện an ninh nhân dân thực hiện.v.v.
Nhưng đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu vấn đề: Đảm bảo An ninh
nông thôn được tiếp cận từ góc độ khoa học chính trị ở phạm vi một luận văn
Thạc sỹ, được nghiên cứu khảo sát trên các tỉnh, thành phố thuộc vùng Đồng
bằng sông Hồng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở luận giải rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về An ninh nông
thôn và đảm bảo An ninh nông thôn vùng Đồng bằng sông Hồng, luận văn đề
xuất những giải pháp cơ bản nhằm đảm bảo An ninh nông thôn vùng Đồng
bằng sông Hồng trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Luận giải rõ những vấn đề lý luận về An ninh nông thôn và đảm bảo
An ninh nông thôn trong thời kỳ CNH, HĐH.
+ Đánh giá đúng thực trạng An ninh nông thôn và đảm bảo An ninh
nông thôn vùng Đồng bằng sông Hồng thời gian qua. Làm rõ các nguyên
nhân khách quan và chủ quan của thực trạng, từ đó rút ra các bài học kinh
nghiệm chủ yếu trong công tác đảm bảo An ninh nông thôn thời gian qua.
+ Dự báo những yếu tố tác động đến An ninh nông thôn và đảm bảo An
ninh nông thôn; xu hướng vận động của An ninh nông thôn và đảm bảo An
ninh nông thôn vùng Đồng bằng sông Hồng trong thời gian tới.
+ Đề xuất các giải pháp cơ bản đảm bảo an ninh nông thôn đồng bằng
sông Hồng trong thời gian tới.
3
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng An ninh nông thôn và thực
trạng công tác đảm bảo An ninh nông thôn ở các địa phương vùng Đồng bằng
sông Hồng.
- Tuy đặt vấn đề nghiên cứu vấn đề” Đảm bảo An ninh nông thôn vùng
Đồng bằng sông Hồng nhưng luận văn chỉ tập trung khảo sát trên các địa bàn
Hà Tây, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Hà Nội, Ninh Bình vì đây là
những địa phương trong thời gian qua vấn đề An ninh nông thôn có những
biến động phức tạp, xảy ra nhiều điểm nóng. Mặt khác với những địa phương
trên đã có thể đủ lượng các đơn vị khảo sát cho phép rút ra những kết luận
cho cả vùng.
Luận văn tập trung khảo sát từ năm 2000 đến nay và các giải pháp được
đề ra dự kiến có tính khả thi đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm
của Đảng là cơ sở lý luận và phương pháp luận để thực hiện đề tài.
- Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chung trong nghiên cứu
khoa học xã hội như: Điều tra, khảo sát, diễn giải, phân tích, tổng hợp, so
sánh…Song do đặc điểm riêng của đề tài nên tác giả quan tâm ưu tiên sử
dụng phương pháp tổng kết thực tiễn. Kết hợp giữa tổng kết thực tiễn với
nghiên cứu lý luận.
6. Đóng góp của luận văn
- Đánh giá toàn diện thực trạng An ninh nông thôn và công tác đảm bảo
An ninh nông thôn vùng Đồng bằng sông Hồng từ năm 2000 đến nay, làm rõ
các nguyên nhân khách quan và chủ quan của thực trạng.
- Bước đầu gợi mở những bài học kinh nghiệm có tính lý luận, có giá trị phổ
biến, có khả năng vận dụng vào công tác đảm bảo An ninh nông thôn trong điều
kiện mới.
4
- Đưa ra được hệ giải pháp toàn diện, đồng bộ có tính khả thi về đảm bảo
An ninh nông thôn vùng Đồng bằng sông Hồng trong giai đoạn mới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn được kết cấu làm 3 chương, 7 tiết.
Chƣơng 1:
ĐẢM BẢO AN NINH NÔNG THÔN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG
HỒNG TRƢỚC YÊU CẦU CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
– NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa
1.1.1. Vai trò nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng
Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) là một trong hai đồng bằng quan trọng
nhất của Việt Nam (cùng với đồng bằng Sông Cửu Long). Nhìn tổng thể,
ĐBSH là một vùng đất rộng lớn hình tam giác, tổng diện tích là 27.831 km2,
với đỉnh gần thành phố Việt Trì nằm sâu trong đất liền khoảng 150 km, đáy là
đường bờ biển kéo dài từ Hòn Gai đến điểm cực Nam của tỉnh Ninh Bình, dài
khoảng 130 km. Nghị quyết số 54 - NQ/TƯ ngày 14-9-2005 của Bộ Chính trị
khoá IX về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh - quốc phòng vùng
ĐBSH đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 xác định: vùng ĐBSH
gồm 12 tỉnh, thành phố là: Hà Nội, Hải Phòng, Hà Tây, Hải Dương, Hưng
Yên, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định và
Ninh Bình. Từ ngày 01-8-2008 địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội mở rộng,
hợp nhất toàn bộ diện tích của tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh (tỉnh Vĩnh Phúc)
và 4 xã của huyện Lương Sơn (tỉnh Hoà Bình).
Nghiên cứu lịch sử cho biết: Trong lịch sử dựng nước và giữ nước,
nông thôn vùng ĐBSH có vai trò quan trọng cả về kinh tế, chính trị, văn hoá,
5
xã hội và chống giặc ngoại xâm. Nông thôn vùng ĐBSH là nơi cộng đồng dân
cư sinh sống, liên kết chặt chẽ với nhau trong quan hệ kinh tế, xóm làng, họ
tộc, hội hè, tín ngưỡng, giúp đỡ và chia sẻ với nhau trong cuộc sống. Nông
thôn vùng ĐBSH được hình thành bởi các làng; mỗi làng, xã - ngoài những
điểm chung về văn hoá, phong tục tập quán... - còn có những nét riêng, tạo
nên sự phong phú, đa dạng của văn hoá Việt Nam.
Trong thời kỳ ngoại xâm thống trị, các chính quyền nhà nước đều xác
định nông thôn vùng ĐBSH là khu vực quan trọng, nằm trong hệ thống quản
lý hành chính lãnh thổ của đất nước. Bộ máy chính quyền nông thôn vùng
ĐBSH là công cụ phục vụ đắc lực cho chính quyền nhà nước cấp trên trong
việc cai quản nông thôn. Đầu thế kỷ XX, nông thôn vùng ĐBSH trở thành địa
bàn đặc biệt quan trọng, ở đó các tổ chức đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam
đã ra đời và được che chở, bảo vệ và hoạt động. Nhân dân nông thôn vùng
ĐBSH sớm được Đảng giác ngộ, tập hợp và trở thành lực lượng cách mạng hùng
hậu.
Nhìn chung, cho đến năm 1945, kinh tế-xã hội Việt Nam nói chung, ở
nông thôn vùng ĐBSH nói riêng chủ yếu làm nông nghiệp, với tổ chức sản xuất
hộ gia đình, cộng đồng làng xóm và các phường hội. Thị trường chủ yếu là chợ
làng, xã; sản xuất, buôn bán là hoạt động cá thể. Thiết chế chính trị, cấu trúc
quyền lực, các tổ chức xã hội (tín ngưỡng, dòng họ, về hỗ trợ sản xuất) và sự vận
hành của chúng đều lấy cơ sở làng xã. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, từ
năm 1946-1954 về cơ bản cơ cấu thiết chế chính trị-xã hội nông thôn vùng
ĐBSH đã thay đổi hẳn so với trước 1945, chính quyền cách mạng mới thiết
lập ở cấp tỉnh, huyện, xã. Vùng địch tạm chiếm, chính quyền của ta ở huyện,
xã hoạt động không công khai. Thời kỳ 1945 - 1975, đặc điểm nổi bật nhất
của cả nước nói chung, nông thôn vùng ĐBSH nói riêng, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, là tập trung sức lực chống ngoại xâm và thống nhất đất nước. Để tập
trung cho sự nghiệp lớn, thiết chế chính trị-xã hội nông thôn chủ yếu làm
6
nhiệm vụ động viên kháng chiến. Còn ở vùng tạm chiếm, thiết chế chính trịxã hội nông thôn do thực dân Pháp lập ra nhằm chống lại cách mạng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, vai trò của nông thôn vùng ĐBSH đã được
nâng lên, thể hiện rõ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ xâm lược. Nông thôn vùng ĐBSH là căn cứ địa của cách mạng; là nơi xây
dựng và hoạt động của lực lượng du kích, dân quân tự vệ; là nơi cung cấp cho
Đảng những quần chúng ưu tú để tăng cường sức chiến đấu và năng lực lãnh
đạo của Đảng. Nông thôn vùng ĐBSH cùng với cả miền Bắc đã góp phần to
lớn, có ý nghĩa quyết định đưa miền Bắc trở thành hậu phương lớn của tiền
tuyến lớn miền Nam. Nông thôn vùng ĐBSH trở thành đơn vị sản xuất, chiến
đấu, là cơ sở, nền tảng xây dựng chế độ xã hội mới.
Từ đầu những năm 60 của thế kỷ XX đến năm 1988 tổ chức sản xuất
kinh doanh ở nông thôn vùng ĐBSH chủ yếu là hợp tác xã (HTX) từng bước
từ thấp lên cao với quy mô toàn xã. Cùng với nó là chế độ bao cấp và sản xuất
theo kế hoạch từ trên xuống dưới. Chức năng sản xuất theo hộ gia đình bị
giảm, nó không còn là chủ thể xã hội, chỉ có sở hữu tập thể, kinh tế hàng hoá
bị thu hẹp, các mặt hàng đều do Nhà nước phân phối.
Từ khoán 10, khoán 100 đến nay, nông thôn vùng ĐBSH đã có biến đổi
sâu sắc: Hộ gia đình (hộ cá thể nông dân, hộ xã viên, các doanh nghiệp gia
đình trở thành đơn vị sản xuất-kinh doanh tự chủ là chủ thể sản xuất, chủ thể
xã hội); nền kinh tế chuyển từ tự cấp tự túc sang kinh tế thị trường làm cho
kết cấu nông thôn trở nên đa dạng hoá; nông thôn đang chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, xúc tiến quá trình CNH, HĐH. Từ sau khoán 10, thiết chế chính trị-xã
hội nông thôn ĐBSH chủ yếu gồm các thành tố: Kinh tế hộ gia đình và các
thành phần kinh tế đang hướng tới thị trường; HTX (có sự thay đổi so với
trước); tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân
dân...Bộ máy quản lý nông thôn vùng ĐBSH thời kỳ 1954 – 1988 được tổ
chức theo mô hình, mà tổ chức của nó có đặc điểm: Tổ chức Đảng có vai trò
lãnh đạo toàn diện; HTX nông nghiệp là nơi cung cấp vật chất cho các tổ
7
chức khác hoạt động; quản lý cộng đồng làng xã theo kiểu tự quản bị giải thể.
Quan hệ cộng đồng làng xã nhìn chung được thay thế chủ yếu bằng các hội,
các đoàn thể.
Từ sau 1988, thiết chế quản lý nông thôn vùng ĐBSH bắt đầu có sự đổi
mới: Chính quyền thực hiện các chức năng trước đây mà HTX nông nghiệp
từng đảm nhận hoặc đảng uỷ bao biện làm thay; việc quản lý xã hội, tính tự
quản của làng xã nông thôn từ nhiều năm bị hạn chế, nay có điều kiện phát
triển. Nhiều làng xây dựng hương ước được coi như “luật riêng” của làng; đội
ngũ cán bộ còn yếu kém, không năng động theo cơ chế thị trường, không có
kiến thức tổ chức kinh doanh...; kết cấu kinh tế nông thôn về cơ bản đã thay
đổi, kinh tế gia đình phát triển dần thay thế kinh tế tập thể.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong gần 22 năm (1986-2008),
sản xuất nông nghiệp, kinh tế-xã hội nông thôn và đời sống nông dân nông
thôn vùng ĐBSH đã đạt được những thành tựu to lớn và cơ bản; song, còn tồn
tại một số vấn đề nổi cộm như: Khu công nghiệp mọc lên, đất nông nghiệp
giảm xuống: Tính đến giữa năm 2007, vùng ĐBSH có 34 khu công nghiệp tập
trung được thành lập, thu hồi đất nông nghiệp do phát triển khu công nghiệp
đã làm cho hàng chục nghìn hộ, chủ yếu là nông dân mất đất sản xuất, thiếu
việc làm, thu nhập thấp và giảm dần; các tệ nạn xã hội phát triển; môi trường
sinh thái bị ảnh hưởng nghiệm trọng; có sự phân hoá về thu nhập và đời sống
trong nội bộ dân cư nông thôn. Đất đai nông nghiệp đã ít lại bị chia nhỏ, phân
tán, manh mún với mức bình quân đầu người rất thấp so với cả nước làm cho
xu hướng tự cấp, tự túc ở một số vùng nông thôn ĐBSH vẫn nặng nề, sản xuất
hàng hoá phát triển chậm. Hiện nay, theo đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu
thì có ba nguy cơ rất rõ ràng đối mặt với người dân quê, đó là: nông dân mất
ruộng, nông dân chán ruộng, nông dân chán thôn quê. Ly nông, ly hương, ly
tán bất đắc dĩ là những vấn đề xã hội của nông dân cả nước nói chung, nông
dân vùng ĐBSH nói riêng.
8
Nhìn tổng quát, nông thôn vùng ĐBSH hiện nay có các vai trò quan
trọng sau đây:
- Nông thôn vùng ĐBSH là nền tảng quản lý hành chính nhà nước và
phát triển kinh tế - xã hội của vùng ĐBSH và của cả nước. Các nguồn lực của
vùng ĐBSH (nhân lực, vật lực, tài lực) đều chủ yếu xuất phát từ nông thôn mà
ra. Nói cách khái quát hơn, lịch sử dân tộc ta là lịch sử đấu tranh chống giặc
ngoại xâm. Sức lực cơ bản để dân tộc Việt Nam tồn tại và đấu tranh được tích
luỹ từ nông thôn. Tất cả những gì chúng ta mang ra chống giặc giữ nước đều
lấy từ nông thôn (trừ giai đoạn kháng chiến 30 năm chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ xâm lược là có viện trợ quốc tế). Nông thôn đã tích luỹ tất cả các
giá trị vật chất và tinh thần cho dân tộc ta trong cuộc đấu tranh lâu dài dựng
nước và giữ nước ngàn năm.
- Nông thôn vùng ĐBSH là địa bàn chiến lược đồng thời là nơi trực
tiếp tổ chức thực hiện đường lối chính sách, đưa nghị quyết, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào nông nghiệp, nông thôn và
nông dân vùng ĐBSH.
- Nông thôn vùng ĐBSH là nơi diễn ra các phong trào phát triển sản
xuất, kinh tế, xây dựng văn hoá, giữ gìn an ninh-trật tự xã hội, phát huy mọi
sáng kiến, sáng tạo của nhân dân, góp phần quan trọng vào ổn định và phát
triển của cả nước, xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Nói tới vai trò
của nông thôn ĐBSH thực chất sâu xa là nói tới vai trò của nông dân ĐBSH.
Quan tâm tới nông thôn thực chất là quan tâm tới nông dân, phát huy dân chủ
là phát huy vai trò của nông dân.
- Nông thôn vùng ĐBSH là môi trường thực tiễn để đào tạo, bồi dưỡng
và rèn luyện, thử thách cán bộ, làm cho cán bộ trưởng thành, phát huy mọi
khả năng sáng tạo, phục vụ quần chúng, phục vụ cách mạng. Đây là nguồn
dồi dào cung cấp, bổ sung cán bộ cho vùng ĐBSH và cả nước.
- Nông thôn vùng ĐBSH còn là địa bàn quan trọng kết hợp quản lý
(cấp xã) với tự quản (thôn, xóm), thực hiện quyền làm chủ của nhân dân để
quần chúng nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể
9
vững mạnh, củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, sự đồng
thuận xã hội, thực hiện thắng lợi mục tiêu của đổi mới: Dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh trên địa bàn vùng ĐBSH.
Tóm lại, sự ổn định và phát triển các hoạt động của đời sống kinh tế,
văn hoá, xã hội trên địa bàn nông thôn vùng ĐBSH hiện nay là cơ sở căn bản
bảo đảm cho sự ổn định và phát triển của các huyện, thị, thành phố thuộc tỉnh
trong vùng. Nông thôn đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của
tỉnh, thành phố vùng ĐBSH. Thực tiễn chỉ ra rằng, nông thôn vùng ĐBSH
vững mạnh là điều kiện cần thiết để thị trấn, thành phố vùng ĐBSH vững
mạnh. Có thể nói, nông thôn vùng ĐBSH trước đây thường đóng kín, mọi tác
động từ bên ngoài rất khó xuyên thủng “luỹ tre làng”. Nói cách khác, làng xã
vùng ĐBSH thường cụm chặt, khép kín sau luỹ tre làng, xoay quanh ngôi
đình, cây đa, giếng nước công cộng. Ngày nay, dưới tác động của nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN, quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp,
phát triển kinh tế tri thức nông thôn, nông thôn đã “mở” và ngày càng mở
rộng. Dù đổi thay, vai trò của nông thôn vùng ĐBSH hiện nay vẫn không thay
đổi, nó luôn là cội nguồn, là gốc rễ của con người, là nơi nuôi dưỡng đô thị,
có tầm quan trọng vĩ mô trong đời sống và sự phát triển của cộng đồng dân
tộc Việt Nam.
1.1.2. Đặc điểm nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Thứ nhất, nông thôn vùng ĐBSH khá đa dạng và phong phú về loại
hình
Nhìn chung, nông thôn vùng ĐBSH rất đa dạng và phong phú về địa lý,
kinh tế, xã hội và văn hoá: khu vực đồng bằng; khu vực miền núi; khu vực hải
đảo; khu vực ven đô; khu vực thuần nông; khu vực kinh tế ngành nghề phát
triển; có nơi rộng; có nơi hẹp; có nơi ít dân; có nơi đông dân; có nơi có đông
đồng bào Công giáo...
10
Hiện nay, từ sự phân chia theo phát triển tiểu vùng kinh tế tạo sức
mạnh tổng hợp cho toàn vùng ĐBSH, có thể xác định 3 loại khu vực nông
thôn sau:
+ Khu vực nông thôn thuộc tiểu vùng Bắc ĐBSH (vùng kinh tế trọng
điểm Bắc Bộ): Hình thành các trung tâm kinh tế lớn gồm Hà Nội, Hải Phòng,
Quảng Ninh, xây dựng khu kinh tế tổng hợp Vân Đồn, và các vùng sản xuất
hàng hoá lớn khác là hạt nhân của vùng, hỗ trợ các tỉnh phía nam sông Hồng
và các vùng khác;
+ Khu vực nông thôn thuộc tiểu vùng Nam ĐBSH: khu vực chuyển
mạnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá; chuyển đổi
diện tích vùng trũng trồng lúa năng suất thấp, sang nuôi, trồng các loại thuỷ,
đặc sản,... phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nhất là các làng nghề
có sản phẩm tinh xảo; hình thành các khu công nghiệp, cụm công nghiệp vừa
và nhỏ gắn với phát triển dịch vụ, du lịch; khai thác các tiềm năng về khoáng
sản, trước hết là đá vôi sản xuất xi măng, đá xây dựng, sét làm gạch, ngói.
+ Khu vực nông thôn thuộc tiểu vùng kinh tế biển và ven biển: khu vực
đang tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực ven biển và hải đảo;
cảng biển, đê biển, đường giao thông, bưu chính - viễn thông, điện nước, cơ
sở xử lý chất thải bảo vệ môi trường; phát triển các ngành đóng tầu, dầu khí,
các dịch vụ vận tải biển. Đẩy mạnh việc nuôi trồng, đánh bắt, chế biến thủy,
hải sản, mở rộng và quản lý chặt chẽ đánh bắt xa bờ. Tăng cường các điều
kiện và lực lượng bảo đảm an ninh tuyến biển, giữ vững chủ quyền biển, đảo.
Hình thành các trung tâm thương mại, du lịch, các khu vui chơi giải trí, an
dưỡng, chữa bệnh cao cấp. Tạo bước đột phá ra biển của các tỉnh Nam đồng
bằng sông Hồng, thu hút và phân bố dân cư hướng đến những nơi có điều
kiện tổ chức dân cư và lao động sống bằng nghề thuỷ sản. Nâng cấp đồng
muối hiện có ở Nam Định, Thái Bình. Phát triển kết cấu hạ tầng ven biển...
- Xét về cơ cấu, xu hướng phát triển kinh tế, có ba loại khu vực sau:
11
+ Khu vực thuần nông: Phát triển trong trạng thái cũ, đặc trưng truyền
thống với nghề trồng lúa là chính, phụ trợ thêm bằng chăn nuôi gia súc, gia
cầm trong phạm vi từng hộ gia đình.
+ Khu vực làng nghề: Phát triển trong sự xen kẽ giữa thuần nông với thủ
công nghiệp bằng cách phục hồi và mở rộng các làng nghề truyền thống, cải
biến nghề cũ, hình thành nghề mới, tạo nên sự khởi sắc trong đời sống nông
thôn, bắt nhịp với những biến đổi của thị trường và đô thị.
+ Khu vực ven đô: Phát triển mạnh theo hướng dịch vụ, buôn bán kinh
doanh nông nghiệp, đưa hàng hoá nông sản ra thị trường, đời sống kinh tế –
xã hội, cơ sở hạ tầng có bước phát triển mới, tăng trưởng kinh tế nhanh,
nhưng chưa bền vững.
- Xét về tôn giáo, vùng nông thôn ĐBSH có đông đồng bào Công giáo
sinh sống chiếm tỷ lệ cao, nhất là các tỉnh Nam Định, Ninh Bình.
Như trên trình bày, mỗi loại hình nông thôn ĐBSH có những điểm riêng
biệt. Tính đa dạng này có thể nhận thấy từ việc phân chia theo phát triển tiểu
vùng kinh tế và xu hướng phát triển kinh tế. Ngay địa bàn nông thôn cũng lại có
những đặc điểm khác nhau về quy mô diện tích, dân số, trình độ phát triển kinh
tế-xã hội, truyền thống văn hoá, cơ cấu dân tộc, tôn giáo... Xuất phát từ những
nét đặc thù của một số loại hình nêu trên, mỗi loại hình nông thôn ĐBSH đều có
những thuận lợi đồng thời cũng có những khó khăn riêng đối với chính quyền và
cấp uỷ đảng trong việc đảm bảo an ninh nông thôn, thực hiện thắng lợi các mục
tiêu kinh tế - xã hội của địa phương.
Sự đa dạng của các loại hình nông thôn ĐBSH quy định tính đa
dạng và linh hoạt trong hoạt động thực tiễn và yêu cầu công việc đặc thù
của công tác đảm bảo an ninh ở từng loại hình. Sự đa dạng cũng cho thấy
một điều là khó có được một quy định khuôn mẫu về công tác đảm bảo
an ninh cho tất cả các loại hình nông thôn, nếu muốn đạt tới một giá trị
cụ thể sát thực và khả thi nào đó.
12
Thứ hai, nông thôn vùng ĐBSH hiện nay có nhiều tiềm năng và ưu thế
vượt trội hơn nông thôn ở nhiều vùng khác trong cả nước, để đẩy nhanh
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn gắn với phát triển kinh tế tri thức, hội
nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Vượt trội như: gần Thủ đô, về văn hoá, dân
trí cao, lao động dồi dào...Vùng ĐBSH có lợi thế của một trung tâm hàng
đầu của cả nước; có thế mạnh của vị trí địa lý: nơi tiếp xúc với bên ngoài
của các tỉnh phía Bắc, nơi tiếp giáp giữa Đông - Nam Á và Đông - Bắc Á; có
thế mạnh về tài nguyên con người, tài nguyên trí tuệ và khoa học công nghệ; có
thế mạnh về tài nguyên thiên nhiên: đá vôi, than đá, tài nguyên dầu mỏ, khí đốt
đang được thăm dò khẩn trương. Khi có được khả năng hiện thực, vùng có lợi
thế lớn để đẩy nhanh tốc độ phát triển; có lợi thế mạnh về kinh tế: một trong
hai vựa lúa của cả nước, các hoạt động dịch vụ (thông tin, chuyển giao công
nghệ tư vấn...) phát triển; có nền công nghiệp cân đối... có hệ thống kết cấu hạ
tầng tương đối đồng bộ, có tiềm năng lớn để phát triển trong những năm trước
mắt.
Thứ ba, nông thôn vùng ĐBSH hiện nay nằm trong một vùng có vị trí
chiến lược đặc biệt quan trọng về an ninh-quốc phòng, chủ quyền biên giới
quốc gia, giữ vững ổn định chính trị-xã hội. Vùng có mật độ dân số cao; vùng
có lịch sử phát triển lâu đời. Nhân dân có trình độ học vấn, có kinh nghiệm
làm ăn; vùng có kinh tế nông nghiệp phát triển, có nền công nghiệp cân đối và
tương đối phát triển so với vùng khác; vùng là trung tâm chính trị, văn hoá
của cả nước, là trung tâm giao lưu, dịch vụ, thương mại, du lịch của các tỉnh
phía Bắc. Vùng là đầu mối giao thông của cả nước và ra nước ngoài, là nơi
đào tạo và cung cấp cán bộ cho cả nước.
Thứ tư, nông thôn vùng ĐBSH hiện nay có những đặc trưng nổi bật về
quy mô diện tích tự nhiên, dân trí, dân cư, văn hoá truyền thống và tôn giáo
tín ngưỡng. Nhìn chung, nông thôn vùng ĐBSH có quy mô nhỏ, hẹp; đất
nông nghiệp giảm mạnh; người nông dân ĐBSH điển hình cho người nông
dân Việt Nam còn mang nặng tâm lý tiểu nông; đặc điểm chung của nông dân
13
là tiếp thu cái mới hạn chế, họ không từ bỏ thói quen và dễ chấp nhận những
cái lợi nhỏ trước mặt; dân trí nông thôn ĐBSH nhìn chung cao hơn tất cả các
vùng khác trong cả nước tuy nhiên vẫn thấp hơn yêu cầu của sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước; dân số đông, mật độ dân cư cao, không ngừng tăng hàng năm,
lao động dồi dào, dư thừa tiềm tàng lao động thuần nông trình độ thấp, nhưng
lại thiếu nghiêm trọng lao động chuyên môn, kỹ thuật cao; nông thôn ĐBSH
là vùng văn hoá-lịch sử lâu đời của người Việt, là cái nôi hình thành dân tộc
Việt, là quê hương của các nền văn hoá Việt; tinh thần cộng đồng làng xã,
thói quen giải quyết công việc, điều hành xã hội bằng tục lệ và dư luận, lễ hội
truyền thống, quan hệ gia tộc, dòng họ, ứng xử theo quan hệ huyết thống;
nông thôn ĐBSH là cội nguồn và trung tâm của nhiều tôn giáo lớn ở nước ta
(Phật giáo, Thiên chúa giáo)...
Thứ năm, nông thôn vùng ĐBSH hiện nay đang là nơi diễn ra những
biến đổi quan trọng, nhanh chóng về kinh tế, xã hội, văn hoá và chính trị do
tác động sâu rộng của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và quá
trình đô thị hoá, phát triển mở rộng các khu công nghiệp, quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
Về các mối quan hệ liên vùng: nông thôn ĐBSH có vị trí trung tâm của
sự giao lưu giữa vùng Đông Bắc với vùng Tây Bắc, giữa vùng núi phía Bắc
với miền Trung. Do vị trí tự nhiên, nông thôn ĐBSH trở thành nơi trung tâm
của các tỉnh phía Bắc và có điều kiện phát triển hoạt động liên vận quốc tế.
Các con sông của ĐBSH đều bắt nguồn từ vùng núi phía Bắc, rồi đổ ra biển
Đông. Mọi tác động lên môi trường như chặt phá rừng, rửa trôi đất ở các tỉnh
đầu nguồn, đều gây ra ảnh hưởng và tác động lên ĐBSH. Nông thôn ĐBSH
chịu ảnh hưởng rất mạnh của biển Đông và ảnh hưởng của bão lụt về mùa
mưa. Về mùa cạn, độ mặn từ biển xâm nhập sâu vào đất liền ảnh hưởng đến
nước sông và các hoạt động sản xuất của vùng ven biển. Dòng chảy ngược
khi thủy triều lên mang theo nước mặn vào sâu trong đất liền, trên sông Hồng
là 20km, trên sông Thái Bình là 40 km. Do tình hình xâm thực trên lưu vực
14
khá mạnh, nên sông Hồng có lượng cát bùn lớn nhất trong các sông ở nước ta.
Hàng năm lượng cát bùn góp phần lấn ra biển hàng trăm ha đất mới. Lượng
cát bùn này làm cho nhiều cửa sông và luồng lạch bị bồi lắng và thường
xuyên phải nạo vét. Các thành phố và khu công nghiệp ngày càng phát triển
làm cho nước sông Hồng đang bị ô nhiễm cục bộ và có nguy cơ bị ô nhiễm
trên toàn tuyến. Do mật độ dân số của nông thôn ĐBSH lớn, cho nên một số
dân vùng ĐBSH chuyển sang các vùng khác sinh sống. Nông thôn ĐBSH là
vùng nông nghiệp phát triển của nước ta, cho nên hàng năm có khoảng 15%
sản phẩm nông nghiệp được đưa ra khỏi vùng. Nông thôn ĐBSH chưa sản
xuất đủ các sản phẩm công nghiệp cho nên hàng năm chỉ đáp ứng khoảng
45% nhu cầu, còn lại 35% phải đưa từ các vùng khác vào và 20% phải nhập
từ nước ngoài. Đối với các vùng khác trong nước, nông thôn ĐBSH xuất sản
phẩm nhiều hơn nhập nguyên liệu. Đối với nội vùng, công nghiệp nông thôn
ĐBSH chưa có đủ nguyên liệu trong vùng. Hiện nay, ĐBSH đang là địa bàn
thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước. Quy mô đầu tư vào vùng đang tăng.
ĐBSH là một trung tâm dịch vụ lớn cho cả nước. Các hoạt động tài chính,
ngân hàng, xuất nhập khẩu, du lịch, thông tin, tư vấn, chuyển giao công nghệ
của ĐBSH mở rộng ra trên phạm vi cả nước, chủ yếu là ở các tỉnh phía Bắc.
Vùng ĐBSH nổi trội hơn các vùng khác về dịch vụ bưu điện và kinh doanh
tiền tệ. ĐBSH là một trung tâm du lịch lớn với nhiều tiềm năng về cảnh quan
thiên nhiên, về di tích, hình thức các tuyến du lịch liên vùng.
Trước đây, nông thôn”đóng kín”, nay đang có xu hướng “mở”. Dưới
tác động CNH, HĐH nông thôn có chuyển đổi mô hình HTX kiểu cũ sang mô
hình HTX kiểu mới; vai trò kinh tế hộ gia đình và người nông dân chủ hộ là
một đơn vị kinh tế cơ bản ở nông thôn; chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển
kinh tế hàng hoá chuyển sang kinh tế thị trường, phát triển các làng nghề, xã
nghề; người nông dân thay đổi tư duy, nếp nghĩ, tầm nhìn, tâm lý, lối sống;
biến đổi dân trí, thông tin văn hoá, lối sống, thành phần dân cư.... vấn đề dân
chủ hoá mạnh mẽ; đô thị hoá và phát triển các khu công nghiệp dẫn tới gia
15
tăng tình trạng nông dân mất ruộng, tỷ lệ thất nghiệp cao, di cư tìm việc
nhiều...phân hoá giàu nghèo ngày càng gay gắt....
Những khó khăn trở ngại đối với nông thôn vùng ĐBSH hiện nay là đất
chật, người đông, thiếu việc làm; điểm xuất phát của nền kinh tế thấp, cho đến
nay vùng nông thôn ĐBSH vẫn là vùng chủ yếu làm nông nghiệp. Chậm
chuyển dịch về cơ cấu kinh tế, được đầu tư tương đối ít. Chịu tác động lâu dài
của cơ chế quản lý quan liêu bao cấp, thiên về giữ độ ổn định hơn là tập trung
thúc đẩy phát triển. Tài nguyên thiên nhiên chưa được khai thác sử dụng hợp lý.
Hàng năm còn chịu ảnh hưởng của thiên tai. Thiếu nguyên liệu cho công nghiệp
phát triển. Cơ sở vật chất kỹ thuật yếu, cũ, lạc hậu so với các nước trong khu
vực. Các dịch vụ thiếu đồng bộ. Mức sống cư dân thấp. Chênh lệch giữa cư
dân thành thị và nông thôn lớn và khoảng cách ngày càng doãng ra.
Nhìn khái quát, trong giai đoạn từ nay đến năm 2020, đảng bộ và nhân
dân các tỉnh, thành phố vùng ĐBSH phải huy động cao nhất nguồn lực, trước
hết là nguồn lực tại chỗ để khai thác có hiệu quả cao nhất tiềm năng, lợi thế
của vùng nông thôn ĐBSH nhằm thực hiện tốt việc phát triển kinh tế xã hội,
như Nghị quyết 54-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá IX đã đề ra. Để làm được
như vậy, công tác đảm bảo an ninh nông thôn ĐBSH đang cần phải được đặt
ra như là một giải pháp quan trọng nhất.
1.1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến an ninh nông thôn vùng Đồng
bằng sông Hồng
1.1.3.1. Các yếu tố tích cực
Với sự phát triển về kinh tế - xã hội, bộ mặt nông thôn nƣớc ta đã
có sự thay đổi sâu sắc, tác động đến an ninh nông thôn
- Bộ mặt nông thôn đã có nhiều thay đổi tích cực.
Sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực nông
nghiệp và nông thôn đã đạt được thành quả hết sức to lớn, đưa nước ta thoát
ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Cùng với sự phát triển đó, diện mạo
nông thôn đã có chuyển biến mới, nhất là cơ sở hạ tầng, 90% số xã có đường
16
- Xem thêm -