Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đặc trưng truyện ngắn lý lan ( www.sites.google.com/site/thuvientailieuvip )...

Tài liệu đặc trưng truyện ngắn lý lan ( www.sites.google.com/site/thuvientailieuvip )

.PDF
179
284
50

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH __________________ Hồ Kim Phụng Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN THỊ THANH XUÂN Thành phố Hồ Chí Minh - 2009 LỜI CẢM ƠN Trước hết, tôi xin chân thành cám ơn Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Phòng Khoa học và Đào tạo Sau đại học, Quý Thầy Cô ở Khoa Văn trường Đại học Sư phạm và trường Đại học Khoa học và Xã hội Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh, đã giảng dạy chúng tôi trong suốt ba năm học cao học tại trường; Ban giám hiệu và Quý Thầy Cô ở Tổ Văn Trường THPT Trần Phú, đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong công tác để tôi có thể theo học chương trình sau đại học. Xin cám ơn PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Xuân vì Cô đã hướng dẫn tôi thực hiện đề tài này. Cô đã giúp tôi tiếp cận đề tài và triển khai luận văn với một tinh thần cởi mở và luôn khuyến khích tôi thể hiện ý kiến cá nhân. Cô cũng dành thời gian đọc và sửa chữa luận văn của tôi. Đặc biệt, tôi xin cám ơn nhà văn Lý Lan đã trả lời phỏng vấn, nhiệt tình cung cấp cho tôi tài liệu và hình ảnh có liên quan đến đề tài. Xin cám ơn gia đình đã hết sức tận tụy giúp đỡ tôi và hỗ trợ tôi trong quá trình tôi thực hiện luận văn. Cuối cùng, cho tôi được nói lời tri ân tất cả. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Truyện ngắn Là một thể loại tự sự, truyện ngắn có những đặc trưng riêng về tính chất, về dung lượng so với các thể loại khác. Truyện ngắn ra đời gắn chặt với hoạt động báo chí nên dễ phổ biến đến người đọc. Với hình thức ngắn gọn, cơ động, truyện ngắn phù hợp việc đáp ứng nhu cầu của độc giả trong thời đại công nghiệp. Là “một lát cắt của đời sống”, như giọt nước nhỏ dung chứa cả đại dương, những truyện ngắn hay dễ để lại nhiều dư âm, ám ảnh trong lòng người đọc. Gần như nhà văn nào cũng ít nhiều thử mình qua truyện ngắn. Truyện ngắn Việt Nam đã trải qua một lịch sử trên một thế kỷ và có nhiều thành tựu nhất định, đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của công chúng Việt Nam, đặc biệt là trong giai đoạn văn học đương đại. 1.2. Trong truyện ngắn Việt Nam, truyện ngắn của các nhà văn nữ là một bộ phận rất đáng chú ý. Có thể nói, trong giai đoạn văn học đương đại, các nhà văn nữ có phần lấn át nam giới trên phương diện truyện ngắn. Xã hội càng cởi mở, người nữ càng có cơ hội bộc lộ khả năng suy nghĩ và diễn đạt bằng văn bản. Tiếp nhận cái mới nhanh nhạy, táo bạo trong cách viết, không ngừng đi về phía trước, nhiều nhà văn nữ đã làm nên sự kiện: Dương Thu Hương, Lê Minh Khuê,Võ Thị Hảo, Phạm Thị Hoài, Ngô Thị Kim Cúc,Trần Thùy Mai, Nguyễn Thị Minh Ngọc, Phan Thị Vàng Anh… trong đó, Lý Lan là trường hợp tỏ rõ khả năng chuyên nghiệp, và là người viết truyện ngắn mang đậm bản sắc phương Nam. Từ năm 2003, tác phẩm của Lý Lan được đưa vào giảng dạy ở trường trung học cơ sở trong chương trình ngữ văn lớp 7 với tản văn “Cổng trường mở ra”. 1.3. Có thể nghiên cứu truyện ngắn trên nhiều phương diện, ở đây với đề tài Đặc trưng truyện ngắn Lý Lan, chúng tôi tiếp cận thể loại trong phạm vi một tác giả và tập trung vào phương diện đặc trưng. Có thể nói, nội hàm của khái niệm đặc trưng ở đây gần với khái niệm phong cách (style). Chúng tôi nghiên cứu phong cách tác giả qua một thể loại cụ thể là truyện ngắn. Việc nghiên cứu này đáp ứng nhu cầu trang bị những kiến thức về thể loại, phong cách tác giả, vốn cần thiết cho công việc giảng dạy ở nhà trường phổ thông của chúng tôi, đồng thời giúp chúng tôi hiểu sâu hơn về tính chất của đời sống văn học và văn hóa Việt Nam đương đại, đặc biệt là văn học và văn hóa Nam Bộ. 1.4. Trên góc độ một công tình chuyên khảo hay một luận văn, đây là một đề tài mới, hoàn toàn chưa có ai thực hiện. Chúng tôi nhận thấy, hiện nay những bài nghiên cứu, phê bình về tác giả này chưa nhiều, chỉ có một số bài giới thiệu sách trên báo, chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên biệt về truyện ngắn Lý Lan. Tìm đến văn xuôi Lý Lan, nhất là qua truyện ngắn của bà, tôi phần nào cảm nhận được sâu sắc hơn những tâm tình của người phụ nữ, của tuổi trẻ miền Nam…và hiểu thêm văn học miền Nam và những giá trị văn hóa Nam Bộ hiện đại vẫn luân chảy, tiếp nối trong sáng tác của bà. Hơn nữa, là giáo viên giảng dạy ở trường phổ thông, việc tìm hiểu truyện ngắn Lý Lan đối với tôi có một ý nghĩa thiết thực là qua đó, tôi đã được trang bị thêm những kiến thức cần thiết và bổ ích cho việc giảng dạy truyện ngắn nói chung và các tác phẩm của nhà văn này nói riêng. Những nguyên nhân trên là động lực khiến tôi muốn đi sâu vào nghiên cứu những truyện ngắn của Lý Lan, cũng như muốn khẳng định sự đóng góp của bà cho văn học Nam Bộ hiện đại nói riêng và văn học Việt Nam đương đại nói chung qua đề tài Đặc trưng truyện ngắn Lý Lan. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Nhà văn Lý Lan viết nhiều thể loại: Truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, tiểu luận phê bình…nhưng gắn bó lâu dài và làm nên tên tuổi Lý Lan chính là ở thể tài truyện ngắn. Trọng tâm khảo sát của luận văn là toàn bộ truyện ngắn của Lý Lan, tính đến thời điểm hiện nay (10 - 2009) gồm 102 truyện ngắn, tập trung trong các tập truyện đã xuất bản như: Cỏ hát, Chút lãng mạn trong mưa, Truyện Nguyễn Hải Chí, Nguyễn Thị Minh Ngọc, Lý Lan (in chung), Chiêm bao thấy núi, Đất khách, Dị mộng, Quá chén, Người đàn bà kể chuyện, Hồi xuân và các truyện ngắn đăng trên báo: Chàng nghệ sĩ, Sau buổi họp, Cái trở mình trong đêm về sáng, Trích sổ chủ nhiệm, Một năm, Cha, con, thầy và trò; Nắng buổi sáng, Đêm sao, Điện thoại, Đi du lịch, Đau tim. Ngoài ra, chúng tôi tiếp cận thêm tác phẩm thuộc thể loại khác của Lý Lan:  Một góc phố Tàu (tuyển tập truyện và ký)  Chân dung người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh (chân dung văn học)  Lệ Mai (tiểu thuyết)  Khi nhà văn khóc (chân dung văn học)  Dặm đường lang thang (ký)  Sài Gòn – Chợ Lớn rong chơi (ký)  Miên man tùy bút (tùy bút)  Bày tỏ tình yêu (tùy bút)  Tiểu thuyết đàn bà (tiểu thuyết)  Là mình (Thơ) Bên cạnh đó, chúng tôi còn tìm hiểu các tài liệu lý thuyết về truyện ngắn và đọc một số truyện ngắn của các nhà văn Việt Nam cùng thời có ít nhiều liên quan với Lý Lan như Lưu Thị Lương, Ngô Thị Kim Cúc, Nguyễn Thị Minh Ngọc, Trần Thùy Mai, Dạ Ngân, Lê Minh Khuê,…để so sánh nhằm rút ra đặc trưng của truyện ngắn Lý Lan. 3. Lịch sử vấn đề Cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt về truyện ngắn Lý Lan ngoài những bài giới thiệu thay cho lời tựa các tập truyện ngắn, những bài điểm sách, những bài phỏng vấn đăng rải rác trên các báo. Cụ thể là: Trên báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, số 253, ra ngày 3-12-1982, Nguyễn Thu Hương có bài “Đọc “Bụi phấn” nghĩ về những nhà giáo trẻ”. Tác giả bài báo đã đề cập một truyện ngắn của Lý Lan viết về đề tài nhà giáo: “Trong “Trích sổ chủ nhiệm”, Lý Lan đã phê phán cái quan niệm lỗi thời chỉ cần biết “lên lớp là đủ”, cũng như thái độ “khéo léo che đậy khuyết điểm, thổi phồng thành tích” còn hậu quả như thế nào thì mặc kệ. Nhà trường xã hội chủ nghĩa không thể chấp nhận những quan điểm, thái độ như vậy. Người thầy giáo muốn làm tốt nhiệm vụ “trồng người”, ngoài những giờ lên lớp ra, còn cần “phải đi sát từng em, phải cẩn thận trong mỗi lời nói, hành động của mình”, phải hướng dẫn cho các em trở nên những con người có những phẩm chất đạo đức trong sáng, những tình cảm cao thượng, biết “phân biệt sự giả dối, lừa bịp là sai và dám đấu tranh cho điều mình tin là đúng”. Trên báo Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh, số 24, ra ngày 15- 06 -1985, Nguyễn Thị Thanh Xuân có bài viết: “Về những cây bút nữ thành phố Hồ Chí Minh”. Đặt Lý Lan bên cạnh nhưng cây bút nữ trẻ của thành phố, Nguyễn Thị Thanh Xuân đã nhận xét: “Lý Lan là cây bút sớm được dư luận chú ý. Với cách viết giản dị mà linh hoạt, đậm đà chất Nam Bộ, Lý Lan thể hiện phong cách của mình ngay từ tác phẩm đầu tay” [115, tr. 203]. Cũng trong năm 1985, trong tập tiểu luận và phê bình “Những trang viết, những nhịp cầu”, Nxb Mũi Cà Mau, Nguyễn Thị Thanh Xuân có bài “Truyện ngắn viết về cuộc sống và con người thành phố Hồ Chí Minh (1975-1985)”. Trong bài này, bên cạnh nói về những ưu điểm về nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Thị Thanh Xuân còn nhận định về những hạn chế của truyện ngắn giai đoạn này “…Một vài truyện trong khi khắc họa tính cách nhân vật chỉ mới dừng lại ở một vài hiện tượng không cơ bản và vội vàng kết luận nên sức thuyết phục của chủ đề cũng giảm đi nhiều (Qua đèo của Lý Lan)” [115, tr.217] Năm 1994, cũng trên báo Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh, ra ngày 18-081994, Nguyễn Thị Thanh Xuân có bài phê bình“Hai cây bút nữ một tập truyện”, về tập truyện ngắn Cỏ hát ( in chung của Lý Lan, Trần Thùy Mai). Bên cạnh giới thiệu với độc giả cây bút trẻ Lý Lan đầy tiềm năng, bài viết còn ghi nhận ba phương diện trong truyện ngắn Lý Lan: Thứ nhất là Cảm hứng nghệ thuật: “Cảm hứng chủ đạo bao trùm lên toàn bộ truyện ngắn Lý Lan là từ chỗ đứng hôm nay, tìm hiểu về cuộc chiến đấu vĩ đại đã qua của nhân dân ta với lòng biết ơn sâu sắc”; thứ hai là Nhân vật: “Nổi lên trong truyện ngắn Lý Lan là bóng dáng của những cô gái, những người phụ nữ lặng lẽ âm thầm đóng góp phần mình vào công cuộc xây dựng đất nước sau hòa bình”, thứ ba là Phong cách “Trong những trang viết của cây bút mới vào nghề như Lý Lan, chúng ta bắt gặp đây đó hình ảnh tác giả: Lý Lan đang trong giai đoạn tự ngắm mình” [115, tr.197-198]. Về sau các bài viết này được đưa vào tập tiểu luận và phê bình “Tiếng vọng những mùa qua”. Năm 2001, Nhà xuất bản Hội nhà văn Hà Nội cho ra mắt độc giả quyển sách “Một góc phố Tàu” do Vương Trí Nhàn tuyển chọn và viết phần giới thiệu. Đây là bài viết công phu, mang những nhận định tổng quát nhất về văn xuôi Lý Lan (về sau in lại trong tập phê bình “Cánh bướm và đóa hướng dương”) với những điểm đáng chú ý: Trước hết là về Phong cách văn xuôi Lý Lan: “chính là nằm trong cái mạch của văn xuôi Nam Bộ. Cây bút này đã tiếp nhận một cách hồn nhiên kinh nghiệm của người đi trước, để rồi, trong hoàn cảnh của mình, them vào đó những sắc thái mới, làm nên một giọng điệu mới… là một tiếng nói điềm đạm, không làm điệu làm ồn, tự tin ở sự tồn tại của mình, do đó là một tiếng nói dễ gần, dễ thông cảm…chị đã viết được đều, viết nhanh, viết khỏe, có thể tin là trước mắt chúng ta, một phong cách đã hình thành, một mạch văn đã khơi nguồn và đang chảy xiết, chứ không phải một sự “viết cho vui”hoặc ghe qua nghê nghiệp chốc lát rồi lại bỏ”. [89, tr.12]. Về nhân vật, Vương Trí Nhàn đã chỉ ra: “Ngoài những ông già tốt bụng, những em nhỏ dễ thương…có một loại nhân vật thường trở đi trở lại trong văn xuôi Lý Lan , đó là những cô gái trẻ…Họ giữ được nhẫn nại và chịu đựng. Họ giữ được bình tĩnh để lắng nghe và phân tích đời sống” [89, tr.8-9]. . Về nghệ thuật, Vương Trí Nhàn đã nhận định: “trên một số phương diện văn xuôi Lý Lan đã có được dáng vẻ hiện đại. Chất hiện đại này trước tiên bắt nguồn ở một cảm giác tự do và sự âm thầm tìm kiếm không chịu bó mình trong những khuôn khổ có sẵn. Khi chuyển thành hình thức, chất hiện đại này bộc lộ rõ nhất qua lối tự sự đứt nối, bột phác, mà người ta tìm thấy trong một số thiên truyện như Dị mộng, Những viên sỏi cầm chơi, Biển trong mưa, Công tử vườn…”[89, tr.12-13]. Ngoài ra, Vương Trí Nhàn có một nhận định rất đáng chú ý về một mảng đề tài nổi bật trong văn xuôi Lý Lan: “Riêng với Lý Lan, do hoàn cảnh riêng là lớn lên ở một miền đất mà người Hoa sinh sống tập trung, chị lại có dịp nói kỹ về sinh hoạt của cộng đồng này, từ chuyện làm ăn, một tiệm chạp phô, tiệm nước, tới việc viết chữ ghi lại bút tích ngày xuân…với những con người bảo ban nhau làm ăn, những con người nghèo nghèo, tội tội, đang vật lộn kiếm sống và tìm cách thích nghi với mảnh đất mới” [89, tr.15]. Năm 2002, Nhà xuất bản Văn học ra mắt độc giả “Truyện ngắn bốn cây bút nữ” do Bùi Việt Thắng tuyển chọn và giới thiệu. Trong bài viết “Tứ tử trình làng”, Bùi Việt Thắng phác vẽ đôi nét về cây bút truyện ngắn Lý Lan: “Lý Lan thuộc số không nhiều những nhà văn tạo nên được nhữn đối thoại hay trong truyện ngắn”. Ông cũng nhận xét về nghệ thuật: “Truyện ngắn Lý Lan vừa như cái gì liên tục mà đứt đoạn, mơ hồ mà rõ ràng – có thể đó là lối viết dựa vào dòng ý thức. Lý Lan không quá chuyên chú, miêu tả chính xác các hiện tượng đời sống mà thường cố gắng “ướm” mình vào nhân vật và hay “giả sử” để xử sự trong mọi trường hợp”. Năm 1991, Nhà xuất bản Trẻ thành phố Hồ Chí Minh in tập truyện ngắn “Chiêm bao thấy núi” của Lý Lan với “Lời giới thiệu” của nhà văn Sơn Nam. Ông ghi nhận: “Cảm tưởng của tôi khi đọc Lý Lan là cảm tưởng khi ngắm xem những tranh thủy mặc và những bức sơn mài mới lạ. Chập chờn nhưng rõ nét, đơn giản nhưng phức tạp, làm nét đơn sơ nhưng không bừa bãi”. Ngoài ra, Sơn Nam còn nhận xét về nhân vật trong truyện ngắn Lý Lan “Tôi thấy bóng dáng những người thường dân ngồi ăn bữa cơm trưa bên lề đường hoặc dừng chân, uống ly nước mía, ăn trái ổi, trái mận. Cái tươi trẻ, cái bình dân và dân chủ và sự ranh mãnh của những cô gái trẻ Sài Gòn xưa và nay. Nhất là có phẩm cách”. [85, tr.4]. Năm 1999, báo Sài Gòn giải phóng thứ bảy, số 444 (14-08-1999) đăng truyện ngắn Núi không của Lý Lan cũng với lời giới thiệu của Phan Thị Vàng Anh. Phan Thị Vàng Anh nhận xét về tập truyện Dị mộng của Lý Lan như sau: “14 truyện viết trong khoảng hai năm,… chị đã làm được cái việc rất khó trong viết lách là “làm mới mình”, làm được một cuộc “cách mạng” nho nhỏ với mình” Trên báo Sài Gòn giải phóng số ra ngày 25/04/2000, ở mục “Đọc sách”, Thanh Nguyên có bài “Quá chén và những tâm cảnh”. Thanh Nguyên đã nhận xét về nội dung tập truyện “Quá chén” của Lý Lan: “Là những tâm cảnh với mối giằng xé nội tâm giữa “điều muốn làm”và điều “được phép làm” của từng con người, từng nhân vật mang tính chất mô tả hiệu ứng của thời đương đại…của hội chứng đô thị hóa,…và phát hiện ra những bi kịch nhiều màn về sự không hoàn thiện của con người và cuộc sống”. Tác giả bài báo cũng nhận xét: “Truyện ngắn mới của chị đầy ắp thông tin mang nội dung cảnh báo thú vị, được kể một cách lững thững mà nghe khúc chiết, hóm hỉnh lại có vị chua cay”. Cùng năm 2000, Báo Thanh niên số 69/2000 trong mục “Đọc sách”, có bài “Góp nhặt những nỗi buồn” của Ngô Thị Kim Cúc. Tác giả bài báo đã nhận xét về tập truyện ngắn Quá chén của Lý Lan: “Chỉ trong 114 trang sách, cuộc sống thành thị hiện lên một cách sống động với bao nhiêu loại người cùng tâm trạng, số phận của họ. Bằng những câu văn ngắn không chút cầu kỳ, bằng kết cấu truyện giản dị nhưng hiện đại, Lý Lan làm chủ ngòi bút của mình một cách bản lĩnh”. Năm 2002, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh ra mắt bạn đọc công trình “Thơ văn nữ Nam Bộ thế kỉ XX” do nhóm nghiên cứu Nguyễn Kim Anh, Vũ Ngọc, Hà Thanh Vân và Hoàng Tùng sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu. Người biên soạn công trình này đã nhận xét: Lý Lan “viết nhiều về người Hoa, về con cháu của một dân tộc đã sinh sống gắn bó , hòa nhập với mảnh đất này từ bao đời nay …nhưng không thấy hiển hiển nỗi niềm xa xứ, nỗi sầu mênh mang của một người xa lạ, “thiếu quê hương”(chữ dùng của Nguyễn Tuân), hay u trầm, huyền bí, mà chỉ thấy vẻ hiền lành, đơn sơ, mộc mạc của một cộng đồng người giàu đức tính chia sẻ và cảm thông.” Trong phần giới thiệu, các nhà soạn sách cũng khái quát về phong cách Lý Lan: “không chủ tâm đi tìm một sự “lạ hóa”trong cả nội dung và hình thức tác phẩm của mình. Chị viết dung dị, không gọt giũa , không trau chuốt, không cầu kì chữ nghĩa. Đọc văn chị, chúng ta có cảm tưởng như xem một người cầm bút thờ ơ ghi lại những mẩu chuyện đời. Nhưng đằng sau vẻ thờ ơ ấy là một sự sắc sảo, thông minh thầm lặng, phải chăng đó là phong cách viết riêng có của Lý Lan, khiến cho đọc giả không dễ lẫn lộn chị với những giọng văn khác”[4, tr.686]. Năm 2006, Nhà xuất bản Giáo dục thành phố Hồ Chí Minh in lại tập truyện ngắn Chiêm bao thấy núi của Lý Lan bằng song ngữ Pháp Việt, vẫn giữ lời giới thiệu của Sơn Nam như khi tập truyện này in lần đầu tiên năm 1991 và thêm vào bài giới thiệu của dịch giả Marina Prevot. Theo Marina Prevot nhận định: “Không có những mánh khoé, tình tiết éo le vì vậy mà 10 câu chuyện thành ra nhẹ nhàng trong đó các nhân vật có vẻ như cam chiụ số phận, các lời đối thoaị bị chia cắt bởi các khoảng lặng như diễn đạt những rạn nứt bên trong những nhân vật đánh mất phương hướng. Chính bởi sự giữ gìn ý tứ, sự kiềm lòng, kiềm lời của họ mà những câu chuyện rất giản đơn này khiến chúng ta nhận ra một mặt khác cuả xã hội Việt Nam đang rùng rùng chuyển mình” [102, tr.13]. Trên mạng internet tại trang: www.vietnamlit.org.com, LiLy Chiu thực hiện phỏng vấn trực tiếp và viết bài giới thiệu về văn phong và các sáng tác của Lý Lan với ba truyện ngắn cụ thể: Con ma, Chị ấy lấy chồng chưa?, Tai nạn. Về các công trình nghiên cứu chuyên sâu, chúng tôi nhận thấy có một số nhận định, đánh giá có liên quan đến truyện ngắn Lý Lan: Năm 2002, Hồ Thị Liễu thực hiện luận văn thạc sĩ với đề tài: “Khảo sát truyện ngắn của các nhà văn nữ từ 1986 đến 1996” tại trường Đại Học Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn. Luận văn cung cấp một cái nhìn hệ thống về truyện ngắn nữ Việt Nam 10 năm thời kì đổi mới, bước đầu đưa ra những nhận định về nội dung, nghệ thuật và đóng góp của các nhà văn nữ. Trong luận văn có đề cập đến truyện ngắn Lý Lan. Đặc biệt tác giả luận văn có phân tích truyện ngắn Diễn viên hạng ba khi đề cập đến đề tài gia đình trong truyện ngắn nữ giai đoạn 1986- 1996 như sau: “Tình cảm cha con có thể dung đồng tiền mua được. Người bố của những đứa con trong Diễn viên hạng ba của Lý Lan là một trường hợp như thế…”. Năm 2003, cũng tại trường Đại Học Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn Thành phố Hồ Chí Minh, Hoàng Thị Hồng Hà thực hiện luận án tiến sĩ với đề tài: “Những đặc điểm của văn xuôi nghệ thuật những năm 80 – đầu những năm 90”. Khi trình bày về những đổi mới trong kết cấu cốt truyện của văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1980 -1990, Hoàng Thị Hồng Hà có sử dụng truyện ngắn Ngựa ô của Lý Lan để làm dẫn chứng minh họa. Năm 2007, trong luận văn thạc sĩ bảo vệ tại trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh nghiên cứu về đề tài: “Người phụ nữ hiện đại trong sáng tác của các cây bút nữ, Trần Thùy An có đề cập đến một số mặt sau trong truyện ngắn của Lý Lan: Về điểm nhìn trần thuật, nghệ thuật xây dựng đối thoại và hình ảnh người phụ nữ hiện đại qua hai truyện ngắn Tai nạn, Mẹ và con trong luận văn. Năm 2008, Kênh VTV3 của Đài truyền hình Việt Nam phát sóng vào sáng Chủ nhật ngày 9/3/2008 trong chương trình Văn hóa, sự kiện và nhân vật, phóng viên Mỹ Linh đã thực hiện phỏng vấn Lý Lan. Trong chương trình này, người đọc được gặp gỡ Lý Lan tâm sự về một điều có liên quan đến sáng tác như thế giới nhân vật, đề tài sáng tác… Ngoài ra, chúng tôi nhận thấy một số bài phỏng vấn trên truyền hình và trên các báo, viết về sáng tác của Lý Lan nhưng tập trung ở các mảng kí, tiểu thuyết và dịch thuật tập truyện Harry Potter. Nhưng các bài báo đó không phù hợp với phạm vi nghiên cứu của đề tài nên chúng tôi không trích dẫn ở đây. Tóm lại, trên đây chúng tôi đã điểm lại những nội dung chính của lịch sử nghiên cứu vấn đề về Truyện ngắn của Lý Lan. Từ đó có thể thấy rằng, những nghiên cứu về sự nghiệp văn học của Lý Lan, nhất là truyện ngắn trong suốt mấy chục năm qua vẫn còn rất ít, đa số chỉ dừng lại ở những bài báo lẻ, những bài giới thiệu thay cho lời tựa hoặc một vài nhận xét chung, chưa có một công trình nào nghiên cứu công phu và toàn diện. Do đó, chúng tôi ghi nhận, tham khảo và học hỏi những ý kiến trên, đồng thời bổ sung và đi đến hoàn thiện đề tài Đặc trưng truyện ngắn Lý Lan. 4. Đóng góp của luận văn - Qua luận văn, trước hết, chúng tôi cố gắng trong khả năng giới hạn của mình, giới thiệu những quan niệm về đặc trưng truyện ngắn. - Qua việc tập hợp những truyện ngắn của Lý Lan in trên các sách báo, chúng tôi cung cấp những thông tin về tác giả và tái hiện lại quá trình sáng tác của nhà văn Lý Lan. - Luận văn đi vào xác định những đặc trưng truyện ngắn Lý Lan về hai mặt nội dung tư tưởng và nghệ thuật biểu hiện, từ đó đưa ra những nhận định và lý giải truyện ngắn Lý Lan. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp so sánh: là phương pháp chính, so sánh sáng tác truyện ngắn của Lý Lan trong từng giai đoạn, so sánh truyện ngắn Lý Lan với các sáng tác của các nhà văn nữ cùng thời và các cây bút truyện ngắn Việt Nam đương đại khác, nhằm rút ra đặc trưng truyện ngắn Lý Lan. Phương pháp nghiên cứu thi pháp học: giúp chúng tôi khảo sát sâu văn bản truyện ngắn của Lý Lan, nhằm rút ra những đặc trưng nghệ thuật truyện ngắn Lý Lan. Phương pháp tiếp cận văn bản trên góc độ xã hội - văn hóa: Chúng tôi đặt văn học trong mối tương quan với các yếu tố xã hội, văn hóa. Muốn tìm hiểu nội dung của truyện ngắn Lý Lan, chúng tôi không thể không đối chiếu văn học trong bức tranh đời sống xã hội và văn hóa Nam Bộ nhằm lý giải đặc trưng truyện ngắn Lý Lan. Phương pháp phỏng vấn trực tiếp: kết hợp phỏng vấn trực tiếp với những điều Lý Lan trả lời phỏng vấn trên các Báo, Đài truyền hình, chúng tôi tìm hiểu thêm về cuộc đời, tư tưởng và quan niệm sáng tác của nhà văn. Phương pháp phân tích - tổng hợp: giúp chúng tôi tiếp cận, khảo sát trực tiếp văn bản để từ đó đưa ra những luận điểm khái quát của luận văn. 6. Cấu trúc của luận văn Luận văn gồm có 176 trang. Ngoài phần Mở đầu (11 trang) , Kết luận (2 trang) và Tài liệu tham khảo (6 trang), kèm theo phần Phụ lục (9 trang), phần nội dung chính của luận văn (148 trang) gồm có ba chương như sau: Chương 1: Truyện ngắn và hoạt động văn chương của Lý Lan Trong chương này, chúng tôi giới thuyết và khái quát đặc trưng truyện ngắn, giới thiệu về hoạt động văn chương của Lý Lan. Chương 2: Con người trong truyện ngắn Lý Lan Từ nhân vật, chúng tôi tiếp cận nội dung truyện ngắn Lý Lan. Chương 3: Truyện ngắn Lý Lan: những đặc trưng về nghệ thuật Riêng chương cuối, chúng tôi đi vào làm rõ những nét đặc trưng về nghệ thuật của truyện ngắn Lý Lan. Chương 1 TRUYỆN NGẮN VÀ HOẠT ĐỘNG VĂN CHƯƠNG CỦA LÝ LAN 1.1. Truyện ngắn 1.1.1. Khái niệm Trước khi nghiên cứu truyện ngắn Lý Lan, chúng tôi muốn giới thuyết qua về thể loại, cụ thể là xác định khái niệm và đặc trưng của truyện ngắn, bởi vì việc xác định ranh giới của truyện ngắn so với các thể loại tự sự khác là điều rất cần thiết. Dù xuất hiện muộn và chưa có một hệ thống lý luận riêng như tiểu thuyết, truyện ngắn cũng đã được đề cập nhiều trong các sách văn học trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Theo định nghĩa trong từ điển nước ngoài (Encyclopedia Britannica): “Truyện ngắn thuộc nhóm tác phẩm hư cấu và thường được viết bằng văn xuôi dạng trần thuật (Brief fictional prose narrative). Phương thức này có xu hướng đi vào trọng tâm rõ nét hơn các dạng hư cấu khác như tiểu thuyết ngắn (theo khái niệm của thế kỷ XX và XXI), tiểu thuyết hay sách. Truyện ngắn có nguồn gốc từ truyền thuyết và giai thoại truyền miệng, với tình huống truyện được phác thảo và đi vào trọng tâm nhanh chóng. Do sự phát triển đáng kể của tiểu thuyết thực tế, các truyện ngắn thu hẹp lại giống như một hồi, ví dụ tiêu biểu nhất là các câu chuyện như của E.T.A. Hoffmann… Truyện ngắn có khuynh hướng ít phức tạp hơn tiểu thuyết dài. Thông thường truyện ngắn chỉ tập trung vào một biến cố, cốt truyện đơn giản, bối cảnh đơn giản, số lượng nhân vật ít, trong khoảng thời gian ngắn. Ở dạng hư cấu dài hơn, các câu chuyện có khuynh hướng chứa đựng các yếu tố kịch nghệ: sự phơi bày (giới thiệu bối cảnh, tình huống và nhân vật chính), sự phức tạp (sự việc dẫn đến xung đột); hành động trỗi dậy, khủng hoảng (thời điểm quyết định của nhân vật chính và vai trò của anh ta trong mạch diễn biến); đỉnh điểm (là thời điểm cao trào trong quá trình xung đột); giải pháp (thời điểm xung đột được giải quyết), và bài học luân lý. Tuỳ theo độ dài mà truyện ngắn có thể theo hoặc không theo mô hình này. Một số truyện hoàn toàn bỏ qua khuôn mẫu… Ví dụ các truyện ngắn hiện đại đôi khi chỉ có sự phơi bày. Điển hình hơn nữa là sự mở đầu bất ngờ với câu chuyện bắt đầu từ phần giữa của hành động (in medias res). Cũng như các truyện dài, các truyện ngắn đều có cao trào, khủng hoảng, hoặc bước ngoặt. Tuy nhiên, phần kết của nhiều truyện ngắn thường bất ngờ, bỏ ngỏ và có thể không có bài học luân lý hay thực tiễn. Cũng như các hình thức nghệ thuật khác, đặc điểm chính xác của truyện ngắn thay đổi theo từng tác giả. Khi truyện ngắn có khuynh hướng truyền tải các bài học đạo đức, nó rơi vào thể loại phụ gọi là Parables (ngụ ngôn) hoặc (Fables). Dạng truyện này được các lãnh tụ tinh thần hay tôn giáo sử dụng để truyền cảm hứng, khai sáng, giải trí và giáo dục cho môn đồ”. [13, Hồ Kim Phụng dịch]. Từ điển thuật ngữ văn học thì cho rằng: “Khác với tiểu thuyết, là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn thường hướng đến việc khắc họa một hình tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người” [29, tr.371]. Theo các nhà biên soạn sách “Lí luận Văn học”, là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, “Truyện ngắn đích thực xuất hiện tương đối muộn trong lịch sử văn học. Tác giả truyện ngắn thường hướng tới khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ con người hay đời sống tâm hồn con người” [79, tr.397]. Theo cách tìm hiểu dựa trên mối tương quan giữa truyện ngắn và tiểu thuyết thì truyện ngắn mang tính đơn nhất trong việc xây dựng tình huống truyện, nhân vật và chủ đề. Nội dung phản ánh của truyện ngắn chỉ nên là một vấn đề của đời sống, của con người, không nên ôm đồm nhiều chủ đề như tiểu thuyết. Do đó, người viết cần tạo cho mỗi truyện ngắn một độ căng nhất định, còn độc giả thì đọc truyện ngắn theo cách đọc liền một mạch không nghỉ cho đến khi kết thúc. Điều này được nhà văn Trung Mỹ, Juan Bosch khẳng định: “Truyện ngắn là sự trình bày một sự kiện nào đó đáng chú ý. Cố nhiên, sự kiện chỉ có thể quan trọng tới mức nào đó nhưng nó cần được độc giả tin cậy” và “Nghệ thuật viết truyện ngắn nằm ở chỗ biết nhìn ra một sự kiện, cả quyết đi thẳng tới nó, không dừng lại ở những chi tiết người viết bắt gặp giữa đường. Tất cả các chi tiết phù trợ đó phải phục tùng cho sự kiện trung tâm” [88, tr.116]. Truyện ngắn thế giới phong phú và đa dạng. Các nhà văn từng sáng tác truyện ngắn đã có những suy nghĩ về truyện ngắn khác nhau. Đáng chú ý là lời bàn luận của Konstantin Paustovski: “Truyện ngắn là một truyện viết ngắn gọn, trong đó cái không bình thường hiện ra như một cái gì bình thường, và cái gì bình thường hiện ra như một cái gì không bình thường” [88, tr.129]. Cách hiểu này có sự gặp gỡ với ý kiến của nhà văn Mỹ, Truman Capote về truyện ngắn: “Đó là một tác phẩm nghệ thuật có bề sâu nhưng lại không được dài” [88, tr.108]. Xuất phát từ dung lượng tác phẩm, cả hai cây đại thụ truyện ngắn thế giới đều khẳng định truyện ngắn phải ngắn gọn, hơn thế nữa, truyện ngắn phải là thứ để kể và để nghe. Đọc truyện ngắn là được tiếp xúc với một vấn đề của đời sống con người thông qua lăng kính của người kể chuyện. Điều này chứng tỏ truyện ngắn ra đời trong tình huống mà nhà văn đã hội tụ được sức sáng tạo dồi dào, chín tới và có nhu cầu chia sẻ điều tâm huyết của mình với độc giả, nghĩa là điều nhà văn muốn nói phải thành một câu chuyện, phải đem lại một hiệu quả, một ấn tượng cho người đọc bằng dụng công kỹ thuật viết, bằng trí tưởng tượng của nhà văn ít nhiều dựa trên cái cái gốc rễ của đời sống con người. Một truyện ngắn hay có thể ví như “Một thứ quả có nhiều vỏ, luôn làm cho đứa trẻ háu ăn bị “nhỡ tàu”. Mỗi lần bóc ra một lớp vỏ, người đọc thở phào thế là xong mọi chuyện, chắc là không phải chờ đợi gì nữa, thì một lớp vỏ khác lại hiện ra” [88, tr.117]. Cũng chính Juan Bosch nêu lên đặc trưng ngắn gọn là quy luật của việc cấu tạo tác phẩm: “Truyện ngắn đóng vai trò như vai trò của hổ báo trong đại gia đình các loài vật. Ở loài thú dữ này, không được có chút mỡ thừa dính vào mọi cơ bắp, nếu không chúng không thể săn mồi được”. Những ý nghĩ về truyện ngắn như vậy được Nguyễn Minh Châu tán đồng khá hình tượng: “Truyện ngắn như mặt cắt giữa một thân cây cổ thụ, chỉ liếc qua những đường vân trên thân gỗ tròn tròn kia, dù sao trăm năm vẫn thấy cả cuộc đời thảo mộc”[14, tr.45]. Từ đó, chúng ta nhận thấy vấn đề sáng tạo truyện ngắn và vai trò của nhà văn. Truyện ngắn đòi hỏi ở người viết cách tổ chức tác phẩm hết sức nghiêm nhặt, tuân thủ theo dung lượng tác phẩm quy định. Tiểu thuyết mô tả cả cuộc đời con người nên nhà văn có thể viết dài, kể nhiều đoạn phụ, còn với truyện ngắn thì nhà văn phải lao động cật lực ngay từ câu mở đầu và có một kế hoạch tính toán kỹ lưỡng, sát sao từ việc lựa chọn cốt truyện, chi tiết, miêu tả nhân vật, sự kiện, giọng điệu kể chuyện sao cho đạt được hiệu quả cao nhất về nghệ thuật và tư tưởng. Trong cách hiểu truyện ngắn này, chúng ta cũng nhận thấy khả năng lớn lao có thể nói là vô tận của truyện ngắn khi nó đem lại cho người đọc sự liên tưởng lớn hơn số lượng câu chữ hạn hẹp. Đọc truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam, chúng ta không chỉ dừng lại ở cái khoảnh khắc ngày tàn và đêm tối ở phố huyện, ở tâm trạng hai đứa trẻ mà là cả niềm hoài vọng của đời người. Đâu chỉ có một chuyến tàu đêm cụ thể qua phố huyện, chuyến tàu trong truyện ngắn này còn là niềm mong đợi của mỗi con người trên thế gian cho hành trình sống của mình. Với khả năng lớn lao và nhiều triển vọng như thế, truyện ngắn đã mở rộng giới hạn của nó. Truyện ngắn ngày nay không còn bó buộc vào khuôn mẫu gò bó nào: “Đây là một thể tài hết sức năng động, phản ứng rất nhanh, dễ điều chỉnh, và mau thu được kết quả. Đó là một thứ ruồi dấm, trong đó, có thể dễ dàng theo dõi các quy luật sáng tạo của nhà văn, cũng là theo dõi việc giải quyết những vấn đề được đề cập tới” (Kuranôp) [88, tr.144]. Hiện nay có truyện ngắn gần với thơ, truyện ngắn rất ngắn, truyện ngắn gần với kịch, truyện ngắn tiểu thuyết hóa…Tính nhanh nhạy và thích ứng cơ động của truyện ngắn đã đưa truyện ngắn đi xa hơn sự mong đợi của nhiều người. Những truyện ngắn giàu chất thơ đem đến cho văn xuôi sự nồng ấm, mềm mại hơn. Những truyện ngắn giàu kịch tính giúp truyện ngắn sắc nhọn hơn khi phản ánh các vấn đề xã hội, hoặc loại truyện ngắn rất ngắn thì thật sự phù hợp với đời sống hiện đại mà vẫn chuyên chở được tâm tư tình cảm con người ở nhiều góc độ khác nhau. Qua việc tìm hiểu một số quan niệm về truyện ngắn của các nhà văn trong và ngoài nước, chúng ta nhận thấy truyện ngắn là một thể tài mà “hình thức nhỏ” nhưng “không có nghĩa là nội dung không lớn lao” [88, tr.124]. Được sinh ra từ những câu chuyện kể hằng ngày rất tự nhiên, truyện ngắn hình thành và phát triển vượt bậc với sức mạnh dẻo dai phi thường qua sự sáng tạo của nhiều thế hệ nhà văn. Đến nay truyện ngắn đã khẳng định vị trí của mình trong hệ thống thể loại tự sự của văn học thế giới. Những khái niệm về truyện ngắn như trên đã phần nào giúp chúng ta đi vào tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn. 1.1.2. Đặc trưng 1.1.2.1 Đặc trưng cơ bản nhất của truyện ngắn chính là tính chất ngắn gọn, cô đúc bắt nguồn từ dung lượng của tác phẩm. Trong mối tương quan với truyện vừa, tiểu thuyết, truyện ngắn nổi bật lên ở dung lượng “ngắn”. Ngay bản thân thuật ngữ “truyện ngắn” trong tiếng Việt đã nói rõ điều này. Tác phẩm truyện ngắn phải có sự quy định về khối lượng câu chữ “ngắn” trong nội dung phải có “truyện”. Nhà văn Antônôp cho rằng:“Chính việc truyện ngắn phải ngắn khiến cho nó tự phân biệt một cách dứt khoát và rành rọt bên cạnh truyện vừa và tiểu thuyết” [88, tr.179]. Nhà văn Tô Hoài cũng cho rằng “Truyện ngắn chính là cưa lấy một khúc của đời sống” [88, 9]. Như vậy, dung lượng “ngắn” vừa là khối lượng câu chữ vừa là nội dung phản ánh của truyện ngắn, đồng thời còn là quy tắc sáng tạo của nhà văn. Đọc một truyện ngắn, độc giả phải khám phá được ít nhất một vấn đề về cuộc sống, về nhân sinh, được bồi đắp thêm mỹ cảm cho tâm hồn. Tuy nhiên, cụ thể “ngắn” như thế nào vẫn còn là vấn đề để mở, chưa ai đưa ra được giới hạn nhất định cho độ dài của truyện ngắn. Theo nhận định của các nhà lý luận nước ngoài thì “Xác định chính xác ranh giới giữa truyện ngắn và truyện dài là một vấn đề phức tạp. Theo định nghĩa cổ điển truyện ngắn là truyện có thể đọc chỉ trong chốc lát, một điểm được nhấn mạnh trong tác phẩm của Edgar Allan Poe's "The Philosophy of Composition" (1846). Một số định nghĩa khác quy định số lượng từ ngữ tối đa là khoảng 7000 đến 9000. Ta có thể tham khảo định nghĩa của hiệp hội Science Fiction and Fantasy Writers of America trong phần hướng dẫn nộp bài dự thi giải thưởng Nebula Awards đối với truyện ngắn thể loại khoa học viễn tưởng là số lượng từ ít hơn 7500. Hiện nay định nghĩa truyện ngắn được dùng cho các tác phẩm không dài quá 20,000 từ và không ngắn hơn 1000 từ. Các truyện ngắn hơn 1000 từ được gọi là “tiểu thuyết cực ngắn” hoặc “truyện rất ngắn” (flash fiction) [13, Hồ Kim Phụng dịch]. Cô gọn trong truyện ngắn, cũng theo Antônốp, dung lượng truyện ngắn cổ điển sẽ từ bảy, tám trang đánh máy. Thực tế sáng tác lại khác, ý kiến của Lê Huy Bắc đáng để suy ngẫm: “Dung lượng truyện ngắn kéo dài từ vài chục chữ đến 20.000 chữ” [8, tr.28]. Như vậy, thể tài này không quy định nghiêm ngặt khối lượng chữ viết. Truyện ngắn vẫn có độ co giản hợp lý, tùy theo nội dung tác giả chuyển tải sẽ có hình thức phù hợp. Nhà văn William Saroyan cho rằng “Truyện ngắn đó là một cái gì không cùng”, nghĩa là trong sự quy định của dung lượng, nhà văn có thể xoay sở nhiều cách viết, có thể nói về mọi vấn đề của cuộc sống con người. Phẩm chất “ngắn” của thể tài này gắn chặt với phương diện tồn tại của nó là báo chí. Là thể tài “đích thực xuất hiện muộn trong lịch sử văn học” [79, tr.397], cho nên mảnh đất báo chí phù hợp để truyện ngắn nảy lộc đâm chồi. Ở Mỹ, người ta gọi đây là một “thể tài dân tộc”, vì phần lớn các tờ báo ở Mỹ đều có in truyện ngắn. Tại Việt Nam, đa số các cây bút viết truyện ngắn như Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài, Nguyễn Quang Sáng, Lý Lan …đều có tác phẩm được in trên báo trước, về sau mới tập hợp thành tập để xuất bản. Trong khuôn khổ quy định của các cột báo, mỗi truyện ngắn chỉ được phép tồn tại theo khối lượng chữ nhất định. Ngoài ra, người đọc báo cũng cần quan tâm nhiều đến thời gian. Để làm rõ điều này, ý kiến của S. Maugham, nhà văn hiện đại người Anh lại rất gần gũi với ý kiến E. Poe, nhà văn Mỹ, ở chỗ: “Truyện ngắn là một tác phẩm tùy dài ngắn, người ta có thể đọc được trong mười phút hay một giờ, trong đó mọi việc chỉ liên quan đến một đối tượng hay một trường hợp duy nhất, được xác định rõ ràng. Hoặc như mọi chuyện có liên quan tới một loạt trường hợp khác nhau nữa, tất cả phải được phối hợp lại trong một hình thức trọn vẹn. Truyện ngắn cần phải viết sao để người ta không thể bổ sung thêm vào đó chút gì, cũng không thể rút ra bớt chút gì hết” [88, tr.182]. Như vậy, thời gian cho phép là từ dăm bảy phút cho đến hơn một giờ đồng hồ để có thể đọc một truyện ngắn là hoàn toàn phù hợp với phần đông công chúng hiện đại. Xuất phát từ thực tế đời sống với gánh nặng công việc dồn dập, quĩ thời gian hạn hẹp, nhu cầu thẩm mỹ của phần lớn độc giả hiện đại đã thúc đẩy truyện ngắn trở thành thể văn được độc giả ưa chuộng hơn cả. Chính dung lượng nhỏ đã đem lại cho tác phẩm truyện ngắn tính hàm súc và cô đọng. Truyện ngắn do đó thu dần khoảng cách để đến với thơ. Nhà văn Ái Nhĩ Lan, Frank O’Connor rất ưa thích sáng tạo truyện ngắn vì cho rằng thể tài này rất gần với thơ trữ tình. Nhà văn Kuranôp cũng tán đồng với ý kiến đó: “Việc xích lại gần với thơ làm cho văn xuôi trở nên sâu sắc hơn, vừa dễ hiểu hơn, thứ dòng chảy ngầm này cần cho mọi truyện ngắn…có thể ngắn gọn mà vẫn súc tích” [88, tr.145]. Ma Văn Kháng khẳng định cái đức tính phải có của truyện ngắn là giàu chất thơ, thứ “chất thơ chân thật” làm nên những truyện ngắn “có cái gì hơi hơi bay một tí, không nên mơ màng quá mà trần trụi quá cũng không ổn” [88, tr.68]. Nhà văn Vũ Thị Thường cũng nhìn nhận sáng tác truyện ngắn còn yêu cầu nhà văn nuôi cảm xúc trong sáng tạo, điều mà tiểu thuyết không thể có được suốt chặng đường dài từ lúc phôi thai cho đến đủ hình hài tác phẩm. Ngắn gọn, cô đúc, truyện ngắn yêu cầu nhà văn nắm chắc kỹ thuật của thể loại qua những đặc trưng nghệ thuật biểu hiện riêng biệt như: tình huống truyện, nhân vật, chi tiết nghệ thuật, kết cấu, lời văn nghệ thuật… 1.1.2.2 Đặc trưng thứ hai của truyện ngắn chính là tính nhất quán ở các phương thức biểu hiện: tình huống truyện, nhân vật, giọng điệu, ngôn ngữ… Nếu như tiểu thuyết mang tính tổng hợp thì truyện ngắn bộc lộ rõ nhất khuynh hướng khắc họa “tính chất đơn nhất…về mặt chọn tình thế… giọng điệu…nhân vật…”. [108, tr.379]. Nhà nghiên cứu Huỳnh Như Phương đã tổng luận như sau: “Có thể so sánh việc đọc tiểu thuyết với một cuộc đi dạo xuyên qua những địa điểm khác nhau
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan