Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đặc trưng thơ văn xuôi việt nam hiện đại ...

Tài liệu đặc trưng thơ văn xuôi việt nam hiện đại

.PDF
160
682
142

Mô tả:

ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THỊ CHÍNH ĐẶC TRƯNG THƠ VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM HUẾ - NĂM 2016 ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THỊ CHÍNH ĐẶC TRƯNG THƠ VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 62. 22. 01. 21 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. ĐỖ LAI THÚY 2. TS. HOÀNG ĐỨC KHOA HUẾ - NĂM 2016 i LỜI CẢM ƠN Trước hết, xin chân thành cảm ơn những người thân yêu trong gia đình đã tạo mọi điều kiện cần thiết để tôi tập trung hoàn thành luận án. Đặc biệt, xin cảm ơn PGS.TS Đỗ Lai Thúy, TS. Hoàng Đức Khoa những người đã tận tình chỉ dạy, hướng dẫn, cho tôi những ý kiến quí báu, giúp tôi hoàn thành luận án. Xin cảm ơn lãnh đạo khoa Sư phạm Ngữ văn – Sử - Địa, lãnh đạo trường Đại học Đồng Tháp, lãnh đạo Khoa Ngữ văn, Phòng Sau Đại học, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế đã quan tâm, tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án. Xin được cảm ơn tất cả quí thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp - những người luôn động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài. Tác giả Nguyễn Thị Chính ii LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận án là trung thực, đảm bảo độ chuẩn xác cao nhất có thể. Các tài liệu tham khảo, trích dẫn có xuất xứ rõ ràng. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình. Huế, tháng năm 2016 Tác giả Nguyễn Thị Chính iii MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU .......................................................................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài.................................................................................................................... 1 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................................................... 2 3. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................................... 3 4. Đóng góp của luận án ........................................................................................................... 3 5. Cấu trúc của luận án ............................................................................................................. 4 NỘI DUNG ......................................................................................................................................... 5 Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ......................................................... 5 1.1. Tình hình nghiên cứu về lí thuyết thể loại………………….......................... .................. 5 1.2. Tình hình nghiên cứu về thơ văn xuôi Việt Nam ... ...................................................... ...17 Chương 2. NHỮNG TIỀN ĐỀ NGHIÊN CỨU THƠ VĂN XUÔI VIỆT NAM ............... 22 2.1. Nhận diện thơ văn xuôi ....................................................................................................... 22 2.1.1. Quan niệm thơ văn xuôi ............................................................................................ 22 2.1.2. Vài tiêu chí nhận diện thơ văn xuôi......................................................... .............. .26 2.1.3. Thơ văn xuôi và các tương quan thể loại ................................................................. 38 2.2. Những tiền đề hình thành thơ văn xuôi Việt Nam ........................................................... 44 2.2.1. “Văn xuôi cổ ” - những thể điệu trung gian là tiền đề tư duy của thể loại............ 44 2.2.2. Sự xuất hiện của cái tôi cá nhân......................................................................... .......46 2.2.3. Sự phát triển của những thể loại mới…………………………… ............. ……..47 2.3. Khái lược về ba hệ hình thơ ca...................................................................................... ....49 2.3.1. Nhìn lại tình hình nghiên cứu hệ hình ở Việt Nam ................................................. 49 2.3.2. Tiêu chí phân định hệ hình ....................................................................................... 52 2.3.3. Đặc điểm ba hệ hình thơ ca ....................................................................................... 54 Chương 3. BA HỆ HÌNH THƠ VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI................................. 61 3.1. Thơ văn xuôi Việt Nam tiền hiện đại (chủ nghĩa) ............................................................ 62 3.1.1. Nhìn chung về thơ văn xuôi Việt Nam tiền hiện đại (chủ nghĩa).......................... 62 3.1.2. Thơ văn xuôi Việt Nam tiền hiện đại (chủ nghĩa) nhìn từ phương diện cái tôi trữ tình....................................................................................... ...................... .........63 3.1.3. Thơ văn xuôi Việt Nam tiền hiện đại (chủ nghĩa) nhìn từ kiểu tư duy ................. 68 3.2. Thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại (chủ nghĩa) ................................................................... 73 3.2.1. Nhìn chung về thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại (chủ nghĩa) ................................. 73 iv 3.2.2. Thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại (chủ nghĩa) nhìn từ phương diện cái tôi trữ tình ........................................................................................................................ 75 3.2.3. Thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại (chủ nghĩa) nhìn từ kiểu tư duy ........................ 88 3.3. Thơ văn xuôi Việt Nam hậu hiện đại (chủ nghĩa) ........................................................... .93 3.3.1. Nhìn chung về thơ văn xuôi Việt Nam hậu hiện đại (chủ nghĩa) ......................... .93 3.3.2. Thơ văn xuôi Việt Nam hậu hiện đại (chủ nghĩa) nhìn từ phương diện cái tôi trữ tình ........................................................................................................................ 97 3.3.3. Thơ văn xuôi Việt Nam hậu hiện đại (chủ nghĩa) nhìn từ kiểu tư duy.. ............. 101 Chương 4. NHỮNG PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT CỦA THƠ VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI..................................................................................... ............ .106 4.1. Kết cấu văn bản thơ .......................................................................................................... 106 4.1.1. Kết cấu theo sự vận động liền mạch của dòng cảm xúc, liên tưởng ................... 106 4.1.2. Kết cấu theo sự vận động bất định của dòng ý thức ............................................. 109 4.1.3. Kết cấu dán ghép ...................................................................................................... 113 4.2. Ngôn ngữ ............................................................................................................................ 116 4.2.1. Đặc điểm chung của ngôn ngữ thơ văn xuôi ........................................................ 117 4.2.2. Ngôn ngữ thơ văn xuôi - gia tăng tính tạo hình và mở rộng dạng thức kết hợp................................................................................................................ 121 4.3. Nhịp điệu ............................................................................................................................ 132 4.3.1. Nhịp điệu và nhịp điệu trong văn học .................................................................... 132 4.3.2. Nhịp điệu thơ văn xuôi trong tương quan với nhịp lời và nhịp ý........... ............. 134 4.3.3. Các kiểu nhịp điệu tiêu biểu của thơ văn xuôi Việt Nam..................................... 137 KẾT LUẬN .................................................................................................................................... 142 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN LUẬN ÁN....................................................................................................................................144 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................................... 145 PHỤ LỤC v MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Thuật ngữ thơ văn xuôi (tiếng Anh: prose poem, tiếng Pháp: poeme en prose) đã xuất hiện khá thường xuyên trong đời sống văn học Việt Nam ở những thập niên gần đây. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là nó đã quen thuộc với mọi đối tượng độc giả cũng như được mọi người trong giới sáng tác hay nghiên cứu thừa nhận. Có thể nói, thơ văn xuôi là một thể thơ lạ chứ không hề mới. Trên thế giới, nó đã xuất hiện từ đầu thế kỉ XIX, thậm chí có tài liệu cho rằng tác phẩm đầu tiên hiện diện chính thức trên thi đàn với tư cách thơ văn xuôi có từ thế kỉ XVIII - thời điểm các nhà thơ hướng đến văn xuôi như một phản ứng chống lại những luật lệ quá nghiêm khắc mà Viện hàn lâm đã đặt ra đối với phép làm thơ lúc bấy giờ [126]. Trên thế giới, thể thơ này đã gắn liền với những tên tuổi bậc thầy của nó như C. Baudelaire, A. Rimbaud (Pháp), W. Whitman (Mỹ), O.Wide (Anh), N. Turgenev, R. Tagore (Ấn Độ),… Ở Việt Nam, thơ văn xuôi cũng đã hiện diện trong hành trang của bao thế hệ từ những thử bút của các nhà thơ “đêm trước” Thơ mới như Tản Đà, Đông Hồ, Tương Phố, Phan Khôi, đến các nhà Thơ mới như Huy Thông, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Xuân Sanh, Phạm Văn Hạnh,… Trong nền thơ cách mạng, thơ văn xuôi vẫn tồn tại trong sáng tác của Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Huy Cận, … Ở thơ thành thị miền Nam 1954 - 1975 cũng có Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Mai Trung Tĩnh, Bùi Giáng, Nguyên Sa,… Đặc biệt từ thời kì Đổi mới đến nay, thơ văn xuôi là mảnh đất khá màu mỡ để những cây bút cách tân mạnh mẽ hướng tới như Đặng Đình Hưng, Hoàng Hưng, Thanh Thảo, Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Dương Kiều Minh, Trần Tiến Dũng, Nguyễn Thúy Hằng, Đặng Thân,… Như vậy, có thể nói, dù chưa là thương hiệu riêng của một nhà thơ nào, và trong sự nghiệp sáng tác của từng tác giả, thơ văn xuôi cũng hiện hữu rất khiêm tốn, đồng thời những kết tinh nghệ thuật của nó về số lượng cũng chưa thể sánh bằng các thể thơ khác, song, thơ văn xuôi đã thật sự là một thực thể của đời sống văn học Việt Nam. Sự hiện diện của thơ văn xuôi với tư cách là một thể loại đã là điều không thể phủ nhận. Thế nhưng, dù hiện diện trong đời sống thơ ca dân tộc gần một thế kỉ song tâm lí nghi ngại về nó vẫn tồn tại: liệu đó “có phải là thơ không? Còn chờ xem” [44, 668], “Có nên chấp nhận một thể loại mà từ trước đến nay vẫn nhiều người nói đến là thơ văn xuôi hay không?” [123]. Trong bài viết có tính chất tổng kết Trăm năm thơ ca, Võ Văn Trị cho rằng “Thế kỉ XX là thế kỉ được mùa của thơ” song, ở bức tranh thơ 100 năm ấy người ta thấy không hề có bóng dáng thơ văn xuôi. Nói như Lưu Khánh Thơ: “Đây là thể tài thơ còn ít được phổ cập trong tâm lí người sáng tác cũng như người tiếp 1 nhận” [107, 388]. Và, thật sự nó thường bị bỏ quên, bị lướt qua trong rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về thơ nói chung hay sự nghiệp sáng tác của một nhà thơ nói riêng. 1.2. Từ sau năm 1975, nhất là sau Đổi mới, thơ văn xuôi xuất hiện ngày một nhiều. Cùng với nó là những nghiên cứu về thơ văn xuôi cũng ngày càng nhiều hơn. Song, dù có thu hút sự chú ý của giới nghiên cứu, nhưng xung quanh nó vẫn còn bề bộn những vấn đề, những ý kiến, nhận định chưa rõ ràng. Thật ra, xuất hiện từ những thập niên đầu thế kỉ XX nhưng trong hệ thống thể loại thơ ca Việt Nam, nó vẫn thuộc thể thơ “sinh sau đẻ muộn”, vẫn còn đang trong quá trình vận động chưa hoàn tất, huống hồ nó chỉ mới được quan tâm nhiều ở thời gian gần đây. Những bài báo, bài tiểu luận, tham luận có liên quan, những bài nghiên cứu trực tiếp vấn đề thể loại, những luận văn đi vào nghiên cứu thơ văn xuôi Việt Nam ở một giai đoạn nào đó,… vẫn chưa thể đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu một cách toàn diện về thể thơ này. Việc chưa có một công trình chuyên khảo thật sự về thơ văn xuôi hay một cuộc tọa đàm, hội thảo xung quanh nó vẫn là điều thiệt thòi, là việc khó khăn cho những người thật sự yêu thích thơ văn xuôi nhưng không thuộc diện là những nhà nghiên cứu chuyên nghiệp. Một tác phẩm mà trong công trình nghiên cứu này thì được/bị xếp vào tản văn, hay văn xuôi trữ tình, còn ở công trình nghiên cứu khác lại cho là thơ văn xuôi hay thơ không vần khiến cho người đọc hết sức lúng túng. Có thể nói, về lí thuyết thể loại cũng như thực tiễn sáng tác, thơ văn xuôi ở Việt Nam hiện nay vẫn còn có nhiều vấn đề bỏ ngỏ, đòi hỏi một sự nghiên cứu tiếp tục. 1.3. Mỗi thể loại văn học đều có đặc trưng riêng và đó là cái lí để nó có được vị trí của mình trong ngôi nhà thể loại. Là thể thơ lai ghép, lưỡng hợp giữa thơ trữ tình và văn xuôi tự sự, bản thân nó đã phức tạp, lại chỉ mới xuất hiện trong nền văn học hiện đại, nên việc tìm ra những đặc trưng của nó lại càng cần thiết hơn đối với người nghiên cứu cũng như người làm công tác giảng dạy. Đó là những lí do để chúng tôi chọn “Đặc trưng thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại” làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu - Đối tượng khảo sát của luận án là những sáng tác thơ văn xuôi từ đầu thế kỉ XX đến nay. Cụ thể: - Tuyển tập thơ văn xuôi (Việt Nam và nước ngoài) của hai tác giả Nguyễn Văn Hoa và Nguyễn Ngọc Thiện. - Những tập thơ văn xuôi: Đất thơm – Nguyễn Xuân Sanh, Giọt sương hoa - Phạm Văn Hạnh, Bến lạ, Ô mai - Đặng Đình Hưng, Thời hôm nay, khoái cảm và điên rồ hợp lí - 2 Nguyễn Thúy Hằng,…. - Những sáng tác thơ văn xuôi nằm lẫn trong các tập thơ, tuyển thơ của các tác giả được ghi nhận ở mảng sáng tác này. Cụ thể: Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Thanh Thảo, Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Vi Thùy Linh, Nhóm Ngựa trời, Trần Tiến Dũng, Nguyễn Thúy Hằng, Đặng Thân, Nguyễn Thế Hoàng Linh,… - Thơ văn xuôi của các cây bút đô thị miền Nam như Nguyên Sa, Mai Trung Tĩnh, Thanh Tâm Tuyền, Bùi Giáng (qua các tập thơ) và của các nhà thơ khác (đăng tải trên Tạp chí Văn, Tạp chí Sáng tạo, Văn học từ 1955 đến 1975). 2.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu đặc trưng thơ văn xuôi Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến nay. Trong đó, chúng tôi sẽ tập trung vào ba phần chính: hệ thống lại một số vấn đề lí thuyết thể loại, phác thảo diện mạo của thơ văn xuôi Việt Nam và làm rõ những đặc trưng mang tính nổi bật của thể loại. 3. Phương pháp nghiên cứu Là Luận án xem xét một hiện tượng văn học vừa trên cơ sở lịch đại (diễn biến suốt thế kỉ XX) vừa trên cơ sở đồng đại (xem xét từng thời kì) nên phải có cơ sở về lí thuyết. Nền tảng lí thuyết này sẽ tạo ra những phương pháp để tiếp cận đối tượng nghiên cứu. Và ở đây là các lí thuyết hệ hình, thi pháp học cùng với các phương pháp cụ thể sau: - Phương pháp loại hình: Dùng để khái quát những đặc điểm chung về mặt thể loại của thơ văn xuôi; đặt thơ văn xuôi trong mối quan hệ với các thể loại khác trong hệ thống thể loại, trong sơ đồ loại hình thơ ca để nhận thức đầy đủ tính chất đặc thù của nó, chứng minh sự tồn tại của nó trong lịch sử văn học. - Phương pháp hệ hình: nghiên cứu thơ văn xuôi trong tương quan ba hệ hình thơ để làm nổi bật tính chỉnh thể, diện mạo, đặc trưng cũng như sự phát triển theo quy luật nội tại của đối tượng này, đặc biệt nhằm khám phá, phát hiện những điểm mới mẻ. - Phương pháp so sánh - đối chiếu: nhằm nhận diện những khác biệt giữa thơ văn xuôi và các thể loại lân cận. Phương pháp này cũng giúp đặt đối tượng nghiên cứu trong mối quan hệ đồng đại và lịch đại nhằm thấy được sự kế thừa, bước phát triển sáng tạo,... Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp tiếp cận tác phẩm theo hướng thi pháp học hay các thao tác: phân tích, thống kê phân loại, khảo sát văn bản,.... 4. Đóng góp của luận án Với đề tài này chúng tôi hy vọng sẽ đóng góp được những vấn đề có ý nghĩa sau: 3 Thứ nhất, thông qua việc khảo sát thơ văn xuôi từ những sáng tác của phong trào Thơ mới đến nay (kể cả thơ miền Nam 1955-1975), luận án dựng lại bức tranh toàn cảnh về thơ văn xuôi gần một thế kỉ qua. Thứ hai, luận án dùng lí thuyết hệ hình, một mặt để miêu tả sự phát triển của thơ văn xuôi qua các giai đoạn lịch đại, mặt khác như một tiêu chí để nhận diện những đặc trưng của thơ văn xuôi ở từng giai đoạn, cũng như với từng tác giả, tác phẩm. Thứ ba, luận án đi vào làm rõ những phương thức nghệ thuật mang tính đặc trưng của thơ văn xuôi trong cái nhìn đối sánh với các thể thơ khác. 5. Cấu trúc của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, phần Nội dung của Luận án sẽ được triển khai theo cấu trúc gồm 4 chương như sau: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2. Những tiền đề nghiên cứu thơ văn xuôi Việt Nam Chương 3. Ba hệ hình thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại Chương 4. Những phương thức nghệ thuật của thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại 4 NỘI DUNG Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu về lí thuyết thể loại 1.1.1. Trên thế giới Thơ văn xuôi là thể thơ đã gắn liền với tên tuổi những nhà thơ lớn từ nhiều nước trên thế giới. Song, những công trình dịch thuật, trình bày một cách hệ thống, cụ thể về thể loại vẫn chưa xuất hiện ở Việt Nam. Trong Tuyển tập thơ văn xuôi (Việt Nam và nước ngoài), các tác giả có đưa vào một số lời phát biểu thể hiện quan niệm về thơ văn xuôi của Từ điển văn học (Pháp). Chẳng hạn như lời của Cha xứ địa phận La Bresche (1663): “Diễn giả dường như bay bổng bằng lời hùng biện hay sứ giả say sưa khi mô tả kì tích lịch sử, đó là những người đích thực làm thơ bằng văn xuôi” [44, 577] hay Guze de Balzac trong thư gửi Charles Perrault Boileau cũng đề cập đến: “những áng thơ mà chúng ta gọi là tiểu thuyết”. [44, 577]. Song, thật ra, hai tác giả này không nói về thể loại thơ văn xuôi mà nói về thứ văn xuôi có chất thơ. Ở những trích dẫn này, đáng chú ý hơn là phát biểu của Baudelaire: “Trong chúng ta có ai trong những ngày đầy tham vọng, lại không mơ tưởng đến một phép lạ của thể văn xuôi - thơ không điệu không vần, hơi mềm và hơi cứng để có thể thích ứng với những vận động trữ tình của tâm hồn, với làn sóng nhấp nhô của mơ mộng, với những cảm xúc bất thường của lương tri” [44, 653]. Theo dẫn giải của Từ điển văn học (Pháp) thì Baudelaire đã ràng buộc thể thơ này với tính chất hiện đại đô thị. “Thơ văn xuôi là phương tiện của người nghệ sĩ hiện đại tha thiết … tạo ra được ám lực gợi cảm vừa chứa đựng khách thể và chủ thể, thế giới ngoại cảnh đối với nghệ sĩ…” [44, 578]. Bên cạnh những trích dẫn từ Từ điển văn học (Pháp), Tuyển tập còn giới thiệu bài viết Thơ văn xuôi và văn xuôi thơ của tác giả người Tây Ban Nha - Rosa Chacel do Nguyễn Trung Đức dịch. Bài viết chủ yếu trình bày quá trình tác giả chuyển từ sáng tác thơ qua sáng tác văn xuôi, song ở đây có một phát biểu mà chúng tôi cho là rất đáng lưu ý: “Văn xuôi là thứ công cụ chuyên chở rộng rãi vô cùng đối với thơ và không chỉ thơ ca không bị mất mát gì trong phương tiện chuyên chở đó mà ngay cả văn xuôi cũng bắt gặp trong thơ cả lí do tồn tại cao cả nhất của mình” [44, 589]. Về những tài liệu mà chúng tôi thu thập được ở mảng này có thể kể đến ba tài liệu sau: Thứ nhất là lời giới thiệu hợp tuyển Thơ văn xuôi: Hợp tuyển quốc tế của Michael Benedikt. Trong lời giới thiệu, tác giả có trình bày quan niệm về thơ văn xuôi, cho rằng đó là “một thể tài thơ, được viết bằng văn xuôi một cách có chủ ý và được đặc trưng bởi việc sử dụng mạnh mẽ 5 hầu như tất cả mọi phương tiện của thơ ca, trong đó bao gồm hầu hết các phương tiện của thơ luật, ngoại trừ sự ngắt dòng”. Những yếu tố tác giả cho là tài sản đặc biệt của thơ văn xuôi gồm: sự chú ý đến vô thức và logic riêng của nó, việc sử dụng những mẫu thức lời nói hàng ngày, thông tục, sức mạnh của sự nhìn xa trông rộng, dựa trên óc hài hước, sự giải thoát khỏi những nghi ngờ và chủ nghĩa hoài nghi. Tài liệu thứ hai là What is a prose poem? (Thơ văn xuôi là gì?) đăng trên website www.poetry.preview.com/poets/prosepoem.html. Tài liệu này cũng đưa ra một định nghĩa về thơ văn xuôi, đề cập đến sự hình thành và phát triển của thể loại. Tác giả cho rằng: “Thơ văn xuôi là một thể thơ được đặc trưng bởi sự không ngắt dòng. Mặc dù trông nó giống với một đoạn văn xuôi ngắn, nhưng có thể thấy nó trung thành với thơ ở việc sử dụng nhịp điệu, các hình thái của lời nói, vần, sự trùng âm, sự hài âm, và các biểu trưng” [126]. Tài liệu thứ ba là quyển The American prose poem, Poetic form and the Boundaries of Genre (Thơ văn xuôi Mĩ, hình thức và ranh giới thể loại) của tác giả Michel Delville. Đây có thể coi là một công trình chuyên khảo về thơ văn xuôi Mỹ. Trong cuốn sách này, tác giả đã cung cấp những kiến thức về nền tảng lịch sử của thể thơ, nhưng nội dung cơ bản của sách như tên gọi của nó, chủ yếu tập trung vào thơ văn xuôi Mỹ, sự hình thành của thơ văn xuôi Mỹ, vai trò của các nhà Tiền phong, mối quan hệ giữa thơ văn xuôi Mỹ và trường phái thơ ngôn ngữ, giữa thơ văn xuôi và truyện ngắn. Tác giả cũng đi sâu vào nghiên cứu thơ văn xuôi của một số nhà thơ như Russell Edson, Robert Bly, Charles Simic,… và một số tác giả thơ văn xuôi đương đại khác của Mỹ,… Như vậy so với thành tựu thơ văn xuôi mà các nhà thơ thế giới từ Pháp, Mỹ, Anh, Đức, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc,… đạt được thì lí thuyết về thể loại cũng như sản phẩm thơ văn xuôi đi vào Việt Nam là vô cùng hạn chế. Điều này cũng là một khó khăn đáng kể khi chúng ta muốn xác lập một hệ thống lí luận về thể loại nói chung. 1.1.2. Ở Việt Nam Thơ văn xuôi ở Việt Nam đã “trình chánh” giữa làng thơ từ những thập niên đầu thế kỉ XX, vào lúc các nhà thơ cảm thấy quá ngột ngạt bởi sự “câu thúc” của luật lệ thơ cũ “rắp toan bày ra một lối thơ mới” nhưng “vì nó chưa thành thục nên chưa có thể đặt tên kêu là lối gì được” [56]. Vậy mà đến khi tổng kết phong trào Thơ mới qua Một thời đại của thi ca (1941), Hoài Thanh đã bỏ qua thể loại này, chỉ ghi nhận có hiện tượng “xâm lăng của văn xuôi. Văn xuôi tràn vào địa hạt thơ, phá phách tan tành” [99, 39]. Mãi đến năm 1957, trong bài viết Vài gợi ý về thơ tự do của Trần Thanh Hiệp đăng trên Tạp chí Sáng tạo thì cái tên “thơ xuôi” mới hiện diện, song tác giả cũng chỉ nói đến cảm nhận của mình về thể thơ qua mấy dòng ngắn 6 ngủi: “Thơ xuôi là một cực điểm của thơ tự do. Đó là một thể thơ không bố cục giống bài thơ mà lại giống một bài văn xuôi. Tuy nhiên nó phải chứa đựng những rung cảm cô đọng của thi hứng, sức truyền cảm phong phú của thi nhiệt và tiết điệu phù chú của thi ca” [39,46], sau đó kể tên hai đại biểu xuất sắc của nó là Whitman và Tagore. Tư duy về thể loại thơ văn xuôi, trình bày nó một cách khoa học phải chờ đến năm 1965 với bài viết Một vài ý kiến về thơ văn xuôi của Xuân Diệu đăng trên báo Văn nghệ. Nhiều vấn đề của thể thơ đã được tác giả đề cập đến trong bài này. Trước hết, là quan niệm về thơ văn xuôi. Theo Xuân Diệu: “những bài văn xuôi mà đầy thi vị, đầy rung cảm thơ, đọc vào như tưới thấm tâm hồn người, vừa có hình tượng đẹp, vừa có âm thanh hay, lại có nhịp điệu tiết tấu nhanh chậm của câu văn nữa. Khi những bài “văn xuôi có chất thơ” ấy mang chất thơ rất nhiều, thì nảy ra một sự thay đổi về chất lượng, về tính chất và hóa thành những bài thơ bằng văn xuôi” [44, 611]. Ông cũng đề cập đến một số đặc trưng của thể thơ trên nhiều phương diện. Về hình thức: bài thơ thường ngắn, thiếu vần, tăng cường nhịp điệu. Theo ông: “Viết thơ văn xuôi cần phải nắm vững nhịp điệu, tiết tấu của câu thơ dài rộng phá thể, và phải tinh vi nghe được cái nhạc bên trong của câu thơ” [44, 619] và sở dĩ thơ văn xuôi không cần vần, vì: “Tứ thơ, hình tượng thơ, nhịp điệu thơ đã đủ… sự không vần ở đây lại như là một cái duyên riêng của bài thơ, một sự trang điểm không cần đến nữ trang” [44, 619]. Về nội dung, thơ văn xuôi vẫn cố gắng “rút lấy cái tinh chất của sự vật, chú ý đến sự phản ánh, sự tác động của sự vật vào trong tâm hồn, trí tuệ con người thành cảm xúc, tư tưởng, tình cảm” [44, 611]. Về nguồn gốc, tác giả cho rằng “Thơ văn xuôi có một nền móng, một truyền thống lâu dài từ nền văn học dân tộc” [44, 615] và thể phú “chính là tổ tiên xa của nó” [44, 611]. Bên cạnh đó, ông cũng thừa nhận yếu tố thứ hai: thể thơ này cũng “đến từ văn học thế giới vào nước ta với ảnh hưởng văn học Âu Tây”. Ngoài ra, bài viết còn nêu những đòi hỏi của thể thơ đối với người sáng tác cũng như người tiếp nhận. Tác giả cũng chú ý đến việc coi thơ văn xuôi như một thể điệu trung gian, là biểu hiện của việc “mở rộng các hình thức, các thể điệu đặng phục vụ cho sự diễn đạt nội dung hiện nay đắc lực hơn” [44, 619]. Có thể nói, dù là người đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu về thơ văn xuôi và chỉ dừng lại ở “Một vài ý kiến”, nhưng tác giả đã đề cập khá đầy đủ những vấn đề của thể thơ này. Nói như Lưu Khánh Thơ, với bài viết này “Xuân Diệu đã là nhà thơ có công đầu trong việc đóng góp những suy nghĩ tìm tòi mang tính lí luận về sự hình thành và phát triển của thơ văn xuôi nói chung và thơ văn xuôi Việt Nam nói riêng” [107, 389]. Tuy nhiên, ở bài viết, ta thấy vẫn có đôi chỗ chưa thật ổn, cần phải bàn luận thêm. Cụ thể như quan niệm của tác giả về thơ văn xuôi. Hiểu theo cách của ông dễ dẫn đến việc đồng nhất văn xuôi có chất thơ với thơ văn xuôi bởi 7 cách phân biệt giữa chúng chưa có sự rõ ràng: “Khi những bài “văn xuôi có chất thơ” ấy mang chất thơ rất nhiều, thì nảy ra một sự thay đổi về chất lượng, về tính chất và hóa thành những bài thơ bằng văn xuôi” [44, 611]. Hoặc khi tác giả nói “Thơ văn xuôi cũng dùng cái suy nghĩ (tư duy) hình tượng đến cao độ” thì ranh giới giữa thơ văn xuôi và văn xuôi cũng rất khó xác định bởi tư duy hình tượng là kiểu tư duy chung của ngôn ngữ văn học, của mọi thể loại, không phải là độc quyền của thơ văn xuôi. Hơn nữa, khi nói về nguồn gốc, tác giả quá nhấn mạnh về yếu tố gốc rễ dân tộc, thậm chí tác giả còn đồng nhất những thể tài mang dấu hiệu mầm mống của thơ văn xuôi với chính thể loại này: “Đây là hai bài thơ văn xuôi cổ hơn hết: bài Văn tế chị của Nguyễn Hữu Chỉnh và Khóc Trương Quỳnh Như của Phạm Thái” [44, 615] “… Nếu trên thi đàn hiện nay mà có xuất hiện những bài thơ bằng văn xuôi thì bạn đọc đừng lấy làm lạ. Còn lạ gì nữa. Thơ ấy đã có từ đời Nguyễn Hữu Chỉnh, từ đời Trương Hán Siêu, Từ Liễu Tông Nguyên, Hàn Dũ, Tô Thức” [44, 618]. Tiếp đến, cũng là một cột mốc quan trọng trong nghiên cứu thơ văn xuôi là bài viết Thơ văn xuôi của Hà Minh Đức in trong Các thể thơ ca và sự phát triển của hình thức thơ ca trong Văn học Việt Nam xuất bản năm 1968. Nếu quan niệm về thơ văn xuôi của Xuân Diệu chưa đưa đến được một sự phân biệt rõ ràng để nhận diện thể loại thì với công trình này Hà Minh Đức đã là người đầu tiên nghiên cứu thơ văn xuôi với tư cách là một thể loại có những đặc điểm riêng phân biệt với văn xuôi và với thơ. Bằng thao tác đối lập, tác giả đã giúp người đọc thấy được sự khác biệt giữa thơ văn xuôi với văn xuôi dựa trên nhiều phương diện: phương thức biểu hiện; chất thơ thể hiện trong cảm xúc, cấu tứ, hình ảnh; hình thức so sánh; cấu trúc câu, còn khác biệt giữa thơ văn xuôi và thơ chủ yếu ở phương diện cấu tạo về hình thức, cụ thể là: “tổng số tiết tấu trong một nhịp thơ, số từ trong một câu và lối diễn đạt nội dung ý thơ” [44, 625]. Ông còn cho rằng “câu thơ dài từ 11, 12 từ trở lên sẽ dần biến thành câu thơ văn xuôi và bài thơ bao gồm những câu thơ đó sẽ có xu hướng trở thành bài thơ văn xuôi” [44, 627]. Trong phần nghiên cứu này tác giả cũng có điểm gặp gỡ với Xuân Diệu khi nói về nguồn gốc thể loại: “trong thơ ca của ta, các thể văn vần như phú và văn tế, và các loại biền văn như hịch, cáo đều mang dáng dấp thơ văn xuôi”. Có thể nói, Hà Minh Đức đã có cái nhìn bao quát trên cả hai phương diện nội dung và hình thức của thơ văn xuôi. Ông đã nêu khá đầy đủ các đặc điểm loại hình của nó trong quá trình lập luận. Song, có lẽ do yêu cầu của việc biên soạn một công trình chung về thể loại nên ông cũng chỉ dừng lại ở mức độ khái quát vấn đề mà chưa có sự phân tích làm sáng rõ những biểu hiện của các đặc điểm đó nên việc nhận diện chúng vẫn còn nhiều khó khăn. Như vậy, có thể thấy việc nghiên cứu về thơ văn xuôi trước năm 1975 còn hết sức hạn 8 chế. Chỉ sau thời kì Đổi mới, khi thơ văn xuôi đã thường xuyên xuất hiện, thì sự quan tâm dành cho nó mới càng ngày càng nhiều hơn. Và điều đáng mừng nhất là, năm 1997, Tuyển tập thơ văn xuôi (Việt Nam và thế giới) do Nguyễn Văn Hoa và Nguyễn Ngọc Thiện tuyển chọn, đã ra đời. Sách gồm hai phần: Phần một tuyển chọn tác phẩm thơ, phần hai là tập hợp những bài viết bàn về thơ văn xuôi hay những vấn đề liên quan ít nhiều đến thơ văn xuôi ở trong và ngoài nước. Dù chưa phải là một chuyên khảo nhưng sự ra đời của công trình này đã cho thấy đây là lần đầu tiên thơ văn xuôi nhận được sự quan tâm thích đáng từ giới nghiên cứu và cho đến nay nó vẫn là tuyển tập thơ văn xuôi duy nhất. Ở phần hai - tư liệu về lí thuyết thơ văn xuôi, ngoài hai bài nghiên cứu của Xuân Diệu và Hà Minh Đức mà chúng tôi đã giới thiệu ở trên, phần còn lại cũng có một số ý kiến cần được lưu ý như của Nguyễn Ngọc Thiện (Tư duy và cấu trúc nghệ thuật thơ văn xuôi -1996), Nguyễn Trọng Tạo (Thơ văn xuôi hay là thơ không vần -1996), Hữu Đạt (Thơ văn xuôi là đỉnh phát triển cao nhất của thơ tự do - 1996) và Mã Giang Lân (Xu hướng tự do hóa hình thức thơ -1990). Trong bài viết của mình, Nguyễn Ngọc Thiện không thống nhất với tên gọi thơ văn xuôi vì theo ông: “Cách gọi này chưa bao quát đầy đủ các tính chất đặc trưng về tư duy và cấu trúc nghệ thuật của loại thơ này” [44, 648]. Bài viết đã thể hiện sự nỗ lực của tác giả trong việc đi tìm tính quan niệm của hình thức thể loại. Ông viết: “Thơ văn xuôi ra đời, tôi nghĩ, trước hết là do đòi hỏi của một tư duy nghệ thuật mới, đi tìm một độ căng thẩm mỹ mới dựa vào áp lực liên kết của các ý thơ, câu thơ xếp liền nhau, theo một liên hệ cộng hưởng nước đôi: một mặt vẫn tuân thủ trục dọc liên tưởng của thơ, mặt khác thu nạp sự diễn tiến theo trục ngang của văn xuôi” [44, 649]. Song, bên cạnh nhận định có thể nói là sắc sảo này, cũng còn một số nhận định mà theo chúng tôi khá cảm tính, tự mâu thuẫn với chính những quan niệm mà tác giả đưa ra: “… Tác giả làm thơ văn xuôi, một cách rất khiêm tốn, phải chăng như muốn nhũn nhặn cùng người đọc: Mong bạn thông cảm, tôi không đủ thì giờ gọt rũa câu chữ. Mong bạn bớt chút thì giờ và kiên nhẫn đọc tôi, cùng qua thơ, chia xẻ những suy tư về cuộc đời, con người và lẽ đời” [44, 649]. Thậm chí tác giả cho rằng “sự pha trộn của thơ và văn xuôi, như một kết hợp ngẫu hứng của thể loại” [44, 648] trong khi Xuân Diệu, Hà Minh Đức, Mã Giang Lân, Lê Lưu Oanh, Nguyễn Đăng Điệp, Dương Kiều Minh, Trần Ngọc Hiếu,… đều khẳng định sự xuất hiện của thơ văn xuôi “Không phải là một sự lập dị, một sự tìm tòi hình thức chủ nghĩa, mà do một nhu cầu bên trong của sự sáng tác thơ” [44, 619]; “Thơ văn xuôi là sự dãn ra của các hình thức thơ cách luật. Sự dãn ra này là do yêu cầu về nội dung quy định” [44, 628]. Sự xuất hiện của “Thơ văn xuôi là biểu hiện của việc đi tìm một cách thể hiện mới cho các hình thức trữ tình với hai khuynh hướng: Tìm kiếm một giọng điệu vừa phức tạp vừa gai 9 góc, lắm lí sự, nhiều chất nghĩ; Bộc lộ cảm xúc ào ạt, mãnh liệt, gấp gáp, không điềm tĩnh mà say đắm buông thả, không muốn bị ràng buộc bởi bất kì một niêm luật nào để giải phóng tối đa sự dạt dào của cảm xúc và lối kiến trúc bề thế, tầng lớp của hình ảnh từ ngữ” [80, 148],... Nguyễn Trọng Tạo qua bài viết cũng đã gặp gỡ với Nguyễn Ngọc Thiện ở sự băn khoăn về tên gọi của thể loại: “Dù thơ văn xuôi đã trở thành một thuật ngữ ở phương Tây, và đã lây lan ít nhiều sang phương Đông, nhưng tôi vẫn cảm thấy hai từ văn xuôi dùng vào hình thức này khá bất ổn, nó dễ gây ngộ nhận, nhầm lẫn” [44, 654]. Và theo ông: “Thực chất thơ văn xuôi chính là thơ không vần hay nói cách khác nó là biến cách của thơ - không vần” [44, 653]. Ông cũng chỉ ra thực trạng mà cũng là một trong những vấn đề tồn tại của thể thơ này: “có người nhầm lẫn khi ghép những dòng thơ có vần lại với nhau dưới hình thức văn xuôi và gọi nó là thơ văn xuôi; lại có người viết một mẩu văn xuôi đầy chất thơ rồi bảo đấy là “Thơ văn xuôi” để chứng minh rằng mình làm thơ không đến nỗi nghèo nàn về hình thức” [44, 654]. Vấn đề bất cập này về sau còn được đề cập đến trong bài viết của Nguyễn Đăng Điệp và Phạm Quốc Ca. Trong Nghĩ về thơ văn xuôi, Nguyễn Đăng Điệp có chỉ ra sai lầm của nhiều cây bút thơ trong quan niệm dễ dãi về thể loại này: “Nhiều người coi thơ văn xuôi như một sản phẩm thời thượng và họ ghép những câu thơ có vần, có điệu bên nhau một cách dễ dãi mà không hay rằng, mặc dù khá tự do nhưng thơ văn xuôi vẫn đòi hỏi một cấu trúc chặt chẽ... đòi hỏi nghệ sĩ phải thật sự là một cây bút tài năng” [27, 352 - 353]. Ở Mấy nhận xét về thể thơ trong thơ trữ tình Việt Nam 1975 - 2000, Phạm Quốc Ca cũng bày tỏ quan điểm: “không nên xem là thơ văn xuôi những bài về thực chất là thơ có vần, có số lượng chữ trong câu cố định hay không cố định nhưng được sắp xếp theo chiều ngang không xuống dòng… Cũng không phải là thơ văn xuôi loại văn xuôi có chất thơ” [11, 366]. Thơ văn xuôi cũng được Mã Giang Lân bàn đến trong Xu hướng tự do hóa hình thức thơ - 1990, về sau ông còn đề cập thêm trong Nhịp điệu thơ hôm nay - 1997. Nói về thời điểm ra đời của thơ văn xuôi Việt Nam, nếu như Nguyễn Văn Hoa, Nguyễn Ngọc Thiện, Hoàng Sĩ Nguyên, Hồ Thị Tú Anh,… cho rằng nó đến từ “đêm trước” Thơ mới thì theo quan niệm của Mã Giang Lân - “Ý thức thể loại và chất lượng sáng tạo theo định hướng của thể loại mới tạo nên tác phẩm mang phẩm chất thể loại” nên ở Việt Nam “có lẽ đầu những năm 40 của thế kỉ XX ý thức thể loại thơ văn xuôi hình thành ở Phạm Văn Hạnh và Nguyễn Xuân Sanh” [64]. Cũng như nhiều nhà nghiên cứu khác, về cái lí tồn tại của thể loại, ông cho rằng sự nới rộng kéo dài về hình thức câu thơ thành thơ văn xuôi là nhằm khái quát “những sự kiện thời sự nóng hổi, những suy nghĩ cảm xúc ào ạt vào thơ. Có khi phải mô tả, phải ghi nhanh, ghi nhiều hình ảnh, sự việc” [44, 643 - 644]. Tác giả cũng đưa ra tiêu chí để nhận diện sự khác 10 biệt giữa thơ văn xuôi và văn xuôi, thơ văn xuôi và thơ tự do, thơ không vần. Đó là bằng thị giác: văn bản thơ văn xuôi “xuống dòng nhiều hơn văn bản văn xuôi” còn thơ tự do thì “các câu thơ ngắn hơn thơ văn xuôi” [64]. Song, tác giả cũng cho rằng “Khi cách luật càng tự do, câu thơ càng ít phục tùng những quy tắc thì sự khác biệt sẽ phụ thuộc nhiều vào nhịp điệu” nhưng khi đi sâu vào vấn đề nhịp điệu, tác giả chỉ tập trung nói về nhịp điệu của thơ nói chung. Bài của Hữu Đạt được trích từ công trình Ngôn ngữ thơ Việt Nam (1996). Xuất phát từ góc nhìn của một nhà ngôn ngữ học, tác giả đã khẳng định: “Đứng trên phương diện ngôn ngữ, thơ văn xuôi là đỉnh phát triển cao nhất của thơ tự do” [24, 310]. Ông cũng chỉ ra một cách khái quát những điểm mạnh, điểm hạn chế của thể thơ này trong việc biểu hiện hình tượng, cảm xúc thơ: “ưu điểm là diễn tả được cùng một lúc những cảm xúc trùng điệp, những hình ảnh, ý thơ liên tiếp” [24, 310] song “do tính nhiều tầng bậc, nhiều lớp lang trong cấu trúc thơ, việc chia cắt nhịp điệu, ngữ điệu của câu thơ thay đổi thường xuyên sẽ làm người đọc khó nhớ khó thuộc”[24, 312]. Và đi đến kết luận “Thơ văn xuôi hiện đại dù sao cũng không thay thế được thơ tự do”, với một số tác giả “non tay nghề”, không nắm vững thanh, vận, âm luật sẽ “vô tình biến nó thành thứ “văn biền ngẫu hiện đại” [24, 312]. Theo chúng tôi, bất cứ một thể loại văn học nào ra đời cũng đều có cái lí của nó, không hẳn thể loại nào xuất hiện sau cũng nhằm để thay thế thể loại trước nó cũng như sự non tay nghề của tác giả dù ở bất cứ thể loại nào cũng khiến nó đứng trước nguy cơ bị mất hết phẩm chất cũng như giá trị chứ không riêng ở thơ văn xuôi. Về sau, trong Phong cách học tiếng Việt hiện đại (2001), thể thơ này tiếp tục được ông đề cập và điểm cần lưu ý nhất ở đây là tác giả đã chỉ ra đặc trưng về cấu tạo của mô hình câu thơ văn xuôi: Đó là kiểu trùng điệp, nhiều lớp lang, thành phần phụ. Sau thời điểm mang tính chất bước ngoặt trong nghiên cứu thơ văn xuôi này, ta còn khá nhiều những tiểu luận, bài nghiên cứu, phê bình tiếp tục bàn luận trực tiếp về thơ văn xuôi hay những chuyên luận về thơ Việt Nam hiện đại, đương đại nhưng cũng có những quan tâm thích đáng đến thể thơ này. Có thể kể đến: Một số đặc điểm của thơ văn xuôi của Lê Thị Hồng Hạnh (2006), Thơ văn xuôi - nhu cầu tự thân của thời đại của Dương Kiều Minh; Thơ văn xuôi - tiềm năng và phát triển của Nguyễn Văn Dân, Thơ trữ tình Việt Nam (1975 - 1990) của Lê Lưu Oanh (1998), Tư duy thơ hiện đại Việt Nam - Nguyễn Bá Thành (2011), Thơ trữ tình Việt Nam từ giữa thập kỉ 80 đến nay - Những đổi mới cơ bản của Đặng Thu Thủy (2011), Kháng cự Thơ mới - Huỳnh Như Phương (2012), Chủ nghĩa hiện đại trong văn học nghệ thuật - Nguyễn Văn Dân (2013),… Một số nghiên cứu nhà trường như Diện mạo thơ văn xuôi Việt Nam - Luận văn thạc sĩ của Hồ Thị Tú Anh (1999), Bước đầu tìm hiểu một số đặc điểm của thơ văn xuôi và sự thể nghiệm của thể thơ này trong phong trào Thơ mới ở 11 Việt Nam - Tiểu luận khoa học của Trần Ngọc Hiếu (2001),... Sự thâm nhập của chất văn xuôi vào thơ Việt Nam đương đại - Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thanh Tâm - 2012,… Ở những công trình này, khái niệm thơ văn xuôi vẫn tiếp tục được đề cập mà đáng chú ý, theo chúng tôi là ý kiến của các tác giả Lê Lưu Oanh, Đặng Thu Thủy, Nguyễn Thanh Tâm. Trọng tâm công trình nghiên cứu của Lê Lưu Oanh là khai thác cái tôi trữ tình và một số phương thức biểu hiện của nó, trong đó có đề cập đến cái tôi trữ tình trong thơ văn xuôi. Ở đây, khái niệm thơ văn xuôi được tác giả trình bày cụ thể: “Thơ văn xuôi là loại thơ trữ tình có cấu trúc giống câu văn xuôi, câu nọ tiếp câu kia không xuống dòng, gần như không vần, nhịp điệu không mang đầy đủ tính chất cố định, mạch câu chảy tràn không chịu sự ràng buộc theo niêm luật nào, là sự dãn ra của các hình thức thơ tự do, rất dạt dào tình ý và cảm xúc” [80, 147]. Song, từ hướng tiếp cận chất văn xuôi thâm nhập vào thơ, tác giả Nguyễn Thanh Tâm trong Luận án của mình lại đề xuất mở rộng khái niệm thơ văn xuôi vì cho rằng nếu tiếp cận khái niệm thơ văn xuôi theo quan niệm của Từ điển thuật ngữ văn học hay của Lê Lưu Oanh thì “thiên về ấn tượng trực cảm và sẽ vô tình thu hẹp nội hàm khái niệm thơ văn xuôi” [86, 188]. Theo tác giả này, “Không chỉ dựa trên phương diện cấu tạo về hình thức (số lượng âm tiết, tiết tấu, nhịp điệu, cấu tứ), chúng ta nên xác lập khái niệm thơ văn xuôi cho những trường hợp đã chuyển tải một trong số những biểu hiện của chất văn xuôi vào trong chỉnh thể trữ tình. Những bài thơ có hướng khai thác nhân vật theo những cách thức, những thuộc tính tâm lí kiểu nhân vật văn xuôi; những bài thơ hướng ngôn từ và giọng điệu đến ngữ điệu nói, ngữ điệu kể đậm chất hàng ngày, những bài thơ vận hành trên logic của chuỗi sự kiện, những bài thơ được dẫn dắt bởi giọng điệu trung tính khách quan, bông lơn giễu nhại… theo đó đều có thể dung nạp vào một thuật ngữ thơ văn xuôi” [86, 188]. Đề xuất của tác giả này là đáng lưu ý, song vấn đề ở đây là nếu bài thơ đáp ứng những tiêu chí này mà nó tồn tại dưới dạng thức bấy lâu nay ta gọi là thơ tự do không vần, vậy thơ văn xuôi có phải cũng là thơ không vần, một cách gọi khác của thơ không vần như quan niệm của Nguyễn Trọng Tạo? Chuyên luận của Đặng Thu Thủy trong chương III – Đổi mới một số phương diện hình thức nghệ thuật, về phương diện thể loại, tác giả cũng dừng lại khá sâu ở thể thơ văn xuôi. Điểm qua lịch sử phát triển của thể thơ này ở Việt Nam, tác giả cho rằng nó “hết sức mong manh và gián đoạn”. Nói về khái niệm thơ văn xuôi, theo Đặng Thu Thủy, “cho đến nay, có lẽ vẫn chưa có một định nghĩa nào thỏa đáng, chính xác về thơ văn xuôi”, kể cả Từ điển thuật ngữ văn học Việt Nam bởi vấn đề “hình thức trình bày dòng thơ thế nào, vần hay không vần không phải là vấn đề cốt yếu, quan trọng của thơ văn xuôi” [115, 104]. Đối thoại với quan niệm của Từ điển này, Đặng Thu Thủy cho rằng để phân biệt thơ văn xuôi với thơ tự do thì 12 những điểm đáng lưu ý hơn là: “…Thơ văn xuôi có nhiều khoảng trống, khoảng lặng hơn thơ tự do. Tư duy của thơ văn xuôi thiên về tính liên tục, còn thơ tự do thiên về tính gián đoạn. Thơ văn xuôi lưu tâm đến kết cấu tổng thể hơn là gọt dũa câu chữ. Nó cũng gia tăng nhiều hơn chất nghĩ… Văn xuôi vốn dồi dào khả năng phản ánh hiện thực trên một biên độ rộng, giàu yếu tố tự sự, ngôn ngữ văn xuôi là ngôn ngữ đời sống. Thơ văn xuôi đã tích hợp cả sức mạnh này của văn xuôi” [115, 104]. Cũng theo tác giả, “trong thơ văn xuôi hiện nay, chất tiểu thuyết, chất truyện, kịch xuất hiện ngày càng rõ nét” [115, 105] “… Rộng hơn, xa hơn là sự xâm lấn của các loại hình nghệ thuật khác vào thơ nói chung và thơ văn xuôi nói riêng” [115, 105]. Ngoài ra, ở những bài viết khác, mỗi tác giả cũng thể hiện cách hiểu về thơ văn xuôi của mình. Chẳng hạn, với Dương Kiều Minh [75], nó “là một thể lưỡng tính, có nghĩa nó phải trước hết là thơ, sau phải mang hình thức của văn xuôi, đến độ nếu nhìn bề ngoài rất khó phân biệt rằng đó là một bài thơ theo quan niệm truyền thống. Hai yếu tố này phải là một, hòa quyện trong một thể thống nhất mang tính lí tưởng mới tạo ra thơ văn xuôi”. Với Huỳnh Như Phương, trong bài Kháng cự Thơ mới, bài tham luận duy nhất của Hội thảo “Phong trào Thơ mới và Tự lực văn đoàn - 80 năm nhìn lại” được tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh - 2012 có đề cập đến thơ văn xuôi, tác giả cũng đưa ra quan niệm của mình: “Thơ văn xuôi là một bước phát triển của thơ tự do. Nó được tổ chức bằng những câu văn xuôi không hạn định số chữ, liên kết thành một bài văn xuôi hoàn chỉnh. Nhưng nó vẫn không phải là văn xuôi đích thực như tùy bút vì nó có nhạc điệu và chứa đựng những hình thức thường có ở thơ như điệp ngữ, thủ pháp song song,… những điều giúp người đọc dễ cảm nhận cấu trúc của bài thơ” [87]. Nói về những đặc trưng hay đặc điểm thơ văn xuôi, bài viết của tác giả Nguyễn Đăng Điệp bước đầu đã chỉ ra ba dấu hiệu: “Sự lạ hóa với thơ truyền thống về mặt tổ chức ngôn ngữ”; Sau dấu chấm câu của câu thơ văn xuôi là sự hướng tới mở rộng trường liên tưởng hay có ý nghĩa tạo nhịp, tạo tiết tấu (Khác với dấu chấm trong câu văn xuôi, báo hiệu sự dừng ngắt của mệnh đề); “Thơ văn xuôi chú trọng sự đa nghĩa của các hình ảnh, chú ý xây dựng các biểu tượng có sức gợi lớn”. Với Lê Thị Hồng Hạnh thì làm nên sức hấp dẫn của thơ văn xuôi là ở bốn đặc điểm sau: “Sự lạ hóa hình thức thơ ở mức tới hạn”; “Nội dung thi tứ bất ngờ độc đáo, mang chiều sâu trí tuệ”; “Hình ảnh thơ mới lạ”; “Nhịp cảm xúc đóng vai trò chủ âm, yếu tố kiến tạo chủ đạo chi phối tất cả các yếu tố khác trong tác phẩm” [34]. Còn với Hồ Thị Tú Anh, tác giả luận văn Diện mạo thơ văn xuôi Việt Nam, ba đặc điểm nổi bật của thơ văn xuôi là: Thứ nhất: “Thơ văn xuôi là thể thơ của xã hội hiện đại, biểu hiện ở khuynh hướng: tìm kiếm một giọng điệu phức tạp, gai góc, dồn nén nhiều thông tin, nhiều chủ đề, lắm lí sự, nhiều chất suy tưởng và bộc lộ cảm xúc ào ạt, mãnh liệt, gấp gáp, đắm say, buông thả” [4, 47]. Thứ hai: 13 “Thơ văn xuôi là một thể thơ thuộc phương thức biểu hiện trữ tình dựa trên sự bộc lộ cảm xúc trực tiếp qua hình ảnh và tâm trạng nhưng hình thức diễn đạt lại gần gũi với văn xuôi” [4, 58]. Thứ ba: “Thơ văn xuôi là một thể thơ điệu nói, có cấu tạo hình thức gần như không vần, nhịp điệu không mang đầy đủ tính chất cố định, mạch câu chảy tràn ra không chịu ràng buộc theo niêm luật nào, là sự giãn ra của các hình thức thơ cách luật và thơ tự do” [4, 71]. Đặc điểm của thơ văn xuôi cũng được đề cập ở những tài liệu còn lại, song ở đó các tác giả chỉ dừng lại ở một vài bình diện, như Dương Kiều Minh đề cập đến vấn đề nhịp điệu chẳng hạn. Ranh giới giữa thơ văn xuôi với các thể loại gốc hay thể loại lân cận vẫn tiếp tục được đề cập trong các bài nghiên cứu của Nguyễn Đăng Điệp, Đặng Thu Thủy, Nguyễn Thanh Tâm,… đặc biệt là Trần Ngọc Hiếu và Huỳnh Như Phương. Tiểu luận của Trần Ngọc Hiếu đã dựa trên cơ sở tiếp thu, hệ thống hóa đồng thời đối thoại với những ý kiến đã có về thơ văn xuôi trước đó để tìm ra một số đặc điểm nghệ thuật của thể thơ. Ở đây, người nghiên cứu cũng dùng thao tác đối lập để chỉ ra sự khác biệt giữa thơ văn xuôi với văn xuôi, với thơ, song tác giả còn tiến một bước sâu hơn khi đối chiếu với cả văn xuôi trữ tình, một thể điệu trung gian gần gũi nhất với thơ văn xuôi. Phân biệt thơ văn xuôi “một loại văn xuôi trữ tình có nhịp điệu” với văn xuôi trữ tình, theo Trần Ngọc Hiếu “cần phải tìm một tiêu chí hỗ trợ bên cạnh nhịp điệu” [40, 22] bởi “nhịp điệu trong thơ văn xuôi không mang đầy đủ tính chất cố định nên không phải lúc nào dựa vào tiêu chí trên cũng có thể phân biệt được một cách thỏa đáng” [40, 22]. Và tiêu chí tác giả đưa ra là văn cảnh. Nhà nghiên cứu cho rằng văn cảnh trong văn xuôi trữ tình cụ thể hơn văn cảnh thơ văn xuôi. Huỳnh Như Phương trong bài viết cũng đề cập đến sự khác biệt giữa thơ văn xuôi và văn xuôi. Theo tác giả: “Văn xuôi dựa trên nguyên tắc đối thoại, còn thơ văn xuôi là tiếng độc thoại của tâm hồn người viết. Chất nhạc là yếu tố bổ sung của văn xuôi nhưng là yếu tính của thơ văn xuôi”. Tác giả cũng chỉ ra sự khác biệt của thơ văn xuôi với văn xuôi trữ tình: Trong khi “văn xuôi trữ tình không phải là một thể loại riêng biệt mà chỉ xuất hiện trong một số văn bản văn xuôi nhất định” [87], ở đó nhà văn “đem lại cho văn bản yếu tố trữ tình, yếu tố nhạc điệu”, thì với thơ văn xuôi, nó là một thể thơ mà người sáng tác lựa chọn một cách có ý thức và “tạo ra một hình thức ngắn, đóng kín và có tổ chức” ở đó nhạc điệu là “yếu tính” của nó. Về những kết tinh nghệ thuật cũng như tiềm năng và triển vọng của thể thơ này, các nghiên cứu về thơ văn xuôi đã có được tiếng nói chung. Nguyễn Văn Dân, Hoàng Sĩ Nguyên, Trần Ngọc Hiếu,… đều khẳng định thơ văn xuôi đã có những kết tinh nghệ thuật từ những năm 30: “Ngay từ những năm 1930, Đinh Hùng, Nguyễn Xuân Sanh,… đã có những áng thơ văn xuôi tinh khiết và nuột nà” [19, 269], “Tuy số lượng tác phẩm ít nhưng sự thể nghiệm này 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan