Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết lịch sử việt nam thập niên đầu thế kỉ xxi (tt)...

Tài liệu đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết lịch sử việt nam thập niên đầu thế kỉ xxi (tt)

.PDF
24
217
143

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Sau 1986, tiểu thuyết Việt Nam từng bước thay đổi quan niệm về thể loại nhằm vươn tới tầm vóc của tiểu thuyết và tầm đón đợi của người đọc đương đại. Sự đổi mới tiểu thuyết, vì thế vừa hướng tới chủ thể sáng tạo vừa hướng tới chủ thể tiếp nhận. Những nỗ lực cách tân của người viết đòi hỏi người đọc phải chủ động với cách đọc, cách cảm thụ tác phẩm, tránh tình trạng quen với lối đọc của hệ hình cũ. 1.2. Trong thực tiễn sáng tác, nhất là mười năm đầu thế kỉ XXI, các cây bút tiểu thuyết lịch sử đã có ý thức tìm tòi, đổi mới nghệ thuật và kỹ thuật tiểu thuyết trên cơ sở gắn nó với nội dung nhân bản, xã hội để thúc đẩy thể loại phát triển, góp phần cách tân và hiện đại hóa văn xuôi Việt Nam hiện đại. Sự đổi mới của thể loại tiểu thuyết lịch sử vừa phản ánh sự đổi mới chung vừa có những đóng góp riêng vào nghệ thuật tự sự của văn học. 1.3. Trong mười năm đầu thế kỉ XXI, với sự thay đổi ý thức thẩm mĩ của người viết, tiểu thuyết lịch sử đã đạt những thành tựu đáng trân trọng với những tác phẩm tiêu biểu như: Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, Thành Thái – người điên thế kỉ XX của Thái Vũ, Đàn đáy của Trần Thu Hằng, Mạc Đăng Dung của Lưu Văn Khuê, Không phải huyền thoại của Hữu Mai, Hồ Quý Ly và Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh, Hội thề Nguyễn Quang Thân, Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh, Tám triều vua Lý của Hoàng Quốc Hải, Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng, Bí mật hậu cung của Bùi Anh Tấn… 1.4. Đi sâu tìm hiểu đặc trưng nghệ thuật của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI là để hiểu rõ hơn những nỗ lực tìm kiếm trong tư duy nghệ thuật mới mẻ của các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử giai đoạn đầu thế kỉ XXI nói riêng và các nhà tiểu thuyết Việt Nam đương đại nói chung. Từ đó, chúng ta sẽ có những đánh giá thỏa đáng về những đóng góp thật sự của thể loại này trong dòng chảy của tiểu thuyết Việt Nam đương đại. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án khảo sát toàn diện đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết lịch sử giai đoạn thập niên đầu thế kỉ XXI. Do số lượng tiểu thuyết lịch sử giai đoạn mười năm đầu thế kỉ XXI rất lớn nên luận án chỉ tập trung vào những tác phẩm nổi bật cho từng khuynh hướng và mang những đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này. (Phụ lục 1) 1 2.2. Phạm vi nghiên cứu Luận án tập trung tìm hiểu những đặc trưng cơ bản của thể loại trên các phương diện: xu hướng và dạng thức thể loại, thế giới nhân vật; người kể chuyện, điểm nhìn trần thuật và diễn ngôn trần thuật. 3. Cơ sở lý thuyết Luận án sử dụng lý thuyết thi pháp học, tự sự học và lý thuyết về thể loại tiểu thuyết lịch sử và lý thuyết tân lịch sử để nghiên cứu. 4. Phương pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau: Phương pháp loại hình; Phương pháp cấu trúc – hệ thống; Phương pháp so sánh; Phương pháp liên ngành, thao tác thống kê – phân loại. 5. Đóng góp khoa học của luận án Thứ nhất, thông qua việc khảo sát và hệ thống hóa tư liệu về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI, luận án cung cấp cái nhìn tổng quan về diện mạo của tiểu thuyết lịch sử giai đoạn những năm đầu thế kỉ XXI. Thứ hai, trên cơ sở chỉ ra sự đổi mới quan niệm thể loại luận án dựa vào khung chủ đề và kết cấu của tác phẩm để xác định một số xu hướng và dạng thức tiêu biểu (mang tính tương đối). Thứ ba, từ góc độ loại hình, luận án phân loại và xác định một số kiểu nhân vật và phương thức xây dựng nhân vật theo đặc trưng của thể loại, đồng thời chỉ ra sự vận động của thể loại thông qua quan niệm nghệ thuật về con người. Thứ tư, luận án đi vào làm rõ ba phương thức tự sự mang tính đặc trưng của tiểu thuyết lịch sử: người kể chuyện, điểm nhìn trần thuật, diễn ngôn trần thuật trong cái nhìn đối sánh với tiểu thuyết lịch sử giai đoạn trước đó. 3. Cấu trúc của luận án Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án được triển khai thành bốn chương: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2. Đặc trưng tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI - nhìn từ các xu hướng và dạng thức thể loại Chương 3. Đặc trưng tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI – nhìn từ thế giới nhân vật Chương 4. Đặc trưng tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI – nhìn từ phương thức tự sự 2 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu thể loại tiểu thuyết lịch sử ở Việt Nam Thuật ngữ tiểu thuyết lịch sử (TTLS) xuất hiện khá sớm từ phương Tây, được sử dụng rất phổ biến trên thế giới và đã có rất nhiều quan niệm khác nhau của những nhà TTLS nổi tiếng về đặc trưng của thể loại này như A.Dumas, H.S.Haasse, P.Louis – Rey, Lucacs, D.Brewster và J. Burell… Ở Việt Nam, thuật ngữ tiểu thuyết lịch sử cũng được tường giải khá rõ. Theo Từ điển Thuật ngữ văn học thì tiểu thuyết lịch sử là “Các tác phẩm viết về đề tài lịch sử có chứa đựng các nhân vật và các chi tiết hư cấu, tuy nhiên nhân vật chính và sự kiện chính thì được sáng tạo trên các sử liệu xác thực trong lịch sử,… Tác phẩm văn học lịch sử thường mượn chuyện xưa để nói chuyện đời nay, hấp thu những bài học của quá khứ, bày tỏ sự đồng cảm với những con người và thời đại đã qua…” [51, 109] Ngoài ra, rất nhiều công trình nghiên cứu về bản chất, đặc trưng cơ bản của TTLS khi phân biệt sự khác nhau giữa nhà viết sử học với nhà viết TTLS, sự đồng cảm của nhà văn với các nhân vật lịch sử và thời đại lịch sử, các kiểu TTLS trong kinh nghiệm sáng tác của các nhà văn, đổi mới quan niệm xem TTLS như là diễn ngôn về lịch sử... Mối quan hệ giữa sự khách quan, chân xác của lịch sử và vai trò của hư cấu nghệ thuật trong TTLS là một trong những vấn đề quan trọng được các nhà nghiên cứu cũng như nhiều nhà văn như Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Khánh, Nam Dao, Võ Thị Hảo, Nguyễn Quang Thân, Hoàng Quốc Hải, Thái Bá Lợi, Bùi Anh Tấn, Nguyễn Thế Quang, Phạm Ngọc Cảnh Nam… đặc biệt quan tâm. Nhìn chung, TTLS là một thể loại năng động và đang từng bước khẳng định vai trò của mình trong dòng chảy tiểu thuyết đương đại. Các công trình nghiên cứu về thể loại thường đề cập đến quan niệm sáng tác, mối quan hệ giữa lịch sử và hư cấu, nhân vật, sự tương tác, giữa lịch sử và hiện tại,… trong tác phẩm của các nhà văn. 1.2. Tình hình nghiên cứu về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI có nhiều nét đổi mới so với trước đây từ tư duy nghệ thuật, xu hướng thể loại, khuynh hướng tư tưởng, loại hình nhân vật đến phương thức trần thuật, điều đó đã thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu và độc giả. Một số công trình, bài viết đã cho chúng ta thấy sự vận động của loại hình nhân vật và phương thức xây dựng nhân vật trong TTLS giai đoạn mười năm đầu thế kỉ XXI so 3 với trước đây. Có thể kể đến một số bài viết tiêu biểu như Nguyễn Thị Kim Tiến với Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam với quan niệm nghệ thuật về con người, Lê Văn Dương với Vấn đề thể loại và nghệ thuật xây dựng nhân vật qua một số tiểu thuyết lịch sử sau 1985 về phong trào Tây Sơn, Nguyễn Văn Hùng với Nhân vật lịch sử và những biên độ sáng tạo sau đổi mới… Ngoài ra, rất nhiều công trình cùng những cuộc tranh luận cho thấy nhiều hướng nghiên cứu và tiếp cận TTLS như phương thức lựa chọn hiện thực lịch sử, hư cấu nghệ thuật, đổi mới diễn ngôn lịch sử, nghệ thuật kể chuyện, cách thức tổ chức sắp xếp không gian, thời gian, kết cấu,… trong tác phẩm: Phạm Xuân Thạch với tham luận Quá trình cá nhân hóa hư cấu (Tự sự đương đại Việt Nam về đề tài lịch sử - truyền thống và hiện đại) tại Hội thảo quốc tế về Việt Nam học lần thứ II (14-16/7/2004, Thành phố Hồ Chí Minh), Đỗ Hải Ninh với bài viết Vấn đề ngôn ngữ trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại (Tạp chí Nhà văn, 38/03/2012), Hệ biểu tượng nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại của Nguyễn Đức Toàn (Tạp chí Khoa học, Số 41 (020/2016), Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2), đặc biệt, với luận án Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1986 từ góc nhìn tự sự học, Nguyễn Văn Hùng nghiên cứu các phương thức tự sự như người kể chuyện, điểm nhìn tự sự, thời gian tự sự, kết cấu tự sự và diễn ngôn tự sự. Ngoài ra, còn rất nhiều buổi tọa đàm, công trình nghiên cứu, bài viết về các tác phẩm và tác giả TTLS riêng lẻ. Thành tựu của TTLS mười năm đầu thế kỉ XXI, bên cạnh TTLS của Nguyễn Xuân Khánh, văn học đương đại còn ghi nhận rất nhiều những tác phẩm có giá trị như: Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, Đàn đáy của Trần Thu Hằng, Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Tám triều vua Lý của Hoàng Quốc Hải, Tây Sơn bi hùng truyện, Nẻo về Vạn Kiếp của Lê Đình Danh, Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng, Bí mật hậu cung của Bùi Anh Tấn, Minh sư của Thái Bá Lợi, Nguyễn Du của Nguyễn Thế Quang,Thế kỉ bị mất của Phạm Ngọc Cảnh Nam… Ngoài ra, còn có khá nhiều luận văn cao học nghiên cứu từng tác phẩm, tác giả riêng biệt về TTLS đương đại. 1.3. Nhận xét chung về tình hình hình nghiên cứu và hướng nghiên cứu của luận án 1.3.1. Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu Qua những công trình nghiên cứu như trên, chúng tôi rút ra một số nhận xét như sau: Thứ nhất, mười năm đầu thế kỉ XXI, với số lượng tác phẩm phong phú cũng như sự “chín” trong kĩ thuật tiểu thuyết của các tác giả, TTLS thực sự là một đối tượng quan tâm rộng rãi của giới phê bình. Qua các 4 công trình nghiên cứu, các nhà phê bình đã góp phần chỉ ra những thay đổi trong quan niệm về thể loại từ truyền thống đến hiện đại, đồng thời, nhận diện một số đặc trưng cơ bản về thể loại TTLS hiện đại. Thứ hai, nhiều chuyên luận, tiểu luận và bài viết đã đề cập đến một số đặc trưng cơ bản của TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI như khả năng hư cấu, tưởng tượng trong việc tái hiện hiện thực lịch sử, tư duy nghệ thuật, khuynh hướng tư tưởng, mở rộng biên độ loại hình nhân vật, đổi mới phương thức trần thuật, đồng thời, nghiên cứu sâu, rộng một số phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật các tác phẩm của một số tác gia cụ thể như: Nguyễn Xuân Khánh, Hoàng Quốc Hải, Võ Thị Hảo, Nguyễn Quang Thân, Nam Dao, Thái Bá Lợi, Nguyễn Thế Quang, Bùi Anh Tấn… Thứ ba, mặc dù các các công trình, bài báo nghiên cứu về TTLS đầu thế kỷ XXI đã cảm nhận được sự thay đổi trong lối viết của các nhà văn nhưng chưa có công trình chuyên sâu về đặc trưng thể loại và càng thiếu vắng các công trình nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử từ góc độ loại hình. 1.3.2. Hướng nghiên cứu của luận án Trên cơ sở kế thừa và đối thoại những công trình đi trước, luận án vận dụng một số lý thuyết thể loại, lý thuyết thi pháp học, tự sự học, lý thuyết tân lịch sử và phương pháp nghiên cứu loại hình để tập trung khảo sát đặc trưng thể loại của TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI trên các bình diện như xu hướng, dạng thức thể loại (theo dạng thức chủ đề, kết cấu), tương tác thể loại; thế giới nhân vật (xác định một số kiểu nhân vật đặc trưng của thể loại, đồng thời, chỉ ra những phương thức nghệ thuật đặc sắc trong việc khắc họa hình tượng nhân vật); phương thức tự sự (người kể chuyện, điểm nhìn trần thuật, diễn ngôn trần thuật)… trong cái nhìn đối sánh với TTLS giai đoạn trước. Từ đó, luận án chứng minh sự vận động, đổi mới trong quan niệm về thể loại, tư duy nghệ thuật của các nhà văn đương đại. 5 Chương 2 ĐẶC TRƯNG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI – NHÌN TỪ CÁC XU HƯỚNG VÀ DẠNG THỨC THỂ LOẠI 2.1. Đổi mới ý thức nghệ thuật và quan niệm về thể loại 2.1.1. Từ quan niệm truyền thống “trung thành với lịch sử” TTLS trước 1986, trên cơ sở cái nhìn tĩnh tại về cái đã qua, các nhà văn thường coi trọng việc tái hiện chính xác sự kiện lịch sử, không khí lịch sử, tính chất hư cấu chỉ được xem như những đường viền trang trí nhằm tô điểm thêm sự sinh động cho các sự kiện và nhân vật lịch sử. Lịch sử vì vậy luôn được khai thác chủ yếu dựa trên những nhân vật hoặc những sự kiện có thật. 2.1.2. Đến quan niệm hiện đại“luận giải, đối thoại, phản biện lại lịch sử” Với quan niệm mới, lịch sử không phải là một quá trình đã hoàn tất, xong xuôi, “tĩnh tại” mà thực chất lịch sử vẫn đang chuyển động. Quan niệm này đã tạo nên mảnh đất màu mỡ để các nhà văn kiến tạo lại lịch sử, lấp đầy những “khoảng trắng” của lịch sử. Những người cầm bút như Nguyễn Xuân Khánh, Võ Thị Hảo, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Khắc Phục, Nguyễn Quang Thân, Bùi Anh Tấn, Nguyễn Thế Quang… chỉ coi lịch sử là chất liệu, thậm chí là phương tiện để viết tiểu thuyết, mạch cảm hứng “phân tích và giải mã” hay “tiểu thuyết hóa” lịch sử phát triển khá mạnh. Lịch sử không chỉ được tái hiện một cách chính xác như nó vốn có trên bề mặt các sự kiện mà còn được soi chiếu ở nhiều góc nhìn, ở cả “bề sâu, bề xa”, những góc khuất, thâm cung bí sử của lịch sử được chú ý, những bí ẩn và xung đột của lịch sử được “giải mã”, để rồi lịch sử được ngưng tụ, phản chiếu ở chiều sâu số phận con người. 2.2. Các xu hướng và dạng thức tiểu thuyết lịch sử thập niên đầu thế kỉ XXI 2.2.1. Tiểu thuyết lịch sử nhìn từ dạng thức đề tài 2.2.1.1. Tiểu thuyết lịch sử sự kiện Trong dạng thức này, sự kiện đóng vai trò trung tâm chi phối cấu trúc tự sự của tác phẩm. Nhân vật là phông nền góp phần lý giải hiện thực lịch sử. Trong đó, tái hiện chính xác các sự kiện lịch sử, không khí lịch sử là mục tiêu hướng đến của Vũ Ngọc Đĩnh, Ngô Văn Phú, Trần Cư Sỹ, Lê Đình Danh,… Những tác phẩm của Bùi Anh Tấn, Phạm Ngọc Cảnh Nam, Nguyễn Khắc Phục, Nguyễn Quang Thân đã phát huy tài năng hư cấu nghệ thuật của mình trên nền tảng kiến thức đầy đặn của hệ thống các công trình chính sử. Sự kết hợp giữa hiện thực và hư cấu, những sự kiện lịch sử được ghi trong sử sách hiện lên trùng trùng điệp điệp những tình tiết, sự kiện hư cấu “không bao giờ kể hết được”. Trong những tác phẩm này, sự kiện lịch sử là đối tượng trung tâm, 6 nhiệm vụ của nhà văn là tìm cách giải mã nó theo cách nhìn của cá nhân mình. 2.2.1.2. Tiểu thuyết lịch sử nhân vật Một trong những đặc điểm nhận dạng dạng thức TTLS nhân vật thể hiện ngay tiêu đề của tác phẩm: Hồ Quý Ly, Mạc Đăng Dung, Huyền Trân, Nguyễn Du, Lê Lợi, Bà Triệu, Trương Vĩnh Ký – bi kịch muôn đời, Nguyễn Trãi (quyển 1: Oan khuất, quyển 2: Bức huyết thư),… Nhân vật trong TTLS nhân vật vừa là nhân vật chính vừa là nhân vật trung tâm. Loại hình nhân vật này không chỉ là nhân vật đóng vai trò chủ chốt, xuất hiện nhiều, giữ vị trí then chốt của cốt truyện hoặc tuyến cốt truyện, là cơ sở để tác giả triển khai chủ đề cơ bản của tác phẩm mà còn là “nơi quy tụ các mối mâu thuẫn của tác phẩm, là nơi thể hiện vấn đề trung tâm của tác phẩm”. Khi ý thức nghệ thuật thay đổi, nhà văn có nhu cầu nhận thức lại lịch sử, giải mã những góc khuất, những vùng bí ẩn, lấp đầy những khoảng trắng của lịch sử. Nhân vật trong các sáng tác của Nguyễn Xuân Khánh, Lưu Văn Khuê, Nguyễn Thế Quang, Thái Bá Lợi, Bùi Anh Tấn, Nguyễn Quang Thân,… không đơn thuần là mô tả, minh giải lịch sử mà được đưa ra luận giải, phân tích, đối thoại với cảm hứng “giải thiêng”, từ đó, nhân vật được soi rọi dưới nhiều góc độ khác nhau: tính cách, số phận, tâm hồn. 2.2.1.3. Tiểu thuyết lịch sử văn hóa - phong tục Các nhà TTLS Việt Nam đương đại ý thức sâu sắc về sự gắn kết giữa hai yếu tố lịch sử và văn hóa trong sáng tạo của mình. Lịch sử với những biến cố, sự kiện hiện diện trên bề nổi là những tầng giá trị ẩn ngầm như một hằng số quyết định sự thịnh suy của một thời đại, một giai đoạn lịch sử. Tiêu biểu cho xu hướng này là tác phẩm Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh, Đất trời của Nam Dao, Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng của Bùi Anh Tấn… 2.2.1.4. Tiểu thuyết lịch sử luận giải TTLS đương đại không chỉ đưa ra những giả định để phân tích lịch sử mà còn được lý giải gắn với thân phận con người trong sự biến chuyển của thời đại. Những thân phận người dù anh hùng, tài hoa, lỗi lạc (Hồ Quý Ly, Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Trần Nguyên Hãn, Hoàng Hoa Thám…) hay những phận liễu yếu mỏng manh (Lý Chiêu Hoàng, Nguyễn Thị Lộ, Ngọc Trần, Thanh Mai,…) đều chịu cơn địa chấn của lịch sử. Xem lịch sử như một văn bản có nhiều khoảng trắng, một loại diễn ngôn hoặc đầy thiên kiến sai lạc, hoặc có những lầm lẫn, lấp lửng, nhà tiểu thuyết cần “đọc lại” lịch sử, “viết lại” lịch sử. Cảm hứng chủ đạo trong các tiểu thuyết này là sự đánh giá lại một số nhân vật, sự kiện lịch sử còn gây nhiều tranh cãi: Hồ Quý Ly trong tác phẩm cùng tên của Nguyễn Xuân Khánh, Mạc Đăng Dung trong Mạc Đăng Dung của Lưu Văn Khuê, Lê Lợi trong Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Lý Thường Kiệt trong Bí mật hậu cung, Trần Thủ Độ trong Đàm đạo về 7 Điều Ngự Giác Hoàng của Bùi Anh Tấn, vua Gia Long trong Nguyễn Du của Nguyễn Thế Quang,… 2.2.2. Tiểu thuyết lịch sử nhìn từ dạng thức kết cấu 2.2.2.1. Tiểu thuyết lịch sử kết cấu theo lối tuyến tính Một số TTLS giai đoạn này tiếp tục triển khai theo lối kết cấu tuyến tính, theo đó cốt truyện được xây dựng trên cơ sở tuân thủ nghiêm ngặt trình tự thời gian sự kiện, nghĩa là sự việc nào có trước kể trước, sự việc nào có sau kể sau. Căn cứ vào điểm mở đầu và kết thúc của văn bản tác phẩm, chúng ta dễ dàng nhận diện “quy mô bộ khung” của tác phẩm: Lê Lợi, Bà Triệu (Hàn Thế Dũng), Đất trời (Nam Dao), Đàn đáy (Trần Thu Hằng), Tám triều vua Lý (Hoàng Quốc Hải), Thế kỉ bị mất (Phạm Ngọc Cảnh Nam), Nguyễn Du (Nguyễn Thế Quang), Huyền Trân (Nguyễn Hữu Nam),… Tuy nhiên, kết cấu tuyến tính trong tiểu thuyết hiện đại và đương đại có những khác biệt so với truyện kể thời trung đại, do sự đan xen các mảnh đoạn tâm lý của nhân vật, làm đảo tuyến cục bộ. Đổi mới tư duy thể loại được các nhà văn đương đại thực hiện thông qua kĩ thuật tự sự như đa dạng hóa vai người kể chuyện, di động điểm nhìn, thủ pháp độc thoại nội tâm, kĩ thuật dòng ý thức… Những tác phẩm tiêu biểu như Hội thề (Nguyễn Quang Thân), Thế kỉ bị mất (Phạm Ngọc Cảnh Nam), Nguyễn Du (Nguyễn Thế Quang), Bí mật hậu cung (Bùi Anh Tấn), Đàn đáy (Trần Thu Hằng) không đơn thuần được trần thuật theo kết cấu tuyến tính đơn phiến mà luôn được mở rộng khung truyện kể theo hướng đa chiều: khách quan – chủ quan, đời tư – thế sự, dân tộc – cá nhân. Lúc này, lịch sử không chỉ được luận giải theo trục thẳng về thời gian mà luôn có sự xáo trộn thời gian theo hướng đảo thuật hay dự thuật. Ngoài ra, kết cấu theo lối chương hồi là một dạng thức của kiểu kết cấu tuyến tính truyền thống khi dựa vào khung lịch sử của các triều đại để dựng khung truyện kể. Mặc dù vận dụng kĩ thuật kết cấu chương hồi truyền thống nhưng TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI có nhiều đổi mới hiện đại về ngôn ngữ, về cách khắc họa nhân vật. Tiêu biểu là những cuốn TTLS: Mười hai sứ quân, Hào kiệt Lam Sơn, Bắn rụng mặt trời của Vũ Ngọc Đĩnh, Nam quốc sơn hà, Anh hùng Đông A dựng cờ bình Mông của Cư sĩ Yên Tử Trần Đại Sỹ, Uy Viễn tướng công, Lý Công Uẩn của Ngô Văn Phú, Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh, Thăng Long ký của Nguyễn Khắc Phục… 2.2.2.2. Tiểu thuyết lịch sử kết cấu theo lối lắp ghép, đồng hiện Kĩ thuật lắp ghép của điện ảnh được các nhà tiểu thuyết vận dụng như một “kĩ thuật giữ bí mật” nhằm đưa tiểu thuyết vào “những mê cung đầy những ổ khóa”, chạy theo “tiếng gọi của trò chơi” luôn vận động và biến chuyển không ngừng. Sử dụng kết cấu lắp ghép thông qua dòng chảy ký ức của nhân vật, hiện thực được tiếp cận từ nhiều chiều: thời gian, không gian, điểm nhìn, các biến cố lịch sử gắn liền với số phận con người, được phối hợp chặt chẽ tạo nên tính liên tục và ổn định 8 cho cấu trúc tác phẩm. Các tác phẩm tiêu biểu: Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Mẫu Thượng Ngàn (Nguyễn Xuân Khánh), Minh sư (Thái Bá Lợi), Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng (Bùi Anh Tấn),... 2.3. Các xu hướng và dạng thức tiểu thuyết lịch sử nhìn từ tương tác thể loại 2.3.1. Sự xâm nhập của truyện ngắn trong tiểu thuyết lịch sử Với tư duy tiểu thuyết, truyện ngắn có độ nén, tính vấn đề, tính mở, tính đa âm rất cao. Do đó, tương tác giữa truyện ngắn và TTLS là sự xâm nhập của hình thức tự sự cỡ nhỏ vào trong cấu trúc tự sự cỡ lớn. Nhìn từ góc độ thể loại có thể thấy TTLS giai đoạn này có sự nới rộng cấu trúc thể loại, “mở rộng trường nhìn”, góp phần tạo nên nhiều tiếng nói khác nhau trong tiểu thuyết. Tính liên thể loại thể hiện qua hai hình thức chính: truyện lồng truyện và lắp ghép truyện. 2.3.2. Sự xâm nhập của thơ trong tiểu thuyết lịch sử Thơ xuất hiện dày đặt trong TTLS, theo kết quả khảo sát, hầu hết tác phẩm nào cũng có sự thâm nhập của thơ vào trong cấu trúc tự sự. Thơ xuất hiện trong tác phẩm thực hiện nhiều chức năng khác nhau, trong đó, thơ được dùng làm đề từ nhằm định hướng tư tưởng của tác phẩm hoặc gợi nguồn cảm hứng sáng tạo cho tác giả. Ngoài ra, phần lớn thơ trong TTLS là phương thức chuyển tải tâm trạng của nhân vật trữ tình, nhân vật bộc lộ suy nghĩ, tư tưởng, tình cảm, đồng thời là kênh chuyển tải triết lý nhân sinh sâu sắc của tác giả. Những bài thơ chữ Hán được tập hợp thành tập Bắc hành tạp lục ghi lại những địa danh, hình ảnh, nhân vật, cảnh vật và hoàn cảnh mà Nguyễn Du (trong tác phẩm cùng tên) đã trải nghiệm, cùng những hoài niệm riêng tư cảm nhận trong hành trình sứ bộ sang Trung Hoa. Đặc biệt, Đoạn trường tân thanh là tiếng kêu thân phận cho những kiếp người chịu nhiều bất công, ngang trái, là “nỗi khát khao tự do của người nghệ sĩ trước thực tại nghiệt ngã, bủa vây.” [65, 106] 2.3.3. Sự xâm nhập của kịch trong tiểu thuyết lịch sử Trong một thế giới nhiều mảnh vở, tồn tại bao nhiêu tình thế giàu xung đột nảy sinh: xung đột giữa cái cũ và cái mới, giữa bảo thủ và đổi mới trong Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn (Nguyễn Xuân Khánh), Thế kỉ bị mất (Phạm Ngọc Cảnh Nam); giữa tư tưởng nhân nghĩa và cướp đoạt trong Hội thề (Nguyễn Quang Thân); giữa tình yêu và dục vọng trong Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Đàn đáy (Trần Thu Hằng), Bí mật hậu cung (Bùi Anh Tấn); giữa tự do và quyền lực trong Nguyễn Du (Nguyễn Thế Quang), Minh sư (Thái Bá Lợi), Huyền Trân (Nguyễn Hữu Nam); giữa trí thức với quyền lực, giữa dục vọng, bản năng với lý trí trong Hội thề (Nguyễn Quang Thân), Oan khuất (Bùi Anh Tấn); giữa Đạo và Đời trong Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng (Bùi Anh Tấn), Tám triều vua lý (Hoàng Quốc Hải)… Nhiều mối xung đột nảy sinh trong đời sống hiện thực lịch sử, trong suốt chặng đường dựng nước và giữ nước (xung đột giữa ta và địch): Bà triệu, Lê Lợi – Hàn Thế Dũng; Tám triều vua Lý – Hoàng Quốc Hải, Hội thề - Nguyễn Quang Thân, Đất trời – Nam Dao, … được các nhà TTLS đương đại mang 9 ra luận giải, đối thoại như là một cách mô tả hướng vận động của hiện thực lịch sử. Tiểu thuyết đương đại ngày càng có xu hướng rút ngắn về dung lượng, đó là kết quả của sự vận dụng các đặc tính tập trung của kịch. Lựa chọn cách viết ngắn gọn buộc nhà văn phải xây dựng tác phẩm cô đúc về dung lượng, có sức nén, phải chọn thời điểm đặc biệt, mang tính vấn đề cao. Khi sáng tạo tiểu thuyết Hội thề, Nguyễn Quang Thân đã chọn thời điểm đặc biệt (dăm bảy ngày trước sau trận Xương Giang), chọn một không gian hẹp là thành Đông Quan và vùng Kinh Bắc, những nhân vật kiệt xuất (Lê Lợi, Nguyễn Trãi), những tình huống giàu ý nghĩa xã hội. Tác phẩm là một nhát cắt của lịch sử với bao suy tư, bao gợi mở thổi về từ quá khứ 600 năm, tác phẩm có sức lay động trái tim và tư duy con người hiện đại. Ngoài ra, trong TTLS còn xuất hiện rất nhiều những thể loại khác như các văn bản chính luận và các thể loại văn học trung đại như hịch, chiếu, biểu, cáo, như phú, hát nói, truyện truyền kì, quái dị… Ví dụ, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi xuất hiện trong Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Đất trời của Nam Dao; Hịch tướng sĩ, Nam quốc sơn hà trong Tám triều vua Lý của Hoàng Quốc Hải, Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng của Bùi Anh Tấn, những bài hát nói trong Đàn đáy của Trần Thu Hằng,… Nhìn chung, sự tương tác nhiều thể loại và yếu tố ngoài hệ thống thực sự là những thể nghiệm độc đáo của tiểu thuyết lịch sử. Nhìn vào tiến trình vận động và phát triển của thể loại, có thể nhận thấy, chính sự tương tác với truyện ngắn, thơ, kịch, các yếu tố huyền thoại, tôn giáo, tín ngưỡng… theo chiều đổi ngôi, tiếp sức, tổng hợp thể loại tạo nên sự đa dạng về xu hướng và dạng thức tiểu thuyết lịch sử, thậm chí sinh thành nhiều thể loại mới: tiểu thuyết lịch sử văn hóa – phong tục, tiểu thuyết lịch sử huyền thoại, truyện ngắn lịch sử, kịch lịch sử... Bên cạnh đó, tương tác theo chiều tổng hợp thể loại tạo điều kiện cho TTLS giai đoạn này phát huy tối đa trường phản ánh hiện thực và con người trong thời đại mới. 10 Chương 3 ĐẶC TRƯNG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỈ XXI – NHÌN TỪ THẾ GIỚI NHÂN VẬT 3.1. Các kiểu nhân vật 3.1.1. Nhân vật sử thi hóa TTLS Việt Nam đầu thế kỉ XX đến 1945 có sự chuyển tiếp từ TTLS trung đại sang TTLS hiện đại trong đó, quan niệm nghệ thuật về con người có nhiều chuyển biến, đổi mới trên tinh thần tiếp thu luồng gió mới của văn học phương Tây: hình tượng người anh hùng được phản ánh từ phi thường đến bình thường. Bên cạnh việc khắc họa phẩm chất anh hùng của nhân vật, TTLS giai đoạn này đã chú ý kết hợp hài hòa giữa cái tôi cá nhân với cái ta, cái chung của dân tộc, của lý tưởng. Một số nhà văn đặt người anh hùng trong mối quan hệ với cá nhân, với gia đình. Người anh hùng được nhìn ở góc nhìn đời tư với những suy tư, trăn trở, hoài nghi, buồn vui, hờn giận, những khát vọng cá nhân đầy nhân bản: Phạm Ngũ Lão (Trần Nguyên chiến kỷ – Nguyễn Tử Siêu), Phùng Chính (Lê Đại Hành – Nguyễn Tử Siêu),… Tiếp nối chặng đường văn học 1930 – 1945, TTLS 1945 – 1985 được bồi đắp tinh thần sử thi của thời đại, con người sử thi được gắn kết giữa số phận cá nhân với số phận cộng đồng trong công cuộc phấn đấu cho một lý tưởng chung – lý tưởng độc lập dân tộc. Giai đoạn này, các nhà TTLS khi xây dựng hình tượng nhân vật anh hùng thường chú trọng đến tính chính xác của lịch sử, đặt nhân vật trong mối quan hệ với cộng đồng, xã hội là chủ yếu, một số tác phẩm, các nhà văn có chú ý đi vào đời tư của nhân vật. Tuy nhiên, giống với TTLS giai đoạn trước 1945, TTLS trước 1986 nhìn con người anh hùng ở góc độ đời thường nhưng chỉ là những nét chấm phá, thoáng qua, thậm chí yếu tố đời thường chỉ góp phần tôn thêm vẻ đẹp của con người cộng đồng, con người xã hội mà thôi. Trong TTLS sau 1986, đặc biệt, thập niên đầu thế kỉ XXI, tinh thần luận giải, đối thoại, nhận thức lại lịch sử đã chi phối quan niệm nghệ thuật về con người trong thời đại mới. Theo đó, quan niệm về người anh hùng có sự đổi mới mạnh mẽ: cảm hứng ngợi ca nhường chỗ cho cảm hứng thế sự - đời tư. TTLS đi vào khai thác kiểu con người đời tư, con người ở góc độ cá nhân, xen lẫn ánh sáng và bóng tối, cao cả và thấp hèn, vinh quang và đắng cay, anh hùng và gian hùng: Hồ Quý Ly (Hồ Quý Ly – Nguyễn Xuân Khánh), Lý Thường Kiệt (Tám triều vua Lý – Hoàng Quốc Hải, Bí mật hậu cung – Bùi Anh Tấn), Trần Thủ Độ (Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng – Bùi Anh Tấn), Lê Lợi (Đất trời – Nam Dao, Hội thề - Nguyễn Quang Thân), Gia Long (Nguyễn Du – Nguyễn Thế Quang), Nguyễn Hoàng (Minh sư – Thái Bá Lợi),… Hình ảnh Trần Thủ Độ là người có công to lớn trong việc gây dựng cơ đồ cho nhà Trần nhưng trong cái nhìn của thời đại và hậu thế, đó là một con người gian hùng, khắc bạc. Là kẻ gian hùng, độc ác nhưng ông luôn sống có trách nhiệm với bản thân, dòng họ và dân tộc. Trong Thủ Độ, trái tim ấm nóng vẫn luôn cháy sáng. Ông yêu thương và trọn tình với Trần Thị 11 Dung, giàu lòng thương và độ lượng với Lý Chiêu Hoàng, ray rứt lương tâm khi nghĩ về sự ép buộc Trần Cảnh và Lý Chiêu Hoàng phải sống ly tan. Như thế, nhân vật Trần Thủ Độ từ lịch sử đi vào tiểu thuyết với những mảng sáng và tối đã dấy lên trong lòng người đọc sự nể trọng, ưu ái đối với một nhân vật lịch sử còn nhiều tranh cãi. Với cái nhìn “giải thiêng” lịch sử, nhân vật Lê Lợi (Hội thề - Nguyễn Quang Thân) có những nét khác biệt so với nguyên mẫu lịch sử. Đó là con người đầy vẻ kiêu hùng, quyết liệt, khôn khéo nhưng cũng là con người trần tục như một kẻ nông phu. Tài năng giúp ông giành được giang sơn nhưng sự ích kỷ, nhỏ nhen tầm thường đã đẩy ông rơi vào bi kịch gia tộc. 3.1.2. Nhân vật huyền thoại hóa Trong địa hạt của TTLS, khuynh hướng tiểu thuyết huyền thoại in đậm trong các sáng tác của Nguyễn Xuân Khánh (Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa), Nguyễn Khắc Phục (Thăng Long ký), Võ Thị Hảo (Giàn thiêu),…Cái nhìn đa chiều về hiện thực đời sống, thúc đẩy các nhà TTLS đương đại luôn tìm cách đổi mới bút pháp nghệ thuật nhằm thỏa mãn khát vọng chiếm lĩnh những chiều bí ẩn, lắng sâu, chìm khuất trong tâm hồn con người và chiêm nghiệm triết lý về cuộc đời. Thế giới nhân vật dị thường, huyễn hoặc trong TTLS rất đa dạng và phong phú: Từ Lộ, Đại Điên, Ngạn La…; Với Mẫu Thượng Ngàn, Nguyễn Xuân Khánh sử dụng bút pháp huyền thoại sáng tạo những nhân vật kì ảo: bà Tổ Cô, cô Mùi, ông hộ Hiếu; Với Đội gạo lên chùa, con người kì bí đó là bà vãi Thầm; Thiền sư Vô Úy, Rêu. Nhân vật trong TTLS huyền thoại không chỉ méo mó, biến dạng bởi hình dáng bên ngoài mà còn dị thường trong tâm hồn, nhân tính. Kiểu nhân vật huyễn hoặc có khi hóa thân trong con người bình thường, có lúc được mang tên gọi cụ thể rõ ràng, nhưng nhiều khi chỉ là những hồi âm, vang vọng, những cái bóng hay những tiếng nói mơ hồ không xác định, thậm chí nó ẩn hiện trong vô vàn cỏ cây, vật giới quanh ta. Tất cả tạo nên một không khí huyễn hoặc vừa đậm đặc, vừa bàng bạc bao phủ lên câu chuyện: Cá Bơn, Dã Nhân. Thế giới nhân vật huyễn hoặc có khi xuất hiện dưới dạng hồn ma, tiền kiếp, hậu kiếp, sự tái sinh của linh hồn chết… và càng được làm dầy thêm bởi sự chồng chéo tầng tầng lớp lớp các kiếp, các giới trên cùng một trục không – thời gian. 3.1.3. Nhân vật thế tục hóa Đại bộ phận TTLS trước 1986 đi theo cảm hứng chiêm bái, ngưỡng vọng, ngợi ca. Con người chủ yếu được nhìn nhận nguyên phiến, đơn chiều, phần nào tô điểm cho “ngôi đền lịch sử” trong mối quan hệ bất khả xâm phạm với các vấn đề thế sự - đời tư. Tuy nhiên, khi cái nhìn của nhà văn có sự chuyển biến từ tư duy sử thi sang tư duy tiểu thuyết, từ cảm hứng lịch sử dân tộc sang cảm hứng thế sự - đời tư, con người trong tiểu thuyết là con người thế sự, con người cá thể với những khát vọng và dục vọng, con người như những thân phận trong xã hội. 12 3.1.3.1. Nhân vật dục vọng, bản năng TTLS giai đoạn mười năm đầu thế kỉ XXI với việc tiếp cận ngày càng sâu sắc với những kĩ thuật tiểu thuyết hiện đại, càng trở nên đa dạng hơn trong cách xây dựng nhân vật. Các nhân vật trong Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân Khánh), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Hội thề (Nguyễn Quang Thân), Nguyễn Thị Lộ (Hà Văn Thùy), Bí mật hậu cung (Bùi Anh Tấn), Thế kỉ bị mất (Phạm Ngọc Cảnh Nam),… ngày càng được khám phá và thể hiện ở góc độ tâm lý, tính cách với cái nhìn đầy nhân bản. Tình yêu trong TTLS giai đoạn trước đây được đưa vào trong tác phẩm như “một tiêu chuẩn nhằm thử thách tinh thần ý chí nghị lực và đạo đức của những con người anh hùng.”[83, 125]. Chẳng hạn, tình yêu giữa Đặng Thị Huệ với Tĩnh Đô Vương trong Bà chúa Chè, tình yêu giữa An Tư với Trần Thông trong An Tư, tình yêu giữa Trần Nguyên công chúa với Phạm Ngũ Lão trong Trần Nguyên chiến kỷ, tình yêu giữa Quỳnh Dao và Bảo Kim trong Đêm hội Long Trì, giữa Bích Hà với Phùng Chính trong Lê Đại Hành,… Trong cái nhìn truyền thống, tình yêu và tính dục luôn bị chế ngự bởi các thiết chế văn hóa –xã hội, quan niệm hà khắc, kìm hãm bản năng sống của con người. Tuy nhiên, tình yêu trong cái nhìn của các nhà TTLS đương đại đầy nhân bản khi gắn liền tình yêu và tính dục, là sự hòa quyện, kết nối giữa thể xác với tâm hồn. Bằng cách khám phá khát vọng bản năng tính dục của con người một cách thành thực, đôi khi trần trụi, một số tác phẩm của Võ Thị Hảo, Nguyễn Xuân Khánh, Nam Dao, Phạm Ngọc Cảnh Nam, Hà Văn Thùy đã mang đến cái nhìn chân thực về những phần khuất lấp của con người trong quá khứ. 3.1.3.2. Nhân vật bi kịch Nhân vật bi kịch được các nhà văn miêu tả từ điểm nhìn bên trong để nhận ra sự giằng xé nội tâm và thông qua nhân vật, giúp người đọc nhận ra những bi kịch lịch sử và tâm lý của con người trong một giai đoạn lịch sử cụ thể nào đó. Họ có thể là nạn nhân do sự lựa chọn của lịch sử: Lý Chiêu Hoàng, Trần Cảnh, Nghệ Tông, Nguyên Trừng, Nguyễn Trãi,…; họ cũng có thể là nạn nhân của tham vọng quyền lực: Thượng Dương thái hậu, Lý Huệ tông, Hồ Quý Ly,…; và người phụ nữ chính là nạn nhân đáng thương nhất trong những cơn bão thời đại ấy: Lý Chiêu Hoàng, Huyền Trân, Nhuệ Anh, Ngạn La, Huy Ninh, Quỳnh Hoa, Thanh Mai, Nguyễn Thị Lộ, Bạch Dung, Mùi, Ba Váy, Lụa, … TTLS giai đoạn trước 1986 viết về người phụ nữ thường đề cập về nỗi xót xa của họ trên bình diện cái ta chung của dân tộc: nỗi nhục mất nước, nỗi đau mất chồng vì chiến tranh (Đặng Thị trong Trần Nguyên chiến kỷ, Lan Anh trong Ai lên Phố Cát), khát vọng được cống hiến cho đất nước (Chí trong Trùng Quang tâm sử, Triệu Thị Trinh trong Vua Bà Triệu Ẩu, Tiết Thị Huệ trong Tiếng sấm đêm đông, Ngọc Nương trong Việt Thanh chiến sử, An Tư trong An Tư…). TTLS giai đoạn này cũng 13 đi vào khai thác đời tư của nhân vật ở góc nhìn nữ giới để nhận ra khát vọng bản năng và nhu cầu giải phóng bản thể như Đặng Thị Huệ (Bà chúa Chè), Dương Hậu (Cái hột mận),… nhưng chưa sâu sắc và toàn diện. TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI đậm chất thế sự và mang tính nhân văn hơn khi khắc họa những hình tượng người phụ nữ từ nhiều điểm nhìn khác nhau, đặc biệt, trong đó tâm lý của nhân vật được khai thác tối đa để nhận ra những tiếng kêu của thân phận. Ám ảnh người đọc sâu sắc là số phận những người phụ nữ trong cuộc sống vương giả nhưng bất hạnh như Huy Ninh, Quỳnh Hoa (Hồ Quý Ly – Nguyễn Xuân Khánh), Lý Chiêu Hoàng, Ỷ Lan, Dương hoàng hậu (Tám triều vua Lý – Hoàng Quốc Hải), Huyền Trân (Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng – Bùi Anh Tấn, Huyền Trân – Nguyễn Hữu Nam), Ngọc Vạn (Công nữ Ngọc Vạn – Ngô Viết Trọng),… hay những thường dân thấp hèn như Ngạn La (Giàn thiêu – Võ Thị Hảo), Mùi, Ba Váy (Mẫu Thượng Ngàn – Nguyễn Xuân Khánh), Bạch Dung (Đàn đáy – Trần Thu Hằng), Rêu (Đội gạo lên chùa – Nguyễn Xuân Khánh), Lụa (Thế kỉ bị mất – Phạm Ngọc Cảnh Nam), Ngọc Lâm, Tư Trà, Lộc (Minh sư – Thái Bá Lợi), Tạ Thuần Khanh, nàng Mỵ Ê, Tuất (Tám triều vua Lý – Hoàng Quốc Hải)… 3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật 3.2.1. Khắc họa chân dung nhân vật 3.2.1.1. Khắc họa nhân vật qua ngoại diện Sau 1986, đặc biệt những năm đầu thế kỉ XXI, các nhà TTLS vẫn chú trọng miêu tả ngoại diện của nhân vật nhưng trên cơ sở cách tân nguyên tắc xây dựng nhân vật nhằm làm mới nhân vật, giúp độc giả cùng khám phá tính cách, lý giải số phận nhân vật đồng thời cùng đối thoại với lịch sử. 3.2.1.2. Khắc họa nhân vật qua hành động Nhân vật trong TTLS đương đại thể hiện mình thông qua hành động, tuy nhiên, hành động của họ luôn gắn liền với quá trình đấu tranh tâm lý, những suy tư, trăn trở và dằn vặt để giải quyết mâu thuẫn trong hiện thực lịch sử đầy ngổn ngang, biến động. 3.2.2. Khắc họa tâm lý nhân vật 3.2.2.1. Khắc họa tâm lý nhân vật qua vô thức Vận dụng tâm lý học hiện đại, một số nhà văn đã đi theo hướng thăm dò vô thức để khám phá thế giới nội tâm đầy bí ẩn của con người: Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Hội thề (Nguyễn Quang Thân), Đất trời (Nam Dao), Đàn đáy (Trần Thu Hằng), Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân Khánh), Nguyễn Thị Lộ (Hà Văn Thùy), Thế kỉ bị mất (Phạm Ngọc Cảnh Nam), Nguyễn Du (Nguyễn Thế Quang), Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng, Bí mật hậu cung (Bùi Anh Tấn),… 14 3.2.2.2. Khắc họa tâm lý nhân vật qua đối thoại và độc thoại nội tâm Nếu trong TTLS giai đoạn 1900 – 1945, các nhà viết TTLS ý thức cách tân bút pháp truyền thống khi sử dụng đối thoại như: đối thoại giữa Từ Mục và Lê Hoàn trong Lê Đại Hành, đối thoại giữa Hồ Lửa và Thi Sách trong Hai Bà đánh giặc, Tiết Thị Huệ và Thủ Kim trong Tiếng sấm đêm đông,…, song hình thức này vẫn còn đơn giản, đối thoại giữa các nhân vật thực hiện chức năng tạo kịch tính, bộc lộ tính cách nhân vật, bộc lộ chủ đề của truyện. Tuy nhiên, trong TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI các nhà văn không chỉ đặt nhân vật trong những cuộc đối thoại giữa nhân vật này với nhân vật kia, với những tình huống gay go, căng thẳng không chỉ tạo điều kiện để nhân vật có cơ hội tự bộc lộ mình, thể hiện mình, mà còn ẩn ngầm trong văn bản sự đối thoại các tư tưởng, quan điểm, đối thoại của các nền văn hóa, đối thoại giữa hiện tại và quá khứ: đối thoại giữa Nguyễn Hoàng với hai lính canh trong Minh sư, đối thoại giữa Nguyễn Du với Gia Long trong Nguyễn Du, đối thoại giữa Ỷ Lan và Lý Đạo Thành trong Con đường định mệnh,… TTLS giai đoạn trước đây đã có ý thức vận dụng thủ pháp độc đáo độc thoại nội tâm trong việc khắc họa tâm lý nhân vật nhưng không nhiều và chưa tạo được hiệu ứng thẩm mĩ, tuy nhiên, TTLS giai đoạn mười năm đầu thế kỉ XXI, sự thay đổi tư duy thể loại đã kéo theo sự thay đổi phương thức kiến tạo nên lớp diễn ngôn lịch sử mới. Lúc này, nhân vật được soi chiếu từ nhiều giác độ diễn ngôn, trong đó độc thoại nội tâm và kĩ thuật dòng ý thức phát huy được hiệu quả tích cực trong việc khám phá “sự thật về tâm hồn con người”. Theo khảo sát TTLS giai đoạn này, hầu hết các tác phẩm đều sử dụng phương thức độc thoại nội tâm, khám phá tầng sâu tâm lý nhân vật: Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân Khánh), Hội thề (Nguyễn Quang Thân), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Đàn đáy (Trần Thu Hằng), Tám triều vua Lý (Hoàng Quốc Hải), Thế kỉ bị mất (Phạm Ngọc Cảnh Nam), Oan khuất, Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng, Bí mật hậu cung (Bùi Anh Tấn),… 15 Chương 4 ĐẶC TRƯNG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỈ XXI – NHÌN TỪ PHƯƠNG THỨC TỰ SỰ 4.1. Hình tượng người kể chuyện 4.1.1. Đổi mới hình thức người kể chuyện ngôi thứ ba TTLS trước 1986, chủ yếu tồn tại dạng NKC dị sự, ở ngôi thứ ba. NKC dị sự trong TTLS thực hiện sự trần thuật khách quan, trần thuật từ ngôi thứ ba không nhân vật hóa mà đằng sau là tác giả. Đến những năm sau 2000, NKC ngôi thứ ba vẫn được một số tác giả sáng tác theo xu hướng TTLS chương hồi sử dụng như Ngô Văn Phú, Cư sĩ Yên Tử Trần Đại Sỹ, Vũ Ngọc Đĩnh, Lê Đình Danh, Nguyễn Khắc Phục... Tuy nhiên, đến giai đoạn này, đa phần TTLS đã có sự sáng tạo và sử dụng NKC ngôi thứ ba không toàn tri (bên cạnh NKC toàn tri). Trong những tác phẩm Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân Khánh), Hội thề (Nguyễn Quang Thân), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Đàn đáy (Trần Thu Hằng), Minh sư (Thái Bá Lợi), Nguyễn Du (Nguyễn Thế Quang), Bí mật hậu cung (Bùi Anh Tấn), Huyền Trân (Nguyễn Hữu Nam), Tám triều vua Lý (Hoàng Quốc Hải),… chức năng của NKC không chỉ tái hiện bức tranh toàn cảnh về một giai đoạn lịch sử đầy biến động trên “bề mặt của các sự kiện, biến cố” mà còn bồi đắp hiện thực lịch sử thông qua những câu chuyện về cuộc đời và sự nghiệp của nhân vật, những chân dung, những số phận cùng những tấn bi kịch trong vòng xoáy của lịch sử như những “nỗ lực chiếm lĩnh, luận giải lịch sử” theo cảm quan mới của con người hiện đại.. 4.1.2. Đổi mới hình thức người kể chuyện ngôi thứ nhất Mặc dù, hình thức NKC này vẫn chiếm dung lượng rất ít trong TTLS đương đại (10% dung lượng tiểu thuyết), tuy nhiên, với tư cách là “cái tôi chứng nhân”, quan sát, NKC cũng đã mang lại những hiệu ứng thẩm mĩ thú vị cho người đọc: Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn (Nguyễn Xuân Khánh), Oan khuất, Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng (Bùi Anh Tấn), Thế kỉ bị mất (Phan Ngọc Cảnh Nam). Với cái tôi của nhân vật tự thuật (Hồ Nguyên Trừng - Hồ Quý Ly, bà ba Váy - Mẫu Thượng ngàn, Nguyễn Trãi - Oan khuất, Trần Thái Tông, Trần Thủ Độ, Trần Tung, Bảo Sát thiền sư, Trần Nhân Tông - Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng, Cả Hinh - Thế kỉ bị mất). Tự sự đa chủ thể là một thể nghiệm mới trong hình thức kể chuyện của TTLS đương đại. Theo khảo sát TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI, chúng tôi nhận thấy Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng của Bùi Anh 16 Tấn mang hình thức tự sự đa chủ thể, với 5 NKC xưng “tôi”, bên cạnh NKC ngôi thứ ba (NKC 1): Trần Thái Tông (NKC 2), Trần Thủ Độ (NKC 3), Trần Tung (NKC 4), Thiền sư Bảo Sát (NKC 5), Thượng hoàng Trần Nhân Tông (NKC 6). Thông qua sáu hình thức NKC này, lịch sử nhà Trần được phục dựng trong vẹn nguyên: từ khi Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh đến khi cuộc chiến khốc liệt kháng chiến chống quân Nguyên Mông của vua nhà Trần kết thúc. Đan xen trong câu chuyện dựng nước và giữ nước là những phần khuất lấp trong cuộc đời nhân vật lịch sử được sáu NKC đặt lại, luận bàn và lý giải một cách thấu đáo. 4.2. Điểm nhìn trần thuật 4.2.1. Điểm nhìn bên ngoài Điểm nhìn bên ngoài của NKC ngôi thứ ba được phần lớn các tác giả TTLS trước 1986 sử dụng như: Sống mãi với thủ đô, Lá cờ thêu sáu chữ vàng (Nguyễn Huy Tưởng), Quận He khởi nghĩa, Tổ quốc kêu gọi (Hà Ân), Cờ nghĩa Ba Đình (Thái Vũ), Bóng nước Hồ Gươm (Chu Thiên), Núi rừng Yên Thế (Nguyên Hồng),… Với điểm nhìn này, NKC có khả năng bao quát toàn bộ sự kiện, nhân vật lịch sử mà không có sự tham gia của nhân vật, làm hạn chế khả năng khám phá thế giới nội tâm của con người. Đến những năm đầu thế kỉ XXI, TTLS vẫn tiếp tục phát huy vai trò của NKC ngôi thứ ba, do đó điểm nhìn của NKC ngôi thứ ba (điểm nhìn bên ngoài) vẫn chiếm ưu thế, đặc biệt trong những tác phẩm thuộc dạng thức kết cấu theo lối chương hồi. Điểm nhìn bên ngoài toàn tri, giúp NKC trong tác phẩm của Vũ Ngọc Đĩnh, Lê Đình Danh, Hàn Thế Dũng, Nguyễn Khắc Phục, Hoàng Quốc Hải,… tái hiện hiện thực lịch sử rộng lớn của một giai đoạn, một thời kỳ hay cả một triều đại lịch sử; những bức tranh đời sống xã hội được tái hiện chân thực, sinh động qua điểm nhìn này. Bên cạnh đó, điểm nhìn bên ngoài trong TTLS giai đoạn này đã có sự đổi mới ở chức năng và cách thức tổ chức trên nguyên tắc luận giải, phân tích lịch sử nhằm chuyển tải được tư tưởng nghệ thuật của nhà văn về lịch sử và con người. Đó là những suy tư về vận mệnh quốc gia dân tộc trong những cuộc chiến chống giặc ngoại xâm (Nam quốc sơn hà, Anh hùng Bắc Cương, Anh hùng Tiêu Sơn (Trần Đại Sỹ), Bà Triệu, Lê Lợi (Hàn Thế Dũng); là những chiêm nghiệm về sự thay đổi triều đại (Hồ Quý Ly – Nguyễn Xuân Khánh, Đàm đạo về Điều ngự Giác Hoàng – Bùi Anh Tấn, Hoàng hậu hai triều Dương Vân Nga (Hoàng Công Khanh); là vấn đề thân phận con người (Đàn đáy – Trần Thu Hằng, Oan khuất – Bùi Anh Tấn, Nguyễn Du – Nguyễn Thế Quang, 17 Huyền Trân–Nguyễn Hữu Nam); là những trăn trở về văn hóa, lịch sử (Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa – Nguyễn Xuân Khánh, Thế kỉ bị mất – Phạm Ngọc Cảnh Nam); là những chiêm nghiệm về vấn đề mở mang bờ cõi (Huyền Trân – Phạm Hữu Nam, Minh sư – Thái Bá Lợi, Công nữ Ngọc Vạn – Ngô Viết Trọng),… 4.2.2. Điểm nhìn bên trong Điểm nhìn bên trong xuất hiện trong những tác phẩm sử dụng NKC ngôi thứ nhất như Oan khuất của Bùi Anh Tấn (điểm nhìn của Nguyễn Trãi trước đêm bị xử trảm), hay những tác phẩm có sự đan xen giữa NKC ngôi thứ ba và NKC ngôi thứ nhất như Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh (điểm nhìn của Hồ Quý Ly, Hồ Nguyên Trừng, Ba Váy), Thế kỉ bị mất của Phạm Ngọc Cảnh Nam (điểm nhìn của Cả Hinh), Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng của Bùi Anh Tấn (điểm nhìn của Trần Thái Tông, Trần Thủ Độ, Trần Tung, Trần Nhân Tông…), hay những tác phẩm sử dụng NKC ngôi thứ ba nhưng điểm nhìn được trao cho nhân vật như Hội thề của Nguyễn Quang Thân (Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Nguyễn Thị Lộ), Tám triều vua Lý của Hoàng Quốc Hải (Lý Công Uẩn, Lý Thái Tông, Lý Thường Kiệt…), Giàn thiêu của Võ Thị Hảo (Từ Lộ, Từ Đạo Hạnh, Nhuệ Anh), Bí mật hậu cung của Bùi Anh Tấn (Lý Thường Kiệt, Lý Nhật Tôn), Nguyễn Du của Nguyễn Thế Quang (Nguyễn Du, Gia Long),… 4.2.3. Sự đa dạng hóa điểm nhìn trần thuật Cùng với sự chuyển đổi điểm nhìn của NKC và nhân vật là sự chuyển đổi điểm nhìn từ bên ngoài vào bên trong và ngược lại. Chúng ta thấy rằng, ở Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa, Giàn thiêu, Hội thề, Thế kỉ bị mất, Nguyễn Du, Tám triều vua Lý, Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng, Bí mật hậu cung,…nhiều phân cảnh đang là điểm nhìn bên ngoài thì ngay sau đó được thay thế bằng điểm nhìn bên trong. Thậm chí nhờ sự luân chuyển điểm nhìn tài tình mà có những lúc độc giả có cảm nhận rằng có sự xóa nhòa ranh giới giữa điểm nhìn bên ngoài và điểm nhìn bên trong của NKC hàm ẩn. 4.3. Diễn ngôn trần thuật 4.3.1. Diễn ngôn của người kể chuyện 4.3.1.1. Diễn ngôn kể TTLS trước 1986 phần lớn sử dụng hình thức NKC ngôi thứ ba với cái nhìn toàn tri, khả năng bao quát hiện thực rộng lớn của lời kể luôn chiếm ưu thế. Hơn nữa, diễn ngôn lịch sử bị chi phối bởi cảm quan sử thi, cảm hứng ngợi ca, khẳng định niềm tự hào về quốc gia, dân tộc, do đó, diễn ngôn trong TTLS giai đoạn này phần lớn theo khuôn mẫu định sẵn, đồng nhất ít đổi mới. Tuy nhiên, tinh thần tân lịch sử đã giúp các 18 nhà văn đương đại xây dựng nhiều lớp diễn ngôn mới về lịch sử theo hướng đối thoại, luận giải gắn liền cảm hứng thế sự - đời tư. Diễn ngôn kể của NKC không chỉ tái hiện bức tranh lịch sử của các triều đại (Lý, Trần, Lê, Nguyễn) mà còn đi vào những thân phận người trong sự va xiết của dòng xoay lịch sử. Diễn ngôn giai đoạn này thường chú ý đến những bi kịch của vua chúa, quan lại (Tám triều vua Lý, Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng, Hồ Quý Ly, Thăng Long ký); nỗi cô đơn, lạc loài của người trí thức (Hội thề, Đất trời, Nguyễn Du, Oan khuất, Vằng vặc sao khuê); số phận đáng thương của những người phụ nữ (Đàn đáy, Sắc đẹp khuynh thành, Mẫu Thượng Ngàn, Giàn thiêu); những nạn nhân của chiến tranh, những phận đời bất hạnh,… Đặc biệt, trong một số tác phẩm, diễn ngôn kể của NKC được chuyển hóa vào điểm nhìn bên trong của nhân vật (Hồ Nguyên Trừng trong Hồ Quý Ly, Ba Váy trong Mẫu Thượng Ngàn, Từ Lộ trong Giàn thiêu, Cả Hinh trong Thế kỉ bị mất, Nguyễn Trãi trong Oan khuất, Nguyễn Du trong Nguyễn Du,…) để nhân vật có thể tự thể hiện mình, từ đó, người đọc cảm nhận sâu sắc về cuộc đời, tài năng, tính cách, thói quen, sở thích và thậm chí cả lối sống của những nhân vật lịch sử, làm cho nhân vật hiện lên sinh động, đầy đặn và gần gũi hơn với đời sống hiện thực. 4.3.1.2. Diễn ngôn tả Sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh và mang giá trị tạo hình sâu sắc, lời tả của NKC trong TTLS giai đoạn này đã xây dựng nên những bức tranh sinh động về thiên nhiên, đời sống cung đình đến những làng quê, thôn ấp, những không gian văn hóa – lịch sử, những hội hè, đình đám cùng những cảnh sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng. Sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh và mang giá trị tạo hình sâu sắc, lời tả của người kể chuyện trong TTLS đã xây dựng nên những bức chân dung sinh động về các nhân vật lịch sử, đặc biệt là hệ thống nhân vật nữ. Trong các tác phẩm Mẫu Thượng Ngàn, Giàn thiêu, Đất trời, Nguyễn Thị Lộ, … các tác gia không ngần ngại miêu tả những bộ phận nhạy cảm trên cơ thể người phụ nữ như đôi vú, làn da, mông, đùi,… nhằm thể hiện vẻ đẹp mềm mại, gợi tình, giàu nữ tính. Lời tả trong TTLS giai đoạn này giàu sắc thái biểu cảm thông qua các biểu tượng nghệ thuật: Lửa, Nước, Máu, Trăng, Đá,… 4.3.1.3. Diễn ngôn bình luận Trong TTLS Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI, chúng tôi nhận thấy lời bình của NKC thường mang những triết lý, suy nghiệm về những vấn đề lớn lao của nhân sinh, thế cuộc, đặc biệt là sức mạnh quyền lực trong triều đình phong kiến. NKC trong TTLS đương đại còn đặt ra những vấn đề về văn hóa – lịch sử nhằm luận giải và kiếm tìm những giá trị vĩnh hằng của văn hóa dân tộc. Những luận bàn của NKC trong Mẫu Thượng Ngàn về sức mạnh của Đạo Mẫu trong việc chở che, hóa giải và cứu rỗi những linh 19 hồn đang dần bị lụi tàn bởi văn hóa ngoại lai; hoặc là những trăn trở, suy tư của một người Trung Hoa về sự kỳ lạ, bí ẩn của nền văn hóa bản địa; những giá trị văn hóa Phật giáo đang trên đà tha hóa trong Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân Khánh); giá trị của văn hóa Phật giáo trong kiến tạo nhà nước và giáo dục nhân tâm trong Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng (Bùi Anh Tấn). 4.3.2. Diễn ngôn của nhân vật 4.3.2.1. Diễn ngôn đối thoại Nếu diễn ngôn đối thoại trong sáng tác của một số nhà TTLS trước 1986 (Nguyễn Triệu Luật, Nguyễn Tử Siêu, Nguyễn Huy Tưởng, Hà Ân, Thái Vũ,…) còn mang nhiều dấu ấn của câu văn biền ngẫu, mang sắc thái trang trọng, cổ kính thì đến giai đoạn này TTLS đã có sự cách tân đáng kể. Ngôn ngữ thường có sự kết hợp giữa ngôn ngữ quan phương cổ kính và ngôn ngữ của đời sống hiện đại, trong đó, tính đối thoại và tính cá thể hóa của ngôn ngữ nhân vật được biểu hiện qua khả năng lột tả tính cách và đời sống nội tâm của nhân vật. Một trong những đặc trưng nổi bật theo hướng đổi mới trong diễn ngôn đối thoại của TTLS giai đoạn này so với trước đây đó là diễn ngôn mang tính đối thoại cao. Trong nhiều tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Quang Thân, Võ Thị Hảo, Bùi Anh Tấn, Nguyễn Thế Quang, Thái Bá Lợi, Hoàng Quốc Hải, Phạm Ngọc Cảnh Nam,… nhân vật thực hiện cuộc thoại theo hướng đối thoại, luận giải về văn hóa, tư tưởng, triết học, tôn giáo… 4.3.2.2. Diễn ngôn độc thoại Nếu như trong TTLS trong những giai đoạn trước đây diễn ngôn độc thoại ít xuất hiện hoặc xuất hiện với hình thức giản đơn, đến giai đoạn này xuất hiện dày đặc hơn thật sự đã mang lại những tín hiệu thẩm mĩ mới. Một số nhà văn đã tận dụng triệt để chức năng của độc thoại nội tâm và dòng ý thức của nhân vật như Nguyễn Xuân Khánh, Võ Thị Hảo, Nguyễn Quang Thân, Phạm Ngọc Cảnh Nam, Bùi Anh Tấn,… khám phá những phần khuất lấp, phơi bày những góc tối, giúp độc giả nhận thức lại chiều sâu tâm lý con người trong quá khứ. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất