Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn...

Tài liệu đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn

.PDF
44
1643
143

Mô tả:

ĐẶC TRƯNG CỦA CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Chủ nghĩa lãng mạn là một hiện tượng văn học quan trọng nhất của thế kỷ XIX ở phương Tây, đồng thời đây cũng là một trào lưu lớn của văn học Việt Nam từ 1932 – 1945, có ý nghĩa tích cực thúc đẩy nền văn học nước nhà phát triển theo hướng hiện đại. Vì vậy tìm hiểu đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn chúng ta đã có trong tay chìa khóa để mở ra thế giới muôn màu sắc của văn chương nhân loại và văn học Việt Nam. Đặc biệt, với đề tài này người viết sẽ có điều kiện đối chiếu văn học lãng mạn Việt Nam và phương Tây để thẩm thấu được bản sắc riêng của văn học mỗi dân tộc. Qua thực tế giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THPT, chúng tôi thấy một nhược điểm phổ biến là học sinh chỉ nắm được từng tác phẩm cụ thể, mà chưa có cái nhìn tổng thể hay kiến thức lý luận khái quát về đặc trưng thể loại, hay đặc trưng của trào lưu, phương pháp sáng tác…Vì vậy khi tìm hiểu đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn, giáo viên sẽ giúp học sinh có được kim chỉ nam để đọc hiểu được mọi tác phẩm lãng mạn một cách khoa học. Hơn nữa, các tác phẩm văn học lãng mạn (thơ lãng mạn và văn xuôi lãng mạn) là một trong những trọng tâm kiến thức để ôn thi đại học, thi học sinh giỏi các cấp… Vì vậy nghiên cứu về đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn có ý nghĩa thiết thực với giáo viên và học sinh cả trong quá trình dạy và học. Từ những lí do trên, chúng tôi thấy việc tìm hiểu đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn có ý nghĩa quan thiết. 2. Lịch sử vấn đề Đã có rất nhiều công trình lí luận, phê bình văn học bàn về đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn như: Lý luận văn học (Phương Lựu chủ biên, NXB Giáo dục, HN. 2002), Văn học phương Tây (Đặng Anh Đào cùng các tác giả khác, NXB Giáo dục, H.2002); Văn học Việt Nam 1900 – 1945 (Phan Cự Đệ cùng các tác giả khác, NXB Giáo dục, H.2003), Thi nhân Việt Nam (Hoài Thanh – Hoài Chân, NXB Văn học, H.1999),… Đó là những tài liệu quý giá, gợi ý trực tiếp cho chúng tôi thực hiện đề tài này. 3. Phạm vi vấn đề Chủ nghĩa lãng mạn phát triển nở rộ nhất ở Pháp - "nền văn học chủ đạo của châu Âu" (M.Gorki). Vì vậy, khi thực hiện chuyên đề này, chúng tôi chỉ khảo sát trực tiếp những tác phẩm văn học lãng mạn Pháp, mà chủ soái là V.Huy-gô; những tác phẩm văn học lãng mạn Việt Nam, trọng tâm là thơ Mới (đặc biệt là những thi phẩm của các tác giả được học trong chương trình như: Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Thâm Tâm, Nguyễn Bính,…) và văn xuôi lãng mạn (tiêu biểu là Thạch Lam và Nguyễn Tuân…) 4. Mục đích nghiên cứu Là một giáo viên dạy văn cấp THPT, tìm hiểu đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn, cũng là một cách người viết tự học, tự nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Hơn nữa, chúng tôi mong muốn qua đề tài này sẽ giúp học sinh tìm được một con đường đi hiệu quả, để khám phá thế giới nghệ thuật phong phú trong những tác phẩm văn học lãng mạn đặc sắc. Đồng thời, đây cũng là cơ hội để người viết được trao đổi với đồng nghiệp về phương pháp sáng tác của một chủ nghĩa lớn trong văn học. 5. Phương pháp nghiên cứu Phân tích bình giảng Thống kê phân loại So sánh đối chiếu 1 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Chương 1: Khái quát chung về văn học lãng mạn Đây là một trong những trào lưu văn hóa lớn nhất ở Âu – Mĩ vào cuối thế kỉ XVIII, nửa đầu thế kỉ XIX, có ảnh hưởng và có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển của văn học toàn thế giới. 1. Cơ sở hình thành 1.1. Cơ sở xã hội Thời đại của chủ nghĩa lãng mạn là một thời đại đặc biệt giàu biến động (riêng nước Pháp, một trung tâm quan trọng của nền văn học châu Âu, vào đầu thế kỉ đã trả qua hai mươi lăm năm liền cách mạng và chiến tranh liên tiếp). Cuộc đại cách mạng tư sản năm 1789 đánh đổ chế độ phong kiến, thiết lập chế độ tư sản là một bước ngoặt lịch sử vĩ đại, không những đối với nước Pháp, mà còn đối với cả châu Âu. “Cả thế kỉ XIX diễn ra dưới khẩu hiệu của cách mạng Pháp ” (Lê Nin). Sự sụp đổ của chế độ phong kiến, và sự kiến tạo những quan hệ xã hội mới đã tác động sâu xa đến tư tưởng, tình cảm của mọi tầng lớp xã hội. Một mặt, cách mạng tư sản đã làm dấy lên sự bất mãn của những người đại biểu cho ý thức hệ quý tộc, bất bình trước trật tự xã hội mới, lo sợ trước phong trào quần chúng, hoang mang dao động vì tương lai mờ mịt, luyến tiếc thời oanh liệt nay không còn nữa. Mặt khác, xã hội tư bản ra đời cũng vấp phải sự chống đối của nhiều tầng lớp nhân dân lao động. Không phải họ chống lại lý tưởng của cách mạng, mà chỉ bất bình với những thành quả thực tế của cách mạng. Cách mạng tư sản đã giương cao khẩu hiệu đem lại “tự do – bình đẳng – bác ái” cho con người. Nhưng khi giai cấp tư sản trở thành ông chủ của xã hội mới, họ đã quy định lại nội hàm của những khái niệm này: Ai có tiền người ấy có tự do; không có tiền phải bán sức lao động. Xã hội trở thành một đấu trường khốc liệt, nơi diễn ra những cảnh cá lớn nuốt cá bé. Thương trường là đấu trường, quan hệ giữa người với người là quan hệ tiền nong sòng 2 phẳng đến ghê rợn. “Phương châm bác ái được thực hiện bằng những sự lừa bịp và đố kị trong cạnh tranh… Thay cho thanh kiếm, đồng tiền đã trở nên đòn bẩy quan trọng nhất của xã hội” (Ăngghen). Tâm lý thời đại dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa lãng mạn là sự vỡ mộng của nhiều tầng lớp nhân dân trước cơ chế xã hội mới. Nếu như chủ nghĩa hiện thực nhìn thẳng vào thực tại với thái độ phê phán; văn học cách mạng nhìn vào thực tại với mong muốn cải tạo thế giới; thì chủ nghĩa lãng mạn khi không bằng lòng với thực tại, đã khát khao vươn tới một xã hội lý tưởng trong mơ ước. Tóm lại: Sự sụp đổ của thể chế phong kiến, sự thắng lợi của quan hệ xã hội tư sản và lòng bất bình của nhiều tầng lớp, giai cấp đối với trật tự xã hội mới là tiền đề lịch sử của nền văn học lãng mạn châu Âu. Pha-ghê, một nhà nghiên cứu văn học Pháp đã viết rằng: “Cơ sở của chủ nghĩa lãng mạn là sự ghê tởm đối với thực tại và nguyện vọng mãnh liệt muốn thoát ra khỏi thực tại đó.” 1.2. Cơ sở ý thức Chủ nghĩa lãng mạn ra đời còn do sự tác động của chủ nghĩa xã hội không tưởng, mơ ước mang đến một tương lai hạnh phúc, tốt đẹp cho con người. Thêm vào đó, triết học duy tâm cổ điển Đức cũng có mối liên hệ mật thiết với sự ra đời của chủ nghĩa lãng mạn, ngay cả với chủ nghĩa lãng mạn Pháp. Bởi vì như Mác và Ăngghen đã nói, trong thời đại tư bản “khi mà những mối quan hệ phổ biến đối với nhau giữa các dân tộc đang phát triển, thay thế cho tình trạng cô lập trước kia giữa các dân tộc vẫn tự cung tự cấp” thì “những thành quả tinh thần của một dân tộc trở thành tài sản chung của tất cả các dân tộc” (Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản). Sự thực thì chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức, tự bản thân nó cũng là một trào lưu lãng mạn trong triết học. Đặc biệt chủ nghĩa duy tâm chủ quan của Căng đã nâng tâm linh con người lên địa vị làm chủ sáng tạo thế giới, nhấn mạnh thiên tài, linh cảm, tính năng động chủ quan. Chủ nghĩa duy tâm khách quan của Hêghen lại khẳng định con người là tuyệt đối vô hạn, là đỉnh cao của sự phát triển của tinh thần thế giới. Gớt lại rất nhấn mạnh đặc trưng của cá tính… Những quan điểm triết học và mĩ học đề cao con người này đã phản ánh sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa cá nhân trong xã hội tư sản cận đại. Mặt tích cực của nó là nâng cao sự tôn 3 nghiêm, khẳng định ý thức tự chủ ở con người. Tuy vậy, triết học và mĩ học duy tâm cổ điển Đức lại đề cao con người tách khỏi thực tế xã hội và lịch sử. Những tư tưởng triết học ấy có ảnh hưởng nhất định tới các nhà văn lãng mạn tích cực và tiêu cực. Trong bối cảnh đó đã xuất hiện nhiều khuynh hướng, nhiều trào lưu nghệ thuật, trong đó có chủ nghĩa lãng mạn, có mặt trong lĩnh vực văn chương, hội họa, âm nhạc... 2. Giới thuyết về khái niệm: chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Từ lãng mạn (romanticism, romantisme) xuất phát từ tình ca (romances) của thời trung cổ, để chỉ những bài thơ dài nói về những chàng kỵ sĩ, những anh hùng, về những vùng đất xa xôi và những cuộc tình lỡ làng.... Biêlinxki trong bài Văn học Nga, năm 1841, định nghĩa: "Chủ nghĩa lãng mạn, đó là thế giới nội tâm của con người, thế giới của tâm hồn và trái tim". Chủ nghĩa lãng mạn xuất hiện vào cuối thế kỉ XVIII, nghĩa ban đầu là những cái không có thực, chỉ tồn tại trong sách vở, trong trí tưởng tượng. Sang thế kỷ XIX, chủ nghĩa lãng mạn không chỉ dừng lại ở đó, mà trở thành thế giới quan của thời đại: cách nhìn, cách đánh giá, thẩm định thế giới. Đó là sự phản ứng mang tính tích cực chống lại sự thống trị của tư sản. Chủ nghĩa lãng mạn là tiếng nói của những con người có văn hóa, có lương tri, của những trí thức tiến bộ. Họ căm ghét sự thống trị tư sản, vì giai cấp tư sản đã biến những lời hứa tốt đẹp của những nhà triết học ánh sáng thành những bức tranh châm biếm, biến xã hội mơ ước thành hiện thực đau thương, đẫm máu. Chủ nghĩa lãng mạn như là sự tiếp nối của chủ nghĩa tình cảm. Đặc biệt là Rút-xô, thể hiện tình yêu thương con người một cách hào hiệp. Nên các nhà văn lãng mạn đã thể hiện thái độ chống lại thực tại tư sản, tạo ra một xã hội mới, tìm lối thoát cho nhân loại bằng cách: Tìm về với quá khứ, với ánh hào quang của xã hội nguyên thủy, với những đấng mình quân của xã hội phong kiến; hoặc tìm đến một tương lai mới, mà ở đó chưa có giai cấp tư sản. Tuy nhiên cả hai lối thoát này đều không có thực. Chủ nghĩa lãng mạn đã trở thành thế giới quan của châu Âu, đem đến một luồng sinh khí, tạo nên sức mạnh cho nhân loại. 4 Chương 2: Những nguyên tắc mĩ học của chủ nghĩa lãng mạn 1. Đề cao tình cảm của cá nhân con người “Văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm, mà tâm điểm là con người” (Nguyễn Minh Châu). Văn học là hình thái ý thức xã hội luôn phản ánh tồn tại xã hội, mà trung tâm là hình tượng con người. Con người trong xã hội tư bản bị o ép, bị bóc lột trên mọi phương diện, họ chìm trong đau khổ và không tìm thấy cứu cánh cho cuộc đời. Vì vậy, họ đã chạy trốn thực tại, rúc sâu vào trong tâm hồn, trong bản ngã, tìm về cái tôi của mình và sống với thế giới tâm hồn riêng. Con người đã phát hiện ra thế giới tâm hồn của mình vô cùng phong phú đa dạng như cây đàn muôn điệu, và thể hiện nó một cách ám ảnh và xúc động trên trang giấy. Nếu như chủ nghĩa hiện thực phản ánh cuộc sống một cách khách quan, thì chủ nghĩa lãng mạn lại phản ánh cuộc sống một cách chủ quan thông qua tình cảm, cảm xúc của người nghệ sỹ. Nhà lãng mạn thời kỳ đầu của Pháp Lamactin đã nói: “Tôi là người đầu tiên làm cho thơ ca rời khỏi núi Pacnatxo (núi thơ). Tôi đã tặng cho nàng thơ không phải là cây đàn Lia bảy dây quy ước, mà là những thớ của con tim đang thổn thức.” Đó là cơ sở cho sự phát triển của một thể loại đặc sắc trong văn học, đó là thơ, đặc biệt là thơ trữ tình. Nếu chủ nghĩa cổ điển đề cao cái ta lỗi thời thì chủ nghĩa lãng mạn đề cao cái tôi cá nhân. Con người có điều kiện bộc lộ vẻ đẹp của riêng mình. Đó chính là một hình thức đề cao con người. Nhưng cái tôi ở đây không phải là cá nhân riêng tư của một người nào, mà là tiếng lòng của cả một thời đại. Cái tôi mang một phẩm chất mới, cái tôi cộng đồng, tập thể. Bởi vậy, tiếng nói của trái tim mới đến được với trái tim và văn học lãng mạn đã trở thành món ăn tinh thần của cả thời đại. V. Huy-gô đã nói: “Ôi, con người khờ khạo. Anh không biết rằng tôi đang nói về tôi, chính là đang nói về anh đó”. Ở Việt Nam những năm 1932 – 1945 đã diễn ra một cuộc cách mạng trong 5 thi ca, với sự xuất hiện của phong trào thơ Mới lãng mạn. Thơ Mới được hiểu là thơ đổi mới cả về nội dung lẫn hình thức. Nội dung đổi mới bao gồm: đổi mới cả tư duy và thi pháp thơ. Thơ Mới là thơ của cái tôi cá nhân cá thể, lần đầu tiên xuất hiện trên thi đàn Việt Nam. Cái tôi có ý thức về sự tồn tại của chính nó. Tinh thần của thơ Mới là ở cái Tôi cá nhân. Thơ Mới đã làm cho cái Tôi bộc lộ hết sức phong phú, hấp dẫn như một bản lĩnh tích cực trong cuộc sống, như một chủ thể sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật. Lần đầu tiên trong lịch sử thi ca Việt Nam, xuất hiện một cái tôi cá thể hóa trong cách cảm thụ tự nhiên và thế giới. Nền văn học trung đại tồn tại và phát triển trong khuôn khổ của ý thức hệ phong kiến chủ yếu là một nền văn học phi ngã. Xã hội phong kiến không chấp nhận con người đề cao cái tôi, đề cao bản ngã. Văn xuôi lãng mạn ra đời đã góp phần đấu tranh đòi giải phóng cá nhân, nhất là giải phóng người phụ nữ ra khỏi sự ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến. Thơ Mới lãng mạn ra đời cũng mang theo một cái tôi cá nhân, một cái tôi cá thể hóa trong cảm thụ thẩm mĩ. Cái tôi trong thơ Mới, ở một chừng mực nào đó, đã nói lên một nhu cầu lớn về mặt giải phóng tình cảm, phát huy bản ngã, tự do cá nhân. Nó làm cho tâm hồn con người được mở rộng, ngày càng phong phú hơn. “Ngày thứ nhất - ai biết đích ngày nào chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó thực bỡ ngỡ. Nó như lạc loài nơi đất khách. Bởi nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này: quan niệm cá nhân” (Hoài Thanh – Thi nhân Việt Nam). Lần đầu tiên trong 13 năm trời xuất hiện nhiều phong cách nghệ thuật độc đáo đến như vậy. Sự giải phóng cái tôi của chủ thể sáng tạo đã làm mở ra một thời kỳ văn học với những bông hoa giàu hương sắc: “Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lúc một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu”. Xuân Diệu – nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ Mới” (Hoài Thanh) luôn khao khát khẳng định cái Tôi. Với Xuân Diệu, sự tồn tại của cái Tôi được đẩy lên 6 với ý nghĩa tuyệt đối của nó. Thơ Xuân Diệu tràn ngập chữ “tôi”, 25/47 bài trong tập “Thơ thơ” xuất hiện chữ tôi (tôi buồn, tôi nhớ, tôi sung sướng, tôi không chờ, tôi là con nai,…). Cái tôi được khai thác, biểu hiện ở nhiều cung bậc tình cảm, nhiều trạng thái cảm xúc. Nhà thơ luôn có nhu cầu bộc bạch, phơi trải lòng mình một cách thành thực nhất, táo bạo nhất: - Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ Mà vạn vật là muôn đá nam châm - Tôi là con chim đến từ núi lạ - Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi ……. Có thể nói sự chân thực, độ nồng nàn của cảm xúc đã tạo nên sức hút riêng, cái duyên riêng của Xuân Diệu đối với bạn trẻ, khiến cho thơ ông được đón nhận một cách nhiệt liệt. Và chính thi sĩ đã tâm sự: “Tôi gửi tâm hồn tôi cho những người trẻ tuổi và nhất là trẻ lòng”. Điều tạo nên cái “mới nhất” của Xuân Diệu so với các nhà thơ mới là Xuân Diệu luôn khẳng định cái tôi trong quan hệ gắn bó với cuộc đời trần thế. Thế Lữ nuôi giấc mộng lên tiên, Lưu Trọng Lư ru người đọc nhập vào thế giới mộng mơ, hư ảo, “cảnh không có ở thời nay mà cũng không có ở thời nào” (Hoài Thanh). Đến Xuân Diệu, thi nhân đã gạt bỏ giấc mộng sầu man mác của Lưu Trọng Lư, những nuối tiếc về một thời oanh liệt của Thế Lữ, Huy Thông, Xuân Diệu say sưa khẳng định cái tôi đứng giữa cuộc đời, Xuân Diệu đã xây lầu thơ “trên đất của một tấm lòng trần gian” (Thế Lữ) bằng những vật liệu thực của trần gian. Xuân Diệu là con người của cuộc đời, một người ở giữa muôn người. Quá trình khẳng định cái tôi của thi sĩ diễn ra song song với quá trình khẳng định ý nghĩa của cuộc sống hiện tại. Nói như Hoài Thanh: “Xuân Diệu đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”. Thi sĩ là người duy nhất tìm được lối thoát cho cái tôi cá nhân giữa cõi trần ai: - Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn 7 Làm dây da quấn quýt cả mình xuân Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất. Những vần thơ rạo rực men say của thi sĩ họ Ngô đã thể hiện được một cách sinh động đặc trưng của văn học lãng mạn. Xuất phát từ khát khao khẳng định cái tôi cá nhân, trong văn học lãng mạn phương Tây xuất hiện cảm hứng ra đi. Và cảm hứng này cũng tràn vào văn học lãng mạn Việt Nam trong các tác phẩm như: “Đoạn tuyệt” (Khái Hưng), “Giây phút chạnh lòng” (Thế Lữ), “Tống biệt hành” của Thâm Tâm… Tuy cùng khai thác về một chủ đề, nhưng những sáng tác về cảm hứng ra đi đã thể hiện rõ cách ứng xử khác nhau của con người phương Đông và phương Tây. Ở phương Tây, ý thức cá nhân được hình thành từ rất sớm, ngay từ khi mới chào đời những em bé đã ngủ riêng giường với cha mẹ, và lớn lên người phương Tây luôn có óc phiêu lưu mạo hiểm, đi để khẳng định cá tính, để khám phá thế giới. Con người không lệ thuộc quá nhiều vào gia đình. Nhưng ngược lại, con người Việt Nam sống trong hai cộng đồng, nhỏ là gia đình, rộng là làng nước. Cái tôi cá nhân của ta chìm đắm trong cộng đồng như giọt nước hòa vào biển cả. Con người Việt Nam nói riêng và người phương Đông nói chung ý thức cá nhân yếu hơn phương Tây. Những rường mối nghiệt ngã đã thủ tiêu con người cá nhân (vua xử thần chết, thần không chết là bất trung; cha bảo con chết, con không chết là bất hiếu, cha mẹ còn sống con không được đi xa…). Hơn nữa, do người Việt Nam luôn mang nặng trong tim tình yêu quê hương, gia đình, khi đi xa luôn khắc khoải nhớ về nơi chôn rau cắt rốn. Người ly khách trong “Tống biệt hành” của Thâm Tâm khao khát ra đi để khẳng định cái tôi, khát vọng lên đường để thoát khỏi cuộc sống quẩn quanh, bế tắc nhưng trong anh luôn diễn ra sự giằng xé giữa khát vọng lên đường và tình cảm gia đình sâu nặng. Người ra đi được gọi bằng từ “ly khách” trang trọng, mang dáng dấp của những đấng trượng phu thuở xưa, một trang nam nhi mang chí lớn, ôm ấp một sự nghiệp lớn: “Li khách! Li khách! Con đường nhỏ, Chí nhớn chưa về bàn tay không, 8 Thì không bao giờ nói trở lại Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.” Khổ thơ mang âm hưởng trầm hùng, với nhịp điệu dồn dập, từ ngữ rắn rỏi, đặc biệt là một loạt từ ngữ mang ý nghĩa phủ định (chưa, không, đừng), đã diễn tả quyết tâm ra đi vì nghĩa lớn. Gia cảnh nặng nề, đáng lẽ anh phải ở nhà để gánh vác gia đình, mới làm tròn bổn phận. Nhưng anh lại là một chàng trai mang chí lớn, li khách rơi vào bi kịch giằng co giữa bổn phận và khát vọng, giữa tình và chí. Khát vọng giục anh lên đường, bổn phận níu kéo anh ở nhà. Anh phải tự làm rắn lòng mình, phải dùng cả ý chí và lí trí để dằn lòng, để cưỡng chế tình cảm. Anh phải quyết lòng dửng dưng, dứt khoát giã từ: “Một giã gia đình, một dửng dưng…” Hai chữ “một” điệp lại thể hiện bước chân dứt khoát của li khách, quyết một đi không trở về, không vương vấn gia đình. Nếu chỉ lắng nghe khẩu khí bề ngoài, hẳn mọi người sẽ nghĩ li khách là một kẻ vô tình, vô tâm, bạc bẽo. Nhưng chỉ duy nhất một người hiểu thấu lòng anh, đó chính là người đưa tiễn – tri âm tri kỉ của anh: “Ta biết người buồn chiều hôm trước” “Ta biết người buồn sáng hôm nay” Ở li khách có sự đối lập giữa bề ngoài và bên trong. Thái độ dửng dưng, dứt khoát bên ngoài mâu thuẫn với bao tình cảm sâu nặng dành cho người thân yêu ruột thịt. Tình cảm ấy khiến trong lòng li khách chất chứa bao nỗi buồn dai dẳng, triền miên. Những trạng ngữ chỉ thời gian nối tiếp “hôm trước, hôm nay” đã diễn tả nỗi nhớ thương dằng dặc, những dằn vặt, đau đớn đến xé lòng. Và đến tận giây phút chia tay, nỗi buồn vẫn dâng đầy trong mắt “sao đầy hoàng hôn trong mắt trong”. Thì ra đằng sau vẻ lạnh lùng, kiêu bạc kia là một trái tim rất nặng tình. Song dẫu tình cảm gia đình vô cùng quyến luyến, vẫn không lay chuyển được chí lớn của li khách. Đoạn kết giống như cao trào của cơn sóng lòng đã âm ỉ từ khổ một. Bài thơ kết lại trong giọng nghẹn ngào, tức tưởi: “Mẹ thà coi như chiếc lá bay Chị thà coi như là hạt bụi 9 Em thà coi như hơi rượu say” Khổ thơ gợi cho ta nhiều cách hiểu khác nhau. Cách hiểu thứ nhất: Người ra đi coi mẹ, coi chị, coi em là chiếc lá bay, là hạt bụi, là hơi rượu say, anh phải dằn lòng, hy sinh bổn phận của mình vì chí lớn. Cách hiểu thứ hai: Người ra đi khẩn khoản mong người thân, “thà coi” mình như “chiếc lá bay, như “hạt bụi”, như “hơi rượu say”, những thứ rất nhẹ, thoáng qua, không có nghĩa, để xoa dịu, an ủi nỗi đau xót trong lòng người ở lại. Dù hiểu theo cách nào, thì chúng ta thấy li khách nói ra điều đó chẳng dễ dàng. Ba chữ “thà coi” như lên gân, như dằn lòng, nghẹn ngào, đắng chát mặc cảm bất hiếu của một con người vốn nặng tình và lại trót mang chí lớn. Hai nét tinh thần đối lập ấy đã góp phần xây dựng nên vẻ đẹp của li khách: vừa cao cả, lại đầy nhân tính. Như vậy, tuy ảnh hưởng của văn học lãng mạn Pháp, nhưng cảm hứng ra đi trong “Tống biệt hành” của Thâm Tâm đã thấm đượm văn hóa cộng đồng và nhịp đập trái tim của con người Việt Nam. Hoài Thanh trong “Thi nhân Việt Nam” đã nhận xét: “Hồn thơ Pháp hễ chuyển được vào thơ Việt là đã Việt hóa hoàn toàn … Thi văn Pháp không làm mất bản sắc Việt Nam”. Trong văn xuôi lãng mạn, ta cũng bắt gặp cảm hứng ra đi trong những trang văn của Nguyễn Tuân về đề tài “xê dịch”. Trước Cách mạng tháng Tám, cái tôi Nguyễn Tuân về cơ bản là cái tôi cá nhân chủ nghĩa đối lập với xã hội, thể hiện tâm trạng tù túng của một thanh niên giàu sức sống, đầy khát vọng tự khẳng định mình, nhưng lại bị vây riết giữa môi trường sống quẩn quanh, trì trệ, buồn tẻ của xã hội thực dân nửa phong kiến. Ảnh hưởng tư tưởng của Nitsơ, Gitđơ ở phương Tây, giang hồ, xê dịch với ông nhiều khi chỉ là để tìm mình, để thực hiện cái cá nhân mình cho đến kì cùng: “Rồi tôi vẫn vênh váo đi giữa cuộc đời như một viễn khách không có quê hương nhất định, cái gì cũng ngờ hết, duy chỉ có tin chắc ở cái kho, cái vốn tình cảm và cảm giác của mình”. Nhưng cái tôi Nguyễn Tuân vẫn không hoàn toàn đóng kín với cuộc đời. Ta tìm thấy bóng dáng của ông hóa thân vào nhân vật Bạch trong “Thiếu quê hương”. Với Bạch nhiều khi đi là lẽ sống, để tìm “thực đơn” mới mẻ cho tâm hồn, đi là “hạnh phúc”. Nhưng đôi khi chính anh ta lại mâu thuẫn: “Ta đi để mà đau khổ cả lúc đi lẫn lúc nghỉ, ơi ta ơi là ta ơi”. 10 Ảnh hưởng thuyết siêu nhân của Nitsơ: siêu nhân là phải biết tàn nhẫn, phải biết vượt lên thứ luân lý của tình thương, Bạch thích lên giọng khinh bỉ tình cảm gia đình, những kẻ lên đường bịn rịn, những cuộc tiễn đưa sụt sùi nước mắt. Nhưng thực tế anh ta vẫn rất nặng lòng với gia đình. Đối với cha, anh ta phải thú nhận: “Lòng thương cha, ai mà không nặng”. Còn đối với vợ, anh ta tìm cách bới móc mọi khuyết điểm của vợ để có thể li dị, nhưng rồi anh ta lại nhận ra điều đó “thật không xứng đáng một tí nào với cái vẻ ngây thơ, thành thực của vợ chàng” . Như vậy, khác với nhân vật trong văn học phương Tây, họ sẵn sàng thoát ly gia đình để được sống phiêu lưu, mạo hiểm, để khẳng định cái tôi. Nhân vật của Nguyễn Tuân vẫn mang nặng tình cảm của con người Việt Nam, thoát ly gia đình nhưng vẫn nặng lòng với người thân. Đáng trân trọng hơn, họ xê dịch quẩn quanh, lẫn vào thú giang hồ lãng tử, nhưng trong lòng vẫn “yêu thương mà ngợi ca đất nước muôn vẻ muôn màu của mình”, và ghi lại những phong cảnh tuyệt đẹp của giang sơn Tổ quốc, trên mỗi bước đường đi qua đều đặt cả tâm hồn mình vào cỏ cây sông nước. Nhân vật của Nguyễn Tuân chính là hình bóng của nhà văn. “Con người luôn cảm thấy “thiếu quê hương” ấy, thực sự lại gắn bó tha thiết với quê hương mình bằng biết bao sợi dây tình cảm tế nhị. Mà chính vì tha thiết với quê hương nên mới cảm thấy bơ vơ trong hoàn cảnh mất nước và mới có tâm trạng khắc khoải day dứt “thiếu quê hương… Đó là một tấm lòng An Nam hoàn toàn” (Nguyễn Đăng Mạnh). Sức hấp dẫn, giá trị muôn đời của những trang văn Nguyễn Tuân là ở đó. Qua sự phân tích một số ví dụ ở trên đã cho chúng ta thêm căn cứ để hiểu sâu sắc hơn đặc trưng đầu tiên của chủ nghĩa lãng mạn, đó là đề cao tình cảm của cá nhân con người, hiểu con người là một “tiểu vũ trụ” với sự phong phú, vô bờ bến của tâm hồn và trí tuệ. 2. Nhân vật trung tâm Nhân vật là hình ảnh con người được miêu tả cụ thể trong tác phẩm. Nhân vật luôn là phương tiện để nhà văn phản ánh hiện thực và ký thác tư tưởng tình cảm của mình. Mỗi phương pháp sáng tác lại có kiểu nhân vật đặc trưng. Nếu như chủ nghĩa hiện thực phê phán xây dựng được những nhân vật điển hình sắc nét, thì nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn lại có vẻ đẹp phi thường, độc đáo. 11 2.1. Kiểu nhân vật cô độc Kiểu nhân vật đặc trưng của văn học lãng mạn được thai nghén từ sự đấu tranh giữa cá nhân và xã hội. Đó là những người bất mãn với thực tại thối nát của xã hội tư sản. Họ không chấp nhận và chối bỏ xã hội. Ngược lại, xã hội cũng chối từ những con người ấy. Mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội là mâu thuẫn không thể giải quyết. Nhưng họ chỉ là những con người đấu tranh đơn độc, những con người cô độc. Trong cuộc đấu tranh ấy, phần thắng không thuộc về cá nhân. Nhưng những người anh hùng đơn độc ấy vẫn kiên quyết không từ bỏ lý tưởng của mình. Vì vậy họ thường mang vẻ mặt u buồn, không cười. Tiêu biểu cho kiểu nhân vật này là Ăng-giôn-rax trong tiểu thuyết “Những người khốn khổ” của V.Huygô. Vẻ đẹp của anh đã được nhà văn lý tưởng hóa cao độ. Theo quan điểm của Huygô, Ăng-giôn-rax là biểu tượng trọn vẹn cho cái cao cả, là lý tưởng của cách mạng. Và để hiển minh điều đó, nhà văn đã thể hiện nhân vật với những nét tuyệt đối và đặc biệt: “Vừa là đao phủ, vừa là thánh tăng, vừa là ánh sáng, vừa là pha lê”, lại “cứng như tảng đá”. Anh mang vẻ đẹp trẻ trung, thần thánh, là mẫu người anh hùng lý tưởng nhưng luôn mang “vẻ buồn trang nghiêm” của những người anh hùng đơn độc, khao khát đấu tranh với xã hội tư sản tàn ác để đem lại ấm no cho “những người khốn khổ”. Ăng-giôn-rax là người hy sinh cuối cùng trên chiến lũy với tám phát đạn. Chi tiết đó gợi cho ta liên tưởng đến hình tượng Chúa đóng đinh trên cây thánh giá để chuộc tội cho thiên hạ. Ăng-giôn-rax là biểu tượng cho những con người sẵn sàng hy sinh vì hạnh phúc của mọi người. Điều đặc biệt, những nhân vật này vẫn tự hào và đầy kiêu hãnh, ở họ toát lên vẻ đẹp kiêu kỳ. Nhân vật lãng mạn gắn liền với chữ KIÊU: Ta là một, là riêng, là thứ nhất Không có chi bè bạn nổi cùng ta …………. Ta bỏ đời mà đời cũng bỏ ta Giữa vắng ngắt, giữa lạnh lùng thê tuyệt. 12 (Hi Mã lạp sơn – Xuân Diệu) Xuân Diệu – thi sĩ đại diện đầy đủ nhất cho thời đại chữ Tôi đã tự ví mình với đỉnh Himalaya, ngọn núi cao nhất thế giới thật kì vĩ biết bao, nhưng cũng cô độc biết nhường nào! 2.2. Kiểu nhân vật tướng cướp - nhân vật nổi loạn Trong những tác phẩm văn học lãng mạn còn xuất hiện kiểu nhân vật tướng cướp - nhân vật nổi loạn, nhưng là những tên cướp cao thượng, mang tính lý tưởng: lấy hành động của mình để cưu mang, cứu vớt đời. Đó là những con người thừa “đầu thai nhầm thế kỉ”. Các nhà văn lãng mạn tích cực đều mang thái độ bất mãn sâu sắc với xã hội tư sản. Họ nhận thức được rõ ràng cái xã hội mới đáng lẽ cho phép từng người biểu lộ tài năng của mình và “tham gia vào sự thay đổi thế giới”, thì về thực chất lại là “một xã hội đã bị chắn ngang do sự tàn bạo của đồng tiền, sự tàn bạo này còn khắc nghiệt hơn cả sự tàn bạo của đẳng cấp và của giống nòi xưa kia”. Nhận thức sáng suốt đó về thực tại không hề thủ tiêu ý chí của nhân vật trung tâm trong chủ nghĩa lãng mạn tích cực. Gắn bó với ước vọng của nhân dân về một xã hội tốt đẹp hơn, hầu hết các nhà lãng mạn tích cực đều đã thể hiện trong tác phẩm của mình “giấc mơ về hành động thực tế của cá nhân, về chỗ cá nhân có thể thâm nhập vào thế giới và làm thay đổi được nó.” Nhân vật của họ thường là nhân vật phi thường, con người nổi loạn. Họ nổi loạn để tạo ra chỗ đứng của mình, nổi loạn để thế giới phải chú ý tới họ, nổi loạn để chống lại bất công, tiêu diệt cái ác, cho dù là đơn độc. Những con người này thường sống ngoài rìa pháp luật, sống ngoài xã hội, vì vậy đã buồn họ lại càng buồn hơn. Trong kịch của Huygô, chúng ta thường bắt gặp kiểu nhân vật này, mà tiêu biểu là Hecnani trong vở kịch cùng tên. Lần đầu tiên một nhà soạn kịch Pháp đã táo bạo đưa lên sân khấu nhân vật tướng cướp, mà lại là nhân vật chính. Một con người sống ngoài vòng pháp luật, cùng đồng đảng tung hoành khắp xứ, bị triều đình truy lùng mọi nơi. Nhưng đây không phải "tướng cướp" hiểu theo nghĩa thông thường, mà là kẻ "nổi loạn chính trị" có mối thù không đội trời chung với vua Tây 13 Ban Nha. Con người "nổi loạn" ấy có những phẩm chất tốt đẹp, ý chí căm thù sâu sắc, tinh thần kiên cường bất khuất trong đấu tranh, tâm hồn cao thượng trong tình yêu... Những nhân vật này thể hiện thái độ chống đối của nhà văn đối với các chế độ Trung hưng và Quân chủ tư sản. Tuy nhiên, nhà văn chưa nhìn thấy sự thắng lợi tất yếu của các lực lượng dân chủ trong một tương lai không xa, hơn nữa V. Huygô lại chủ trương con đường hoà giải mâu thuẫn thay thế cho đấu tranh cách mạng quyết liệt để tiêu diệt cái ác, và con người phải biết dẹp hằn thù, mở rộng lòng khoan dung, kìm chế dục vọng. Do đó, nhân vật "nổi loạn" của ông thường dừng lại giữa đường khi chưa hoàn thành sự nghiệp (Hecnani) hoặc đi đến kết thúc bi thảm (Ruy Blax trong vở kịch cùng tên...). Đó chính là mặt hạn chế của V.Huygô. Nhưng dẫu sao những nhân vật “nổi loạn” của nhà soạn kịch lãng mạn này vẫn để lại trong lòng người thiện cảm tốt đẹp, bởi gốc rễ nhân đạo sâu sắc trong tâm hồn V.Huygô. Soi vào văn học lãng mạn Việt Nam chúng ta thấy, Huấn Cao trong “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân cũng mang dáng dấp của nhân vật nổi loạn. Huấn Cao thuộc loại nhân vật chân dung - tư tưởng. Đây là một chân dung sắc sảo được xây dựng theo lối lý tưởng hóa của một ngòi bút lãng mạn. Vì vậy, Huấn Cao nổi lên với vẻ đẹp phi thường, khác lạ. Cả tài hoa, thiên lương, lẫn khí phách của ông đều rất phi thường. Huấn Cao là một hào kiệt kiên cường, bất khuất, dám đứng lên chống lại triều đình phong kiến. Việc lớn không thành, ông bị bắt và sắp bị hành hình. Nhưng ông vẫn ung dung, bình thản, thể hiện khí phách hiên ngang, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời mình, Huấn Cao đã không hề run sợ, mà dồn hết tài hoa, thiên lương để cảm hóa, đưa quản ngục trở về với cuộc sống lương thiện. Qua hình tượng này, Nguyễn Tuân muốn gửi gắm tới người đọc một thông điệp: trên đời này không chỉ có quyền lực của nhà tù, mà còn có quyền uy của cái đẹp, đó chính là cái đẹp “nổi loạn”. Huấn Cao có nguyên mẫu từ Cao Bá Quát, một danh sĩ ở thế kỉ XIX, nổi tiếng hay chữ và viết chữ đẹp. Ông được tôn là “thánh Quát”, và là niềm tự hào của thời đại trong vế đối: “Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán”. Cao Bá Quát cũng là người nổi tiếng phóng túng, ngông ngạo, khao khát đổi thay xã hội trong hoàn cảnh triều đình nhà 14 Nguyễn bảo thủ, trì trệ. Cuối cùng ông đã đi làm quân sư cho cuộc khởi nghĩa Mĩ Lương chống lại triều đình. Đó là một con người tài hoa, khí phách ngang tàng và nhân cách cao đẹp. Lấy Cao Bá Quát làm nguyên mẫu để xây dựng nhân vật chính cho truyện, Nguyễn Tuân đã thể hiện khuynh hướng của trào lưu lãng mạn, phủ định thực tại xã hội đương thời bằng cách quay về ngợi ca vẻ đẹp của một thời đã qua nay chỉ còn vang bóng. Đồng thời, tác giả cũng bộc lộ lòng yêu nước thầm kín khi ca ngợi lãnh tụ khởi nghĩa Huấn Cao, gửi gắm sự ngưỡng mộ của mình với những anh hùng, hào kiệt dám đứng lên chống Pháp bằng gươm súng. Như vậy, “mỗi nghệ sĩ có thể đến với văn chương và cuộc đời bằng con đường riêng của mình. Nhưng… tư duy nghệ thuật dù có đổi mới đến đâu đi nữa thì cũng không vượt ra ngoài các quy luật của chân thiện mĩ, quy luật nhân bản. Nhà văn có sứ mệnh khơi nguồn cho dòng sông văn học đổ ra đại dương nhân bản mênh mông” (Lã Nguyên) 3. Mối quan hệ giữa tính cách và hoàn cảnh Nếu như các nhà văn hiện thực phê phán phản ánh chân thực đời sống thông qua những nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, thì các cây bút lãng mạn gửi gắm triết lý nhân sinh của mình qua những tính cách phi thường trong những hoàn cảnh phi thường. V.Huygô – chủ soái của chủ nghĩa lãng mạn Pháp cho rằng: “Cái tầm thường là cái chết của nghệ thuật”. Và đây cũng là nguyên tắc chung của các nhà văn lãng mạn, luôn ưa thích cái vĩ đại, cái phi thường, cái “quá khổ”. Dưới ngòi bút của họ, nhân vật trung tâm đều trở nên phi thường, kì vĩ, gắn liền với hoàn cảnh phi thường. Nhân vật có thể được đặt trên bức phông nền là bức tranh thiên nhiên hoang sơ, kì bí, dữ dằn nơi đảo hoang, hay vùng núi xa xôi, hẻo lánh chưa ai đặt chân đến. Năm 1866, tác phẩm “Những người anh hùng của biển cả” , bản anh hùng chân thực về “những người đánh cá ở đảo Gớc-nơ-đi” ra đời. Chính khung cảnh của đại dương đã khơi nguồn cảm hứng cho Huy-gô. Gi-li-at, nhân vật chính của tác phẩm, là một người lao động bình thường trên biển, nhưng cũng giống như Ka-di-mô-đô (Nhà thờ đức bà Pari) và Giăng-Văn-Giăng (Những người khốn khổ), anh có sức khỏe phi thường, có lòng dũng cảm và đức hy sinh đặc biệt của những nhân vật anh hùng xuất thân từ những tầng lớp thấp hèn. Hình 15 tượng anh nổi bật giữa những bức tranh kì diệu về đại dương, ca ngợi lao động và sự hy sinh bình dị. Bởi vậy, tiểu thuyết này được đánh giá là “một tác phẩm phóng khoáng, mở rộng với bốn phương trời và như thế thấm nhuần vô biên ”. Hoặc hoàn cảnh phi thường có thể chính là cuộc sống đầy hiểm họa của nhân loại, với bao bất công, tệ trạng, bao đau khổ lầm than. Nhân vật Giăng-VănGiăng trong tiểu thuyết “Những người khốn khổ” của V.Huy-gô được đặt trên khung cảnh của Pari với bóng tối của các ngoại ô, những khu phố nghèo bẩn thỉu với những ngôi nhà cũ kĩ, những cống rãnh chảy qua đường… Từ trong đêm đen của xã hội, Giăng-Văn-Giăng hiện lên sừng sững với sức mạnh vô địch, với tinh thần làm việc hăng say, ông đã giàu lên trong xứ sở của mình. Nhưng điều vĩ đại ở Giăng-Văn-Giăng, là ông không chỉ muốn mình giàu, mà còn mong cho tất cả mọi người đều giàu có. Với tấm lòng từ bi bác ái của một vị thánh đã được khai tâm, ông cứu vớt biết bao kiếp đời khốn cùng, cơ cực. Với hình tượng này, tác phẩm đã trở thành bản anh hùng ca về một con người khốn khổ vật lộn với xã hội và khoa học để vươn lên đỉnh cao của cái thiện. Ông là nhân vật đã gói trọn triết lý nhân sinh của nhà văn, người đọc không thể nào quên câu nói cuối cùng của ông với Côdet và Mariuyt: “Trên đời này chỉ có một điều ấy thôi, đó là yêu thương nhau”. Mặc dù quan niệm của tác giả có phần ảo tưởng: dùng tình thương để cảm hóa thế giới tàn ác, nhưng Giăng-Văn-Giăng vẫn là hình tượng nhân vật phi thường trong trái tim và khát vọng cứu vớt nhân loại khổ đau. Vì vậy, thiên tiểu thuyết đẹp như một “bài thơ về lương tâm con người”. Chính khát vọng vươn tới cái phi thường, cái cao cả đã tạo nên sự tài hoa trong ngòi bút và tầm vóc vĩ đại của một nhà “nhân đạo từ trong cốt tủy”, cây đại thụ của chủ nghĩa lãng mạn Pháp đã toả bóng gần khắp thế kỷ XIX - V.Huy-gô. 4. Nghệ thuật tương phản Theo nhận xét của các nhà phê bình, thì nghệ thuật lãng mạn có khả năng dung nạp rộng rãi các thủ pháp nghệ thuật đặc thù như tương phản, cường điệu, trữ tình ngoại đề, sự đối lập giữa cái trác việt (sublime) và cái thô kệch (grotesque)… Trong đó, một trong những thủ pháp đem lại hiệu quả nghệ thuật cao nhất cho những tác phẩm văn học lãng mạn chính là nghệ thuật tương phản với những cấp 16 độ đa dạng. "Tinh thần lãng mạn chính là sự nối kết liên tục các yếu tố đối kháng nhau: Tự nhiên và nghệ thuât, thơ ca và văn xuôi, sự nghiêm túc và thú vui, kỷ niệm và dự cảm, tư tưởng trừu tượng và những cảm giác sống động, sự sống và cái chết... hòa lẫn với nhau một cách mật thiết trong thể loại lãng mạn” (A.W Sleigel). 4.1. Tương phản trong xây dựng hình tượng nhân vật 4.1.1. Tương phản trong một nhân vật Dưới ngòi bút của các tác giả lãng mạn, nhân vật nhiều khi là sự thống nhất hài hòa của nhiều mặt đối lập: giữa ngoại hình và phẩm chất, giữa quá khứ và hiện tại,… Chúng ta không thể không kể đến nhân vật Huấn Cao trong “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân, đó là sự kết hợp giữa một nghệ sĩ tài hoa và một anh hùng “bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Hay Ka-di-mô-đô trong “Nhà thờ đức bà Pari” có vẻ bề ngoài vô cùng xấu xí, nhưng tâm hồn lại cao đẹp, thánh thiện… Trong tiểu thuyết “Những người khốn khổ”, V.Huy-gô đã triệt để khai thác vẻ đẹp của nghệ thuật tương phản. Với bút pháp này, nhà văn đã tạo ra kiểu nhân vật đặc trưng – nhân vật kép, nhân vật phức hợp. Giăng-Văn-Giăng vừa là một người tù khổ sai, vừa là một vị thánh, điều này đã biến “Những người khốn khổ” trở thành bản anh hùng ca của lương tâm con người. Bởi tác phẩm đã bộc lộ quá trình con người đi từ bóng tối ra ánh sáng, đấu tranh với chính mình để vươn tới sự hoàn thiện. Qua đó, V. Huy-gô đã nhắn gửi tới người đọc triết lý nhân sinh sâu sắc: muốn cứu đời, cứu người trước hết phải vượt qua được cái ác trong chính bản thân mình. 4.1.2. Tương phản giữa hai nhân vật Trong nhiều tác phẩm lãng mạn, luôn có sự song hành của hai nhân vật đối lập nhau, qua đó tư tưởng của tác giả được bộc lộ sắc nét. Chắc hẳn chúng ta không thể quên cặp nhân vật xung đột nhau gay gắt là Giăng-Văn-Giăng và Gia-ve trong “Những người khốn khổ”, một người tiêu biểu cho những con người khốn cùng, còn người kia đại diện cho quyền lực của xã hội tư bản. Một người là thánh 17 nhân luôn tìm cách bênh vực bao kiếp đời bé nhỏ, còn kẻ kia là tên mật thám chó săn luôn rình rập để bắt bớ, hành hạ những mảnh đời yếu đuối… Hay trong “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân, bút pháp tương phản đã góp phần tạo nên tình huống truyện độc đáo, đầy oái oăm và bi kịch: cuộc kì ngộ của hai nhân vật Huấn Cao và quản ngục. Trên bình diện chính trị xã hội, họ là những kẻ đối địch, có địa vị hoàn toàn đối lập với nhau. Một người là tên "đại nghịch", cầm đầu cuộc nổi loạn chống lại triều đình, nay bị bắt giam, đang chờ ngày ra pháp truờng để chịu tội. Còn người kia lại đại diện cho bộ máy cai trị trong xã hội đương thời, có nhiệm vụ quản thúc, hành hạ tử tù của triều đình. Nhưng ở bình diện nghệ thuật, cả hai nhân vật này đều là những con người có tâm hồn nghệ sĩ, họ là tri âm, tri kỉ với nhau. Một người có tài viết chữ đẹp – một nhà thư pháp nổi tiếng, người kia suốt đời ngưỡng mộ cái tài ấy, bất chấp cả sự an nguy về tính mạng của mình và gia đình mình, miễn là có chữ của Huấn Cao để thỏa lòng mong ước. Ở một khía cạnh khác, tình huống này còn là sự đối mặt giữa hai kiểu nhà tù, hai kiểu tù nhân. Huấn Cao – một người hoàn toàn tự do về nhân cách nhưng đã mất mọi quyền, kể cả quyền sống. Quản ngục hoàn toàn tự do về thân thể, nhưng lại bị cầm tù về nhân cách. Hoàn toàn có thể coi đây là cuộc gặp gỡ giữa một tử tù Huấn Cao và người bị cầm tù chung thân ngay trong môi trường sống của mình. Chọn tình huống này, nhà văn đã đặt quản ngục vào một sự lựa chọn có tính xung đột: hoặc làm tròn bổn phận của một ông quan thì phải chà đạp lên tấc lòng tri kỉ, hoặc muốn trọn đạo tri kỉ thì phải phản lại bổn phận của một viên quan, bất chấp phép tắc nhà tù, và những quy định của luật pháp triều đình. Quản ngục hành động theo hướng nào, tư tưởng của truyện sẽ nghiêng theo hướng ấy. Theo cách thứ nhất, chiến thắng sẽ thuộc về sự tầm thường, đê tiện, độc ác. Theo cách hai, thì cái đẹp sẽ chiến thắng. Liệu quản ngục có dám thủy chung với tấc lòng tri kỉ, có dám coi thường bổng lộc và sự an toàn tính mạng của cá nhân và gia đình mình hay không? Quản ngục có thể thoát khỏi cái nhà tù vô hình vẫn cầm tù nhân cách của mình hay không? Có dám sống đúng là mình hay không? Tình huống truyện có sức hấp dẫn, lôi cuốn người đọc tiếp tục theo dõi câu chuyện. 18 Như vậy, nghệ thuật tương phản có vai trò quan trọng trong việc tạo tình huống và khắc họa chân dung nhân vật. 4.1.3. Tương phản giữa nhân vật và hoàn cảnh Trong các tác phẩm văn học, con người không chỉ là “tổng hòa các mối quan hệ xã hội”, mà chân dung nhân vật còn hiện lên sinh động trong mối quan hệ với môi trường xung quanh. Đến với văn xuôi lãng mạn, hẳn chúng ta đều đặc biệt ấn tượng với sự thù địch giữa nhân vật và hoàn cảnh. Đọc “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân, đôi khi chúng ta chỉ chú ý tới nhân vật trung tâm – Huấn Cao mà lãng quên nhân vật quản ngục. Bởi vậy, nhiều người đã không nhận ra rằng quản ngục cũng là hình tượng mà nhà văn đã dồn rất nhiều tâm huyết để khắc họa. Quản ngục là nhân vật nghiêng về chân dung và được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn. Ở nhân vật này, có sự tương phản giữa cái tâm trong sáng với môi trường sống bẩn thỉu, và cái nghề thất đức. Quản ngục phải sống trong một môi trường đầy oái oăm, trớ trêu – nơi mà “người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc”. Nguyễn Tuân đã nhận xét: “Ông trời nhiều khi chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã. Và những người có tâm điển tốt và thẳng thắn, lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt”. Tuy nhiên, vượt lên trên hoàn cảnh, quản ngục vẫn là một người có tâm điển tốt, tiềm ẩn những phẩm chất đáng quý, “là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”. Ông đã dám sống đẹp, dám làm chính mình và luôn hiện lên là một người tri kỉ với Huấn Cao. Là một người có sở thích cao quý. Mong mỏi suốt đời của quản ngục là “một ngày kia được treo ở nhà riêng của mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết”. Vẻ đẹp của quản ngục hiện lên ở thái độ sùng kính Huấn Cao, qua hành vi chắp tay vái người tù một cái, nghẹn ngào nói trong nước mắt: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh". Có cái cúi đầu làm cho con người ta trở nên hèn hạ, có những cái vái lạy làm cho con người trở nên đê tiện. Nhưng cũng có cái cúi đầu làm cho con người ta trở nên cao cả hơn, sang trọng hơn. Đó là cái cúi đầu trước cái tài, cái đẹp, cái thiên lương. Viên quản ngục vái lạy Huấn Cao gợi chúng ta liên tưởng tới cái cúi đầu của Cao Bá Quát trước hoa mai: "Nhất sinh đê thủ bái mai hoa". 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan