Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học đặc trưng của chủ nghĩa hiện thực qua nhân vật chí phèo của nam cao...

Tài liệu đặc trưng của chủ nghĩa hiện thực qua nhân vật chí phèo của nam cao

.PDF
21
155
65

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HẢI DƯƠNG TRƯỜNG THPT CHUYÊN NGUYỄN TRÃI CHUYÊN ĐỀ ĐẶC TRƯNG CỦA CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC QUA NHÂN VẬT CHÍ PHÈO CỦA NAM CAO Người thực hiện: Nguyễn Thị Hà Hải Dương, 8/2014 1 MỤC LỤC I.PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………………….3 II.PHẦN NỘI DUNG………………………………………………………………….5 1.Giới thuyết về chủ nghĩa hiện thực và đặc trưng cơ bản…………………………5 1.1. Khái niệm…………………………………………………………………………..5 1.2.Thời điểm ra đời…………………………………………………………………….6 1.3.Đặc trưng điển hình hóa của chủ nghĩa hiện thực……………………………….7 2.Nhân vật điển hình Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên cuả Nam Cao.....................9 2.1. ”Chí Phèo” với các tác phẩm cùng giai đoạn.........................................................9 2.2.Chí Phèo – điển hình cho nỗi khổ về vật chất và nỗi đau về tinh thần của người nông dân..........................................................................................................................10 2.3.Chí Phèo- sự sáng tạo độc đáo của Nam Cao……………………………………..12 2.4. Mối quan hệ giữa nhân vật và hoàn cảnh..............................................................17 3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình Chí Phèo của Nam Cao.......................18 3.1.Kết cấu cốt truyện.....................................................................................................18 3.2.Tổ chức điểm nhìn trần thuật...................................................................................19 3.3.Ngôn ngữ…………………………………………………………………………...19 III.KẾT LUẬN…………………………………………………………………………20 TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………………21 2 I.PHẦN MỞ ĐẦU Xuất hiện vào những năm 30 của thế kỉ XX khuynh hướng hiện thực phê phán ở Việt Nam đã góp thêm tiếng nói tích cực vào sự nhận thức với tinh thần phân tích phê phán các mối quan hệ thối nát trong xã hội đương thời, nhen nhóm thái độ bất bình với thực tại, tỏ lòng thương cảm với những số phận khốn khổ. Trải qua bề dày thời gian những tác phẩm của thời kì văn học hiện thực phê phán ấy đến nay vẫn nguyên giá trị và luôn có sức ám ảnh với tương lai. Khi văn đàn văn học hiện thực phê phán 1930-1945 đã có Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng…là những vì sao chói lọi, nổi bật và tiêu biểu cho bầu trời văn học thì Nam Cao xuất hiện. Nhà văn trẻ tuổi ấy đến sau biết bao cây bút nổi tiếng mà không bị chìm lấp đi, trở thành đại diện tiêu biểu xuất sắc nhất của giai đoạn cuối 19301945. Sở dĩ đạt được vị trí trang trọng như thế Nam Cao đã viết văn với ý thức trọn vẹn và thấm thía thiên chức của nghệ thuật như Nguyễn Minh Châu từng nhận định rằng “Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường bênh vực cho những con người không còn được ai bênh vực”. Đọc những trang văn của Nam Cao mỗi chúng ta đều “giật mình” tự vấn lương tâm, sám hối để hoàn thiện nhân cách làm một CON NGƯỜI. Trong những đóng góp mang tầm khái quát thời đại của nhà văn này không thể không nhắc đến việc xây dựng nhân vật điển hình Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên là đại diện tiêu biểu cho nỗi khổ về vật chất và nỗi đau về tinh thần của người nông dân An Nam trong hoàn cảnh thuộc địa. Một tác phẩm đã có thâm niên hơn nửa thế kỉ tồn tại, mọi vấn đề dường như đã được lật xới nhưng ý nghĩa của nó đã vượt qua “sự băng hoại của thời gian” để hậu thế về sau vẫn còn nhiều bài học cần phải suy ngẫm về con người, cuộc sống. Chọn “Đặc trưng của chủ nghĩa hiện thực qua nhân vật “Chí Phèo” của Nam Cao” người viết mong muốn hiểu sâu một khía cạnh của đặc trưng chủ nghĩa hiện thực phê phán qua tác phẩm cụ thể - một tác phẩm được học trong chương trình THPT, có ý nghĩa quan trọng trên văn đàn văn học. Đồng thời vận dụng chuyên đề này để cung cấp kiến thức lí luận, hướng dẫn học sinh thâm nhập vào một khía cạnh của một tác phẩm được 3 coi là kiệt tác của văn học hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 30-45. Học sinh qua đây sẽ có kĩ năng vận dụng kiến thức lí luận vào việc phân tích khía cạnh của những tác phẩm khác. Và điều quan trọng nữa khi thực hiện chuyên đề này, khi xã hội bây giờ có những giá trị nghiêng ngả, lung lay theo thời cuộc thì việc giaó dục học sinh có niềm tin vào bản tính “nhân chi sơ tính bản thiện” của con người là điều cần thiết để từ đó sẽ bao dung, cảm hóa những lầm đường lạc lối. 4 II.PHẦN NỘI DUNG 1.Giới thuyết về chủ nghĩa hiện thực và đặc trưng cơ bản 1.1. Khái niệm Về tên gọi đến nay còn nhiều tranh cãi. Trong “Từ điển văn học” Trần Đình Sử ( chủ biên) đã đưa ra hai cách hiểu về thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực. Theo nghĩa rộng thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực được hiểu là mối quan hệ giữa tác phẩm và hiện thực đời sống bất kể đó là tác phẩm thuộc trường phái, khuynh hướng văn nghệ nào. Với ý nghĩa này, khái niệm chủ nghĩa hiện thực gần như đồng nhất với khái niệm sự thật đời sống, vì tác phẩm văn học nào cũng mang tính hiện thực. Tuy nhiên cách hiểu này chưa mang màu sắc rõ nét của chủ nghĩa hiện thực để phân biệt với chủ nghĩa lãng mạn hay chủ nghĩa cổ điển…Cũng theo nhóm tác giả đó, thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực theo nghĩa hẹp chỉ một phương pháp hiện thực, một khuynh hướng, trào lưu văn học có nội dung chặt chẽ, sắc sảo được xác định bởi nguyên tắc mĩ học riêng. Trong cuốn “Lí luận văn học” do nhóm tác giả Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, La Khắc Hòa, Lê Ngọc Trà, Thành Thế Thái Bình mà phần chủ nghĩa hiện thực phê phán do Phương Lựu đảm nhiệm, sau này được dựng lại trong cuốn “Tiến trình văn học” tập 3 cũng do tác giả chủ biên thì đã đưa ra những cách hiểu khác về khái niệm này. Theo tác giả, “chủ nghĩa hiện thực có khi được dùng không phải với nghĩa một phương pháp sáng tác mà với nghĩa kiểu sáng tác tái hiện”. Còn nếu hiểu “Chủ nghĩa hiện thực theo nghĩa là phương pháp sáng tác thật ra có nhiều dạng. Đó là chủ nghĩa hiện thực thời Phục hưng, chủ nghĩa hiện thực thời Khai sáng, chủ nghĩa hiện thực trong thời phong kiến mạt vận ở phương Đông. Nhưng chủ nghĩa hiện thực thế kỉ XIX ở Tây Âu đạt đến đỉnh cao nhất, cho nên người ta gọi là chủ nghĩa hiện thực cổ điển, và vì cảm hứng chủ đạo của nó là phê phán cho nên theo ý kiến của M.Gorki người ta thường gọi là chủ nghĩa hiện thực phê phán”. Và trong giáo trình đó tác giả khẳng định cách trình bày chủ nghĩa hiện thực như một phương pháp sáng tác. Theo “Bách khoa toàn thư” Chủ nghĩa hiện thực là một “trào lưu văn học nghệ thuật, là phương pháp sáng tác lấy hiện thực xã hội và những vấn đề có thật của con người làm đối tượng phản ánh” 5 Như vậy, các công trình khoa học và các nhà lí luận có uy tín đã đưa ra những cách hiểu của nhiều ý kiến khác nhau về chủ nghĩa hiện thực nhưng tựu trung lại họ đã gặp gỡ nhau ở điểm coi chủ nghĩa hiện thực là một trào lưu văn học, một phương pháp sáng tác nhằm mô tả thế giới như nó là, nhằm triển lãm cuộc sống trong trạng thái trung thực của nó. Đồng thời muốn thực hiện thành công phương pháp này các nhà văn cần tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc mĩ học nhất định như:xây dựng những hình tượng điển hình và điển hình hóa các sự kiện của cuộc sống; thừa nhận mối quan hệ hữu cơ giữa tính cách và hoàn cảnh, con người và môi trường sống; coi trọng chi tiết cụ thể và có độ chính xác cao. 1.2.Thời điểm ra đời Về thời điểm ra đời của chủ nghĩa hiện thực cho đến nay vẫn có những ý kiến khác nhau. Trong “Từ điển thuật ngữ văn học”( Trần Đình Sử chủ biên) đã trình bày nhiều ý kiến về dấu mốc ra đời của chủ nghĩa hiện thực. Có người cho rằng nguyên tắc phản ánh hiện thực chủ nghĩa hình thành từ thời cổ đại và trải qua các giai đoạn phát triển lịch sử như Cổ đại, Phục hưng, Ánh sáng, thế kỉ XIX…Một số khác thì cho là chủ nghĩa hiện thực xuất hiện từ thời Phục hưng. Nhiều người khẳng định chủ nghĩa hiện thực hình thành từ khoảng những năm 30 của thế kỉ XIX. Theo “Bách khoa toàn thư” những tác phẩm có tính hiện thực hay giá trị hiện thực đã xuất hiện từ lâu trước khi có chủ nghĩa hiện thực tuy nhiên chủ nghĩa hiện thực với tư cách là một trào lưu, một phương pháp hoàn thiện chỉ xuất hiện vào thế kỉ XIX ở các nước như Anh, Pháp, Ý, Nga sau đó lan rộng ra các nước khác trên thế giới. Và “Bách khoa toàn thư” khẳng định rằng bài tiểu luận đầu tiên có tính chất lí luận về chủ nghĩa hiện thực được viết bởi nhà lí luận Pháp Săngflory vào năm 1857. Dù rằng các ý kiến còn tranh cãi nhưng không thể phủ nhận được rằng chủ nghĩa hiện thực có đời sống lịch sử phát triển cụ thể và vào những năm 40 của thế kỉ XIX trở đi chủ nghĩa hiện thực trong văn học đã bước sang một giai đoạn phát triển hoàn chỉnh và rực rỡ, mang cảm hứng phân tích mới về hiện thực đó là phê phán. Từ đây chủ nghĩa hiện thực mang tên mới: chủ nghĩa hiện thực phê phán. 6 Ở Việt Nam, những tác phẩm của văn học trung đại như Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến…đã phơi bày hiện thực khách quan của cuộc sống. Phải đến Hồ Biểu Chánh, Phạm Duy Tốn…mới khơi dòng cho khuynh hướng hiện thực khi các tác phẩm thể hiện màu sắc phong tục, nếp sống của một số miền đất, một số người. Đến khoảng những năm 30 của thế kỉ XX cây bút hiện thực phê phán Nguyễn Công Hoan là người bắt đầu đi theo khuynh hướng tả chân, lấy cuộc sống hiện thời, lấy cái đã và đang xảy ra làm nội dung tác phẩm. Và từ những năm 1930 đến trước 1945 khuynh hướng văn học hiện thực phát triển rầm rộ, quy mô, nhiều cây bút tài năng đã xuất hiện như Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đình Lạp…và Nam Cao được đánh giá là người có công đưa văn học hiện thực lên một trình độ mới, trình độ miêu tả tâm lý, khái quát hiện thực. 1.3.Đặc trưng điển hình hóa của chủ nghĩa hiện thực Trong các nguyên tắc mĩ học của chủ nghĩa hiện thực thì điển hình hóa là đặc trưng cơ bản để phân biệt chủ nghĩa hiện thực phê phán với chủ nghĩa lãng mạn như X.M.Petorop đã khẳng định “Phạm trù điển hình là phạm trù quan trọng nhất của mĩ học hiện thực”. Điển hình là những nét mang tính bản chất, quy luật, những tính cách quan trọng nhất, nổi bật nhất trong đời sống con người được thể hiện qua sáng tạo của người nghệ sĩ. “Điển hình là một sự khái quát cao của sáng tạo nghệ thuật” (Trần Đình Sử). Chỉ khi nào nhà văn sáng tạo được hình tượng mang màu sắc cái riêng thật sắc nét cá tính, sinh động, là “con người này”, và cái chung lại phải thật khái quát, hơn nữa phải hài hòa cao độ thì mới có điển hình. Nó là kết quả của sự xuyên thấm nhuần nhuyễn giữa cá thể hóa và khái quát hóa ở mức độ cao. Tính điển hình là hình thức biểu hiện ở trình độ cao của hình tượng trong tác phẩm văn học. Trong bức thư gửi nhà văn Hacnet, Enghen có một câu nổi tiếng “Theo ý tôi, đã nói đến chủ nghĩa hiện thực, thì ngoài sự chính xác của các chi tiết, còn phải nói đến sự thể hiện những tính cách điển hình trong những hoàn cảnh điển hình”. Như vậy vấn đề điển hình không chỉ gắn với chủ nghĩa hiện thực mà còn thể hiện trên hai bình diện: tính cách điển hình và hoàn cảnh điển hình. Tính cách điển hình là sự thống nhất hữu cơ giữa những đặc tính phổ biến và những đặc tính cá biệt, đặc thù trong một nhân vật. 7 Do đó, nhân vật điển hình của văn học theo nhà phê bình Belinxki là “người lạ quen biết”, là “nhân vật mà tên của nó trở thành danh từ chung”, còn Lỗ Tấn phát biểu hóm hỉnh rằng “Nhân vật của ông có tà áo Nam Kinh, cái cúc Chiết Giang, cái miệng Thượng Hải và đôi mắt Phúc Kiến”. Tính khái quát của hình tượng nhân vật, tính chung của điển hình mà các nhà văn hiện thực từng quan niệm là ”con người lắp ghép, vai chắp vá” đã được Lỗ Tấn phát biểu trong ”Tạp văn tuyển tập” ”Lấy ở mỗi người một nét, cho nên trong số những người liên quan đến tác giả, không thể tìm ra ai giống như thế. Nhưng vì lấy ở mỗi người một nét, nhiều người thấy phần nào lại giống mình, và cũng dễ làm cho nhiều người phát cáu”. Trong ”Phòng trưng bày vật cổ” Banzac đã cho rằng ”Muốn vẽ một hình tượng đẹp thì mượn dùng cánh tay của người mẫu này, chân của người mẫu kia, ngực của người mẫu nọ và đôi vai của người mẫu khác nữa”. Nhờ sự khái quát hóa ấy, tính cách nhân vật sẽ ”tiêu biểu cho các giai cấp và các trào lưu nhất định, do đó, tiêu biểu nhất định cho các tư tưởng nhất định của thời đại”. (Angghen). Bên cạnh tính chung, khái quát hóa, nhân vật điển hình phải có tính riêng, cá thể hóa cao độ, khiến nhân vật vừa quen vừa lạ. Cá thể hóa nhân vật không phải là để nhân vật làm những việc độc đáo kì lạ mà bản chất, tính cách riêng của nhân vật vẫn được bộc lộ thông qua cách làm độc đáo đối với những sự việc bình thường. Khi có tính cá thể hóa nhân vật tự thân trở nên sinh động, hấp dẫn, chẳng thế mà các nhà hiện thực nổi tiếng luôn ám ảnh về nhân vật của mình, như Nguyễn Công Hoan khắc khoải về người nông dân điêu đứng vì nạn tranh cướp ruộng đất của bọn cường hào ác bá, còn Ngô Tất Tố day dứt với số kiếp long đong lận đận vì nạn sưu thuế của người nông dân. Đến Nam Cao – đại diện xuất sắc cho chủ nghĩa hiện thực phê phán giai đoạn 30-45 ám ảnh về người nông dân không chỉ rơi vào cảnh bần cùng hóa mà đau đớn hơn khi bị lưu manh hóa, tha hóa về nhân cách. Như vậy, nếu như tính chung đòi hỏi nhà văn dám xông vào giữa cuộc đời để nắm bắt thì tính riêng đòi hỏi nhà văn có khả năng phân tích, xử lý những biến thái tinh vi trong tâm lý nhân vật. Để hình tượng mang tính khái quát hóa nhà văn cần có vốn sống phong phú nhưng để hình tượng độc đáo, sinh động thì đòi hỏi nhà văn phải có khả năng sáng tạo. 8 Để xây dựng được chân dung điển hình vừa mang cái riêng sắc nét, vừa mang cái chung khái quát cao, là sự thống nhất của tính cá thể hóa và khái quát hóa, nhà văn luôn có ý thức đặt nhân vật trong quan hệ nhiều chiều, trong hoàn cảnh cụ thể, trong cái nhìn vừa tương phản, vừa tương đồng tạo ra tính đối thoại sâu sắc. 2.Nhân vật điển hình Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên cuả Nam Cao 2.1. ”Chí Phèo” với các tác phẩm cùng giai đoạn Trong văn học hiện thực phê phán 1930-1945 đã xây dựng những nhân vật nông dân mang số kiếp long đong, khốn khổ như tiểu thuyết ”Vỡ đê” của Vũ Trọng Phụng, ”Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, ”Nhà bố Nấu” của Nguyên Hồng, ”Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan...Trong ”Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan hiện lên hình ảnh người nông dân điêu đứng , bị phá sản vì mưu mô, thủ đoạn tranh ruộng, cướp đất của bọn địa chủ cường hào. Ngô Tất Tố, với ”Tắt đèn” đã dựng lên cuộc đời của người nông dân gặp nhiều oan trái, ”hết nạn nọ đến nạn kia”, long đong lận đận vì nạn sưu thuế. Một không khí nông thôn oi ngạt, bức bối, căng thẳng, sôi sục đã được dựng lên mà ở đó người sống không yên thân, người chết cũng không yên mồ yên mả trong những ngày thúc thuế. Còn Nam Cao lại ám ảnh bởi một nông thôn nghèo đói, xơ xác, hoang vắng, heo hút ở đó người nông dân có số phận hết sức bi thảm. Cùng viết về đề tài người nông dân trong xã hội thực dân phong kiến các nhà văn như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan hay Nam Cao đều phản ánh sâu sắc và chân thật tình trạng khốn cùng của người nông dân Việt Nam trên con đường bị bần cùng hóa. Chí Phèo nằm trong quy luật ấy. Không có tiếng trống dồn sưu, thúc thuế vang lên dồn dập, không có cảnh tranh ruộng cướp đất đẩy con người vào cơn túng quẫn, cùng đường phải bán rợ đợ con, xã hội của văn Nam Cao trong ”Chí Phèo” là sự thu nhỏ ở làng quê – một không gian tù túng, ngột ngạt mà bọn phong kiến có thể đẩy con người vào cảnh cùng đường tuyệt lộ phải bán nhân phẩm, nhân cách của mình, bán đi nhân hình nhân tính. Nhưng khác với Ngô Tất Tố hay Nguyễn Công Hoan tập trung vào nỗi khổ tột cùng về vật chất của người nông dân thì với Chí Phèo người nông dân còn đau đớn hơn với nỗi khổ về tinh thần. Nam Cao đã ném ra giữa cuộc đời một thằng cùng hơn cả dân 9 cùng, là điển hình cho những gì tủi cực nhất của người nông dân trong xã hội thực dân phong kiến, không chỉ vậy còn là điển hình cho những gì tủi cực khổ đau nhất cho một kiếp người trên cõi đời này. Có thể nói, với Chí Phèo, Nam Cao đã khái quát hóa tìm ra hình tượng mang bản chất xã hội, cá tính hóa nhân vật đến cao độ giúp cho nhà văn có cái nhìn tiêu biểu nhất, quan trọng nhất, toàn diện nhất cho một kiểu người, lớp người trong xã hội, đồng thời tạo nên diện mạo riêng cho Chí Phèo. Chí Phèo là ”nhân vật lạ mà quen biết”. Chính điều đó làm nên sức sống lâu bền cho nhân vật điển hình. Chí Phèo như một chiếc chìa khoá để nhà văn khám phá cuộc đời, đề tài xây dựng nên một nhân vật điển hình không chỉ của một xã hội mà đó là điển hình của cả một nhân loại: Người nông dân hiền lành, lương thiện, giàu lòng tự trọng và có ước mơ trong sáng, nhưng sống trong cái xã hội " Quần ngư tranh thực" họ đã bị đẩy đến bước đường cùng: "Làm quỷ thì sống mà làm người thì tất yếu phải chết". 2.2.Chí Phèo – điển hình cho nỗi khổ về vật chất và nỗi đau về tinh thần của người nông dân Chí Phèo là điển hình cho nỗi đau về vật chất của người nông dân. Hành trang bước vào đời của Chí là một số O tròn trĩnh: là một đứa con hoang, không cha, không mẹ, không một tấc đất cắm dùi. Đến năm hai mươi tuổi Chí Phèo làm canh điền cho nhà Bá Kiến, tiếp tục cuộc sống làm kiếp trâu ngựa của người cố nông lao động nghèo khổ ở nông thôn. Đến lúc có tài sản là một túp lều cuối làng thì Chí cũng đã phải chà đạp biết bao số phận khốn khổ khác, được lấy từ nỗi đau của người khác. Nam Cao đã để Chí phát biểu một câu tiêu biểu cho nỗi khổ cùng cực của người nông dân dưới chế độ thực dân phong kiến ”Xin cụ cho con đi ở tù. Ở tù mới có cơm mà ăn”. Thật đau xót khi có miếng ăn Chí phải giành giật, dọa nạt, đâm thuê chém mướn, xin đi ở tù và cuối cùng phải bán dần, bán lẻ nhân hình, nhân tính của mình. Chị Dậu khổ nhưng chị còn được làm người mà Chí muốn sống trong làng ”quần ngư tranh thực” ấy thì phải trở thành con quỷ dữ. Chí Phèo đã trượt dài trên con đường tha hóa. Đọc ”Tắt đèn” cảm thông sâu sắc với nỗi khổ đè nặng trên đôi vai gày yếu, nỗi đau xé lòng của chị Dậu, tưởng như chị đã là nỗi đau tột cùng nhưng khi Chí Phèo với tiếng chửi tục tĩu, khuôn mặt đầy vết sẹo, bước chân khật khưỡng đi trên những dòng văn của Nam Cao ta mới thấy rằng đó là kẻ khốn cùng 10 nhất của nông dân Việt Nam ngày trước. Nam Cao đã khái quát được một quy luật mà các tác phẩm hiện thực phê phán khác chưa đề cập được đó là hiện tượng người nông dân bị đẩy vào con đường lưu manh hóa. Những tưởng đã cùng cực với nỗi đau về vật chất thì Chí Phèo còn là điển hình cho nỗi đau về tinh thần của người nông dân. Chị Dậu trong ”Tắt đèn” phải bán con bán chó để cứu chồng, âu cũng là trắng tay tưởng không còn gì để bòn kiếm hơn nhưng Chí Phèo còn tìm kiếm được cái quý giá nhất của mình đó là nhân tính, linh hồn. Chị Dậu dù nghèo xác xơ nhưng vẫn được là người còn Chí khi bán linh hồn thì đã trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại. Con quỷ dữ ấy đã bị xã hội dứt khoát, lạnh lùng cự tuyệt, gạt bỏ ra ngoài đồng loại. Trong con mắt của làng Vũ Đại Chí Phèo là ”thằng không cha”, ”chỉ có một nghề là nghề rạch mặt ăn vạ”. Tất cả dân làng đều sợ hắn đến nỗi không ai coi hắn tồn tại trên đời thành ra mỗi lần Chí chửi bới, la làng, người ta ”mặc thây cha nó”, ”không ai thèm lên tiếng”, ”đáp lại hắn chỉ có lũ chó xao lên trong xóm”. Người ta khinh bỉ Chí đến mức hắn chỉ mong có kẻ chửi nhau với hắn mà không được. Chí chửi cũng là một cách mong người đời giao tiếp với hắn nhưng thật đau xót cuối cùng chỉ có Chí với lũ chó ầm ĩ cả làng. Cuộc đời Chí càng chìm sâu xuống vũng bùn tăm tối – một cuộc sống không linh hồn, mất hết ý niệm về thời gian, không biết cuộc đời mình ”đã dài bao nhiêu năm rồi”. Chí cũng không ý thức được hành động tội lỗi của mình ”có lẽ hắn không biết rằng hắn là quỷ dữ của làng Vũ Đại, đã tác quái bao nhiêu dân làng...”Chí triền miên trong những cơn say, cứ cơn nọ tràn sang cơn khác ”ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu, dọa nạt trong lúc say...” Cuộc đời Chí tưởng như cứ chết dần chết mòn trong sự ruồng bỏ của nhân loại, trong tăm tối và tội lỗi nhưng cuộc gặp gỡ với Thị Nở– một người đàn bà ma chê quỷ hờn sẽ như chiếc phao nhỏ mong manh cứu vớt cuộc đời Chí, sẽ là cầu nối giữa Chí và loài người. Chí nhớ lại những ước mơ thuở xưa, nhớ lại cuộc đời lương thiện và thèm ’làm hòa với mọi người biết bao” nhưng Chí đã bị rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người khi thị Nở đã ”trút vào y tất cả những lời thậm tệ của bà cô”, đã ”vùng vằng ra về” mặc cho Chí ”sửng sốt đứng lên gọi lại”, rồi ”đuổi theo nắm lấy tay thị”. Tủi nhục ê chề, Chí 11 lại lao vào rượu. Nhưng lạ lùng thay Chí càng uống càng tỉnh, càng ngửi thấy hơi cháo hành – dư vị của tình thương lần đầu Chí được hưởng. Chí ”ôm mặt khóc rưng rức”. Trong cái dáng vẻ ấy chất chứa biết bao nỗi cô đơn, tuyệt vọng. Bi kịch của Chí đã đạt đến mức tột cùng của sự bi thảm. Như vậy theo Nam Cao con người đau khổ nhất không phải là đói cơm rách áo mà là bị đồng loại ruồng bỏ. Với Chí Phèo, Nam Cao đã khái quát được những vấn đề bức xúc của con người trong thời đại 30-45. Ngật ngưỡng bước ra từ trang văn của Nam Cao, Chí Phèo là điển hình cho số phận của bao người dân An Nam xưa. Trong làng Vũ Đại không chỉ có một mình Chí Phèo mà còn có những Năm Thọ, Binh Chức bị xô đẩy vào con đường tội lỗi như là hiện tượng đầy ám ảnh về sự thật tàn nhẫn ”tre già, măng mọc, bao giờ hết những thằng du côn”. Và hình ảnh cái lò gạch cũ xuất hiện đầu cuối tác phẩm góp phần cùng với điển hình Chí Phèo đã khái quát một hiện tượng xã hội trước cách mạng, hiện tượng có tính quy luật khủng khiếp: chừng nào còn áp bức bóc lột nặng nề chừng ấy những người dân lương thiện sẽ bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. Tuy nhiên hình ảnh đó cũng gợi về một cách kết thúc chưa hoàn kết, chưa xong xuôi gợi ra mâu thuẫn, xung đột chưa kết thúc. Nó gợi nhiều suy tư về hiện thực xã hội, về thân phận người nông dân trong thời kì xã hội trước cách mạng tháng Tám. 2.3.Chí Phèo- sự sáng tạo độc đáo của Nam Cao Nếu như chỉ dừng lại xây dựng Chí Phèo với những điển hình cho nỗi đau khốn cùng của người nông dân đẩy dần họ vào tăm tối, u mê, vào con đường phải thành “đầu trộm đuôi cướp” mới tồn tại được thì chắc rằng tác phẩm ấy, nhân vật ấy sẽ không có sức sống lâu bền như thế. Bản thân Nam Cao luôn trăn trở về nghề viết văn của mình, luôn tâm niệm một điều tác phẩm có giá trị là khi nhà văn biết “biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có...”Ông không chấp nhận cái nhìn giản đơn đối với hiện thực cuộc sống, luôn khai thác thế giới nội tâm sâu kín của nhân vật “phát giác sự vật ở những bề chưa thấy, ở cái bề sâu, ở cái bề sau, ở cái bề xa” (Chế Lan Viên). Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã làm được điều đó – là sự sáng tạo độc đáo của người nghệ sĩ luôn ấp ủ hoài bão với nghề. Ông đã dùng tình thương để cảm hóa kẻ lầm đường ấy và để thức tỉnh xã hội vô tình. Ông đã tìm thấy và khẳng định bản 12 chất lương thiện đẹp đẽ, bền vững của con người, ngay cả khi họ đã vùi dập tới mức méo mó cả nhân hình lẫn nhân tính. Nam Cao đã xây dựng nên một Chí Phèo có xuất thân đặc biệt. Đau đớn cho Chí ngay cả những kẻ sinh ra hắn cũng không hề muốn hắn làm người ”Một anh đi thả ông lươn, một buổi sáng tinh sương, đã thấy hắn trần truồng và xám ngoắt trong một cái váy đụp để bên một cái lò gạch cũ bỏ không”. Họ vứt hắn đi như một thứ tội nợ, mặc dù hắn chẳng có tội tình gì. Rồi Chí cứ bị xã hội ấy ”quăng quật” đến tàn nhẫn khi bị người đàn bà góa mù ”bán” cho một bác phó cối không con. Với những chữ như “rước”, “bán”, “cho” Nam Cao đã miêu tả nhân vật của mình giống như một thứ đồ vật bị người ta chuyển tay. Khi bác phó cối chết thì hắn ”bơ vơ, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”. Thật khó có thể thấy trên đời này có đứa trẻ nào khốn khổ tủi nhục hơn thế. Mặc dù sinh ra trong một cảnh ngộ cay đắng tủi nhục như vậy, nhưng được nuôi dưỡng bởi những con người nghèo khổ, lương thiện những phẩm chất tốt đẹp của Chí được khơi dậy và lớn lên. Nam Cao đã khẳng định chân lý: tính cách là con đẻ của hoàn cảnh, hoàn cảnh lương thiện sẽ sinh ra những tính cách tốt đẹp. Chí sẽ vẫn là anh canh điền “hiền lành như đất” nếu như sống trong hoàn cảnh lương thiện nhưng chỉ vì cơn ghen vô cớ, Bá Kiến đã kiếm cớ đẩy Chí vào nhà tù. Nhà tù đã “đẻ ra” một anh Chí Phèo khác hẳn. Nam Cao đã dụng công miêu tả Chí trong bộ dạng giống như một quái nhân mà chưa tác phẩm trước đó hay cùng thời có, nếu đọc thoáng qua sẽ có người quy chụp ông bị ảnh hưởng của chủ nghĩa tự nhiên. Nhưng không, ngoại hình của Chí xấu xa, gớm ghiếc bao nhiêu thì càng khiến tiếng nói tố cáo hiện thực của Nam Cao thêm sâu sắc. Ngoại hình của hắn làm cho người dân làng Vũ Đại phát khiếp “Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trong gớm chết. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm trùy”.Chính nhà tù đã biến Chí thành kẻ du côn, lưu manh. Nam Cao đã tô đậm quãng đời làm con quỷ dữ của làng Vũ Đại của Chí bằng hai chi tiết chân thực nhất đó là những cơn say và tiếng chửi. Chưa có kẻ lưu manh trong các tác phẩm văn học Việt Nam lại chửi như Chí “Hắn vừa đi vùa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi 13 hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng tự nhủ: “Chắc nó trừ mình ra”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không?” Với bài chửi độc đáo của mình Chí Phèo đã tỏ ra rất tỉnh táo giữa những cơn say. Hắn đã sắp xếp các đối tượng mình chửi theo một trật tự đầy ý nghĩa: “từ trời, đến đời, đến cả làng Vũ Đại, đến đứa nào không chửi nhau với hắn...”Đây là một trật tự từ cao tới thấp, từ xa tới gần, từ trừu tượng vu vơ đến cụ thể trực tiếp. Thật ra, Chí Phèo đang cố gắng đi tìm ai là kẻ đã đẩy đời mình đến nông nỗi này. Hắn muốn có lời giải đáp cho câu hỏi: “đứa chết mẹ nào đẻ ra cái thằng Chí Phèo?”Qua tiếng chửi không có người đáp lại của Chí, ta hình dung ra một số phận khốn khổ. Chí Phèo là một kẻ không cha, không mẹ, lại bị cả làng Vũ Đại ruồng bỏ. Không ai thèm lên tiếng đáp lại hắn. Chí tự chửi, tự nghe. Điều ấy chứng tỏ hắn là một kẻ lạc loài, là một số phận vô cùng cô đơn trong xã hội làng Vũ Đại. Trong tiếng chửi của Chí Phèo vừa có nỗi uất hận, vừa có một nhu cầu tha thiết. Chí mong có người chửi lại mình cũng có nghĩa là muốn được mọi người đối xử với mình như với một con người. Chí Phèo cứ trượt dài trên con đường tha hóa của mình nếu như không gặp thị Nở. Thị Nở là một sáng tạo nghệ thuật của Nam Cao. Thị cũng là một công trình nhỡ tay của tạo hóa. Tuy thuộc về phái đẹp nhưng thị lại có tất cả những gì mà một người phụ nữ không bao giờ muốn có. Mối tình giữa thị và Chí Phèo không phải là mối tình của hai kẻ nửa người nửa ngợm như nhan đề “đôi lứa xứng đôi” mà một nhà xuất bản đã đặt tên. Đó là một tình yêu thông thường vì có đầy đủ các cung bậc như của tình yêu như gặp gỡ - tỏ tình – cầu hôn – thất tình. Thậm chí đây còn là tình yêu đẹp vì nó làm cho hai cuộc đời trở nên tốt đẹp hơn. Từ khi gặp thị Nở, Chí Phèo dần dần từ con vật trở lại kiếp con người. Lần đầu tiên hắn thấy “sợ rượu”, cũng là lần đầu tiên hắn tỉnh rượu để nghe thấy tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. “Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”. Những âm thanh quen thuộc, thường nhật ngày nào mà chẳng có, nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy. Cuộc đời bình dị, thậm chí còn nhiều nhọc nhằn, vất vả nhưng đáng yêu và đáng sống biết bao. Tiếng hai người đàn bà hỏi nhau về 14 giá vải gợi nhắc cho Chí nhớ lại ước mơ thời hắn hai mươi tuổi: “Có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”. Cái giấc mơ ấy đơn sơ mà sao mãi đến bấy giờ hắn chưa thực hiện nổi. Nghĩ đến đây hắn thấy “buồn”. Nỗi buồn này làm cho tâm hồn Chí trong trẻo hơn. Nhớ về quá khứ hắn thấy “buồn” còn nhìn về tương lai hắn thấy “sợ” : sợ tuổi già, đói rét, ốm đau và sợ nhất là cô độc. Từ chỗ nghe thấy âm thanh bình dị của cuộc sống, nhớ lại ước mơ thuở 20 tuổi đến chỗ biết buồn, biết sợ chính là quá trình nhân tình dần dần trở về trong Chí. Bát cháo hành là chi tiết nghệ thuật tài tình của Nam Cao, tạo ra bước ngoặt lớn trong tâm lý và số phận của Chí Phèo. Khi nhận được bát cháo hành lúc đầu Chí “ngạc nhiên”, sau thấy “mắt hình như ươn ướt”. Bát cháo hành tuy đơn sơ nhưng lại là tình người lần đầu tiên Chí được đón nhận. Với bát cháo hành, Nam Cao đã xúc động khẳng định: nhân tình của con người rất bền vững, chỉ có thể bị vùi lấp chứ không thể bị hủy diệt. Chỉ cần nhỏ vào tâm hồn u tối một giọt tình thương lập tức tính người sẽ thức dậy. Chính tình thương của thị đã khơi dậy phần người trong Chí. Từ chỗ “tỉnh rượu” bát cháo hành đã làm Chí “tỉnh ngộ”. Chí khao khát hoàn lương, khao khát mãnh liệt “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện”. Thị có thể mở đường cho hắn về với loài người. Như người chết đuối vớ được cọc Chí đã nói với thị bằng những lời chân tình tha thiết nhất “Gía cứ thế này mãi thì thích nhỉ? Hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui?”.Năm ngày ngắn ngủi ở bên thị hắn đã sống như một con người: hắn đã cố uống ít rượu và không làm một điều gì có hại cho những người xung quanh. Khát vọng hoàn lương thật cháy bỏng trong Chí. Nhưng định kiến xã hội đã chặn đứng sự trở về với xã hội loài người của Chí. Thị Nở xét đến cùng tuy sống ở rìa làng, tuy bị coi là “một vật rất tởm” nhưng thị vẫn thuộc vào xã hội loài người. Thị như một thứ đồ phế thải của làng Vũ Đại nhưng khi Chí Phèo nhặt lấy, định coi là của riêng mình thì họ lại xông đến cướp lại. Làng Vũ Đại chủ yếu là những người nông dân thất học, đầy những thành kiến định kiến độc ác mà bà cô thị Nở là người đại diện phát ngôn đã tuyên bố thẳng thừng “Ai lại đi lấy cái thằng Chí Phèo”. Cánh cửa duy nhất để hắn có thể trở về với xã hội loài người đã đóng sập. Chí định trở lại con đường cũ, bản tính lưu manh trỗ dậy nhưng hương vị tình thương của bát cháo hành, nhân tính vừa thức dậy đã ngăn hắn lại. Trong cơn tuyệt vọng, hắn lấy rượu ra uống 15 nhưng lần này lạ thay “càng uống càng tỉnh”. Hắn không thấy hơi rượu mà cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành. Hương vị của tình người cứ ám ảnh dày vò Chí. “Hắn ôm mặt khóc rưng rức” những giọt nước mắt của Chí lúc này chứng tỏ nhân tính đã trở về trọn vẹn trong hắn. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến sau khi uống rất nhiều rượu. Hành động của Chí lúc này đã được Nam Cao khắc họa rõ nét. Lúc đầu Chí định đến nhà Thị Nở nhưng không hiểu sao chân hắn lại đưa hắn đến nhà Bá Kiến. Có lẽ trong sâu thảm tiềm thức hắn đã nhận ra kẻ hủy hoại đời mình chính là Bá Kiến chứ không phải bà cô thị Nở. Chí đã đi chệch đường nhưng đúng hướng. Bá Kiến có lúc cả giận mất khôn đã cư xử với Chí như một con vật, đã mỉa mai khát vọng lương thiện của Chí. Vừa đau đớn, vừa căm giận, Chí trợn mắt lên, dõng dạc đòi lại cái quý nhất của đời mình đã bị Bá Kiến cướp mất. “Tao muốn làm người lương thiện”. Chí cũng tỉnh táo nhận ra tình thế bế tắc của mình. Hắn chỉ rõ hai nguyên nhân đẩy hắn vào bước đường cùng “Ai cho tao lương thiện?” chính là ám chỉ Bá Kiến, kẻ đã đẻ ra con quỷ dữ làng Vũ Đại. “Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này?” chính là ám chỉ những định kiến tàn ác của xã hội làng Vũ Đại đã chặn đứng khát vọng hoàn lương của Chí. Để bảo toàn tính người vừa trở về Chí đã hành động đột ngột nhưng hoàn toàn logic: đâm chết Bá Kiến và sau đó tự sát. Bá Kiến chết đau đớn đúng với quy luật kẻ gieo gió gặt bão. Hành động này dự báo mâu thuẫn giữa hai tầng lớp nông dân và địa chủ trong xã hội Việt Nam đã gay gắt tới mức không điều hòa nổi. Người ta thấy cách mạng tháng 8 có mầm mống từ tia chớp của lưỡi dao Chí Phèo. Còn Chí, nhờ lưỡi dao mà khẳng định rằng: thà chết như một con người còn hơn sống như một con vật. Hành động có giá trị tố cáo sâu sắc. Nam Cao đã xây dựng Chí Phèo với những đặc tính cá biệt, cá biệt từ tính cách đến hành động. Chí Phèo đã được khắc họa cả ngoại hiện bên ngoài lẫn chiều sâu bên trong. Vốn là anh nông dân hiền lành như đất thế nhưng qua bốn bức tường lao lí ra cuộc đời Chí đã trở thành con quỷ dữ. Chí cứ đắm chìm mãi trong những cơn say dài, tiếng chửi của Chí ám ảnh tâm can người đọc và Chí phản kháng bằng con đường lưu manh. Chí vừa là quỷ dữ, vừa là cục sáp trong bàn tay kẻ thống trị và vừa là nô lệ thức tỉnh khi đâm chết Bá Kiến lấy máu để rửa thù rồi tự sát để bảo toàn nhân phẩm mới trở về. 16 2.4. Mối quan hệ giữa nhân vật và hoàn cảnh Quan hệ tương phản, đối lập: Giữa Chí Phèo với Bá Kiến (nông dân/ địa chủ phong kiến; kẻ thống trị với người bị trị, kẻ gây tội ác/ nạn nhân phải hứng chịu tội ác đó); giữa Chí Phèo với dân làng Vũ Đại (Chí vừa là tội nhân gây ra đau khổ nhưng cũng là nạn nhân của những định kiến nặng nề); Giữa dân làng Vũ Đại với Bá Kiến, giữa các phe cánh cai trị ở làng Vũ Đại: Cánh Bá Kiến, Đội Tảo, Bát Tùng… (bề ngoài thì có vẻ đối xử tử tế với nhau nhưng thực chất ngấm ngầm mưu hại chia bè kéo phái, lật đổ nhau)… Song, điều đặc sắc nữa là các mối quan hệ này đều có sự tương phản giữa hình thức biểu hiện ra bên ngoài với bản chất bên trong của nó. Và các mối quan hệ đối lập, thậm chí thù địch này, bản chất xã hội thực dân phong kiến ở nông thôn Việt Nam thời trước Cách mạng được bộc lộ rõ nét qua hình ảnh làng Vũ Đại điển hình, với hai đặc điểm nổi bật là “quần ngư tranh thực” và định kiến nặng nề. Chính xã hội ấy đã đẻ ra những sản phẩm như Chí Phèo, bởi muốn tồn tại trong xã hội đó phải mạnh, phải liều, và cũng gây ra những bi kịch bi đát như Chí Phèo vì những định kiến nặng nề đã tuyệt đường trở về cuộc đời lương thiện của những con người như Chí. Đây chính là một phương diện để thâm nhập kết cấu bề sâu, thấu tỏ những nội dung, tư tưởng sâu sắc và những kiến giải biện chứng của Nam Cao về mối quan hệ giữa tính cách, số phận con người với hoàn cảnh sống. Quan hệ tương đồng: Chí Phèo/ Thị Nở; Chí Phèo với người làng Vũ Đại (đều là người nông dân bị áp bức, bóc lột); Chí Phèo với Năm Thọ, Binh Chức; Bá Kiến với các phe cánh khác như Đội Tảo; Thị Nở với Bà cô và dân làng Vũ Đại… Như thế ngay trong những quan hệ tương phản có những tương đồng và ngay trong những con người tương đồng lại có những mâu thuẫn gay gắt. Các mối quan hệ của nhân vật trong tác phẩm rất phức tạp, đan chéo, chằng chịt. Tương phản hay tương đồng chỉ ở một khía cạnh và ở cái nhìn, cách cảm nào mà thôi. Khi nhân vật được nhìn từ nhiều điểm, nhiều ý kiến, nhiều sự cảm khác nhau sẽ tạo ra một chân dung điển hình, toàn vẹn trong sự đối thoại sâu sắc. và đánh giá hình tượng Chí Phèo cũng không thể quy chụp giản đơn theo một cái nhìn nào. Bởi Chí là con người đa tư cách, một nhân vật sống với tất cả những đặc điểm chân thực, đa dạng nhất. 17 Trước hết là quan hệ Chí Phèo với làng Vũ Đại, với xã hội. Quan hệ này cũng không đơn giản vì làng Vũ Đại như quê hương của Chí, nuôi dưỡng Chí. Nhưng cũng chính làng Vũ Đại, với những định kiến nặng nề, cố hữu đã khước từ Chí, không cho Chí một con đường trở về. Và đến lượt Chí, hắn cũng khiến cho cả làng Vũ Đại khiếp sợ, sống không yên ổn bởi những tội ác, những vụ cướp phá, mưu hại. Làng Vũ Đại cho Chí một hy vọng là Thị Nở nhưng lại nhanh chóng cướp đi bằng những phát ngôn của bà cô thị. Cái làng quê này – “mảnh đất quần ngư tranh thực” không cho chí một con đường sống nào khi ở tù ra, không một tấc đất cắm dùi, không cha mẹ, người thân… và đẩy hắn làm tay sai cho Bá Kiến, đẩy hắn vào sự lựa chọn duy nhất để tồn tại: phải liều lĩnh để mạnh, và muốn liều thì phải say. Như thế, Chí Phèo vừa là nạn nhân của hoàn cảnh, không chỉ là những áp bức, bóc lột mà còn cả do môi trường sống quần ngư tranh thực và định kiến nặng nề. Nhưng Chí cũng làm cho cái hoàn cảnh ấy thêm nhiều căng thẳng, cùng cực. Bên cạnh đó, các nhân vật khác như Bá Kiến, bà cô thị Nở… đều là những con người xây dựng, củng cố cái hoàn cảnh sống theo những cách của mình. Rất ít nhân vật trong tác phẩm chống lại hoàn cảnh, muốn làm thay đổi hoàn cảnh. Chỉ có Chí, thị chống lại hoàn cảnh nhưng kết cục không thể thắng. Bởi Chí hoàn toàn đơn độc, thị Nở lại nửa vời. Thị vẫn chưa vượt qua được những suy nghĩ, quan niệm cố hữu, bám rễ sâu bền trong suy nghĩ, trong lối sống của làng bởi xét đến cùng Thị Nở cũng là một người phàm, một người thường. Và xét trên phương diện này, bi kịch của Chí Phèo, của thị Nở là bi kịch của con người cá nhân, của quan niệm sống cá nhân trước những cái được mặc định cố hữu của xã hội, trước suy nghĩ muôn đời của bầy đàn. 3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình Chí Phèo của Nam Cao 3.1.Kết cấu cốt truyện Sự dồn nén của thời gian nghệ thuật tạo nên độ căng của trần thuật, tạo nên kịch tính cho tác phẩm: toàn bộ thời gian nghệ thuật của tác phẩm là 6 ngày cuối cùng của cuộc đời Chí Phèo. Tuy nhiên, trong một khoảng thời gian ấy, toàn bộ cuộc đời Chí Phèo được tái hiện qua những hồi tưởng, rồi tiếp tiến đến khi kết thúc. Các sự kiện được sắp xếp liên tục, chồng xếp, đồng hiện tạo nên nhịp điệu trần thuật nhanh, với hàng loạt biến cố trong cuộc đời của Chí Phèo. Với cách tổ chức cốt truyện và trần thuật như vậy đã gia tăng khả năng phản ánh hiện thực một cách đầy đặn và toàn diện của tác phẩm. 18 Cốt truyện được tổ chức theo lối đan xen các tuyến, các mảng, các quan hệ theo một trục chính của nhân vật Chí Phèo: Chí Phèo – Bá Kiến, Chí Phèo – Thị Nở, Chí Phèo – người dân làng Vũ Đại; Chí Phèo với những hiện tượng Năm Thọ, Binh Chức… Bên cạnh đó, cốt truyện còn được gia tăng kịch tính với những tình huống mang tính bước ngoặt: ba lần chí Phèo đến nhà Bá Kiến, Chí Phèo gặp thị Nở, Bà cô thị Nở cấm đoán tình yêu của Chí và thị… Cả những chi tiết miêu tả về ngoại hình, chân dung, tâm lý, lai lịch, bói cảnh, các chi tiết giới thiệu về làng Vũ Đại… Tất cả tạo nên một nhân vật đầy đặn, với số phận, tính cách, những trạng thái tâm lý điển hình. Đặc biệt, cách tổ chức cốt truyện như vậy đem đến cái nhìn hiện thực ở cả chiều rộng và chiều sâu. 3.2.Tổ chức điểm nhìn trần thuật Tác phẩm trần thuật theo ngôi thứ ba, theo điểm nhìn của người kể. Nhưng điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm có sự di chuyển linh hoạt từ người kể sang nhân vật và ngược lại. Vì vậy, nó tạo nên cấu trúc đa giọng, đa thanh: có giọng khách quan của người trần thuật, giọng nhân vật, giọng nửa nhân vật, nửa người kể chuyện. Như thế, luôn luôn có sự chuyển dịch từ cái nhìn bên ngoài vào cái nhìn bên trong nhân vật. Chính vì vậy, nhân vật được cảm nhận sâu sắc, không chỉ là các yếu tố ngoại hiện mà còn có các yếu tố nội tâm, những ước mơ thầm kín, những góc khuất sâu tẳm của tâm linh. Và do đó, người đọc có cách tiếp cận đa chiều, để có thể lý giải hiện thực và những số phận của người nông dân trong tác phẩm, đồng cảm với tư tưởng nhân đạo của nhà văn. 3.3.Ngôn ngữ Ngôn ngữ của Nam Cao sống động, khỏe khoắn, tinh tế, uyển chuyển, chỉ có thể là ngôn ngữ của một nhà văn đã gắn bó sâu sắc với cuộc sống lam lũ của người lao động. Như trong tiếng chửi của Chí Phèo – một người nông dân lương thiện bị lưu manh hóa khác với Xuân tóc đỏ của Vũ Trọng Phụng –một kẻ lưu manh hóa theo kiểu thành thị thì ngôn ngữ của Chí mang đậm chất nông dân. Nhà văn đã dùng rất nhiều khẩu ngữ, thậm chí dùng những từ thô tục, suồng sã như “chửi trời”, “chửi đời”, “chửi cha đứa nào”, “mẹ kiếp”...Khẩu ngữ được đánh giá là “máu của văn xuôi nghệ thuật”, quả là rất đúng với trường hợp Nam Cao. Thứ ngôn ngữ mọc lên từ bùn đất làm cho câu văn của Nam Cao có vẻ “ít đồ trang sức”, nhưng chính nhờ thế mà nó sống động và lột tả được một cách chân thực tính cách nhân vật Chí Phèo. 19 III.KẾT LUẬN Chí Phèo là đại diện cho người nông dân An Nam thời thuộc địa bị bần cùng hóa và lưu manh hóa nhưng cũng là một sáng tạo độc đáo của nhà văn Nam Cao. Ông khẳng định tình thương cứu rỗi con người, khẳng đinh bản chất lương thiện, bền vững của con người ngay cả khi bị vùi dập đến méo mó cả nhân hình và nhân tính. Việc nghiên cứu nhân vật điển hình Chí Phèo trong tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao mở ra cách tiếp cận mới với tác phẩm Chí Phèo nói riêng và tác phẩm văn học nói chung. Giáo viên giảng dạy sẽ linh hoạt truyền thụ kiến thức với từng đối tượng học sinh. Với học sinh học ban cơ bản, tiếp cận tác phẩm “Chí Phèo” từ góc độ nhân vật điển hình sẽ bao quát, thâu tóm, thu nhận được kiến thức nền về nhân vật Chí Phèo bị rơi vào những tấn bi kịch như bi kịch bị bỏ rơi, bi kịch bị xúc phạm nhân phẩm, bi kịch bị lưu manh hóa, bi kịch bị hủy diệt nhân tính và bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, qua đó khái quát giá trị, tư tưởng nhân đạo của nhà văn. Còn với học sinh chuyên, không chỉ có vậy, việc tìm hiểu tác phẩm “Chí Phèo” xuất phát từ lí luận đặc trưng của chủ nghĩa hiện thực cần phải biết đặt tác phẩm trong hệ thống những tác phẩm trước hoặc cùng thời, bên cạnh đó cần đặt nhân vật điển hình Chí Phèo trong tương quan với các nhân vật điển hình của các tác phẩm khác như Xuân tóc đỏ của Vũ Trọng Phụng, hay AQ của Lỗ Tấn để làm nổi bật những sáng tạo mới mẻ của Nam Cao. Qua việc phân tích nhân vật điển hình Chí Phèo, học sinh sẽ rút ra được sự khác biệt giữa phong cách nhà văn Nam Cao với phong cách các tác giả cùng thời. Điều quan trọng khi áp dụng giảng dạy nhân vật điển hình Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao giáo viên sẽ giáo dục học sinh có niềm tin vào bản tính “nhân chi sơ tính bản thiện” của con người để từ đó bao dung, độ lượng với những lầm đường lạc lối, tránh những định kiến nặng nề sẽ đẩy họ đến bước đường cùng phải “ngựa quen đường cũ”. Để tạo nên sự hấp dẫn cho bài dạy giáo viên có thể dùng tranh ảnh minh họa hoặc tổ chức ngoại khóa xem phim “Làng Vũ Đại ngày ấy” để học sinh có điều kiện so sánh các loại hình nghệ thuật khác nhau sẽ xây dựng nhân vật như thế nào? 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan