Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đặc điểm ngữ pháp và ngữ nghĩa của con số trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao việt ...

Tài liệu Đặc điểm ngữ pháp và ngữ nghĩa của con số trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao việt nam

.PDF
149
2937
112

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRẦN THỊ LAM THỦY ĐẶC ĐIỂM NGỮ PHÁP VÀ NGỮ NGHĨA CỦA CON SỐ TRONG THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ, CA DAO VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN NGHỆ AN - 2013 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRẦN THỊ LAM THỦY ĐẶC ĐIỂM NGỮ PHÁP VÀ NGỮ NGHĨA CỦA CON SỐ TRONG THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ, CA DAO VIỆT NAM Chuyên ngành: Lý luận ngôn ngữ Mã số: 62.22.01.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. PHAN MẬU CẢNH NGHỆ AN - 2013 1 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của riêng tôi. Các công trình nghiên cứu khác có liên quan, được trích dẫn trong công trình đều được chú thích rõ ràng ở phần Tài liệu tham khảo. Mọi kiến giải, kết luận là kết quả nghiên cứu của bản thân tôi, không sao chép bất kỳ tài liệu nào. Nếu có gì sai sót, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm. Vinh, ngày 01 tháng 7 năm 2013 NGƯỜI VIẾT Trần Thị Lam Thủy 2 MỤC LỤC Trang Trang bìa phụ ............................................................................................................ 1 LỜI CAM ĐOAN ..................................................................................................................2 QUY ĐỊNH VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN .....................................................................5 CÁC BẢNG THỐNG KÊ TRONG LUẬN ÁN ..................................................................6 MỞ ĐẦU ................................................................................................................................7 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ............................................................................................7 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ ...................................................................................................8 3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ NGUỒN TƯ LIỆU NGHIÊN CỨU ......................16 4. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI ...............................................................17 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..........................................................................17 6. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI ....................................................................................18 7. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN ………………………………………………………19 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN CON SỐ ..................20 1.1. Khái niệm con số ....................................................................................................20 1.1.1. Số từ trong phạm trù ý nghĩa chỉ lượng ..................................................................20 1.1.2. Định nghĩa về số từ .................................................................................................20 1.1.3. Đặc điểm của số từ..................................................................................................21 1.1.4. Về thuật ngữ “con số” .............................................................................................23 1.1.5. Xác định khái niệm “con số” được áp dụng trong Luận án ....................................23 1.2. Thành ngữ, tục ngữ và ca dao và vấn đề con số .....................................................24 1.2.1. Khái niệm thành ngữ, tục ngữ, ca dao ....................................................................24 1.2.2. So sánh thành ngữ, tục ngữ và ca dao .....................................................................26 1.2.3. Cơ sở tìm hiểu đặc điểm con số trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao người Việt .......28 1.3. Lý thuyết về nghĩa ..................................................................................................29 1.3.1. Khái quát về nghĩa ..................................................................................................29 1.3.2. Nghĩa gốc và nghĩa biểu trưng ................................................................................31 1.4. Vấn đề con số trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao từ góc độ ngôn ngữ - văn hóa .....33 1.4.1. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ, tư duy và văn hoá .....................................................33 1.4.2. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ, tư duy, văn hoá trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao .........35 1.4.3. Một số quan niệm về con số trong văn hóa Việt Nam ............................................37 1.5. Tiểu kết ...................................................................................................................44 Chương 2. ĐẶC ĐIỂM NGỮ PHÁP CỦA CON SỐ TRONG THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ, CA DAO ....................................................................................45 2.1. Đặc điểm từ loại của con số trong thành ngữ tục ngữ, ca dao ................................45 2.1.1. Về thuật ngữ Từ loại ...............................................................................................45 2.1.2. Từ loại của con số trong thành ngữ, tục ngữ và ca dao ..........................................46 2.2. Đặc điểm khả năng kết hợp của con số trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao ..............50 2.2.1. Cơ sở xác định đặc điểm khả năng kết hợp của con số ..........................................50 2.2.2. Đặc điểm khả năng kết hợp của con số với các từ loại trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao .......................................................................................................51 2.2.3. Khả năng kết hợp của con số với con số trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao ............58 3 2.3. Đặc điểm chức năng ngữ pháp của con số trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao .........67 2.3.1. Cơ sở xác định chức năng ngữ pháp của con số .....................................................67 2.3.2. Đặc điểm chức năng ngữ pháp của con số trong cụm từ .....................................67 2.3.3. Chức vụ ngữ pháp của con số trong câu .................................................................71 2.4. Tiểu kết ...................................................................................................................74 Chương 3. NGỮ NGHĨA CỦA CON SỐ TRONG THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ, CA DAO .........................................................................................................75 3.1. Bước đầu khảo sát ý nghĩa của con số trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao ...............78 3.2. Nghĩa gốc của con số trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao .........................................76 3.2.1. Con số chỉ thời gian là những ngày, tháng trong năm ............................................76 3.2.2. Con số chỉ tuổi tác ..................................................................................................76 3.2.3. Con số chỉ lượng trong kinh nghiệm lao động, sinh hoạt .......................................77 3.2.4. Con số chỉ đơn vị trong việc đo đếm, tính toán ......................................................77 3.3. Nghĩa biểu trưng của con số trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao ..............................78 3.3.1. Nghĩa biểu trưng của những con số lẻ ....................................................................78 3.3.2. Nghĩa biểu trưng của những con số chẵn................................................................91 3.3.3. Ý nghĩa biểu trưng của những con số lớn .............................................................100 3.3.4. Ý nghĩa biểu trưng của số thứ tự trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao......................102 3.3.5. Nhận xét về ý nghĩa biểu trưng của các con số ....................................................103 3.4. Tiểu kết .................................................................................................................107 Chương 4. VAI TRÒ VÀ ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA CỦA CON SỐ TRONG THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ VÀ CA DAO NGƯỜI VIỆT ........................108 4.1. Vai trò của con số trong thành ngữ, tục ngữ và ca dao .........................................108 4.1.1. Con số góp phần tạo cấu trúc nhịp điệu trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao ...........108 4.1.2. Con số góp phần tạo các biện pháp tu từ trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao .........114 4.1.3. Con số góp phần biểu hiện thái độ trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao ..............123 4.2. Biểu hiện văn hóa của con số trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao ...........................126 4.2.1. Con số thể hiện nhận thức về tự nhiên ..................................................................126 4.2.2. Con số thể hiện nhận thức về xã hội .....................................................................127 4.2.3. Con số thể hiện cách tính toán, đo lường của người Việt .....................................128 4.3. Một số quan niệm về con số thịnh hành hiện nay.................................................131 4.4. Bước đầu lý giải cơ sở của những quan niệm về con số .......................................132 4.4.1. Ảnh hưởng của triết lý âm dương .........................................................................132 4.4.2. Tri nhận của người Việt từ mối liên quan giữa con số với thế giới tự nhiên ........133 4.4.3. Ảnh hưởng của ngôn ngữ .....................................................................................134 4.5. Tiểu kết .................................................................................................................136 KẾT LUẬN ........................................................................................................................137 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ .......................................................140 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................141 4 QUY ĐỊNH VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN Nội dung viết tắt TT Ký hiệu 1 Ca dao (cd) 2 Chủ ngữ CN 3 Thành ngữ (thng) 4 Trang [tr] 5 Trước Công Nguyên (TCN) 6 Tục ngữ (tng) 7 Từ kết hợp với con số X, Y 8 Vị ngữ VN 5 CÁC BẢNG THỐNG KÊ TRONG LUẬN ÁN Trang Bảng 1.1. Hệ thống điểm khác biệt giữa thành ngữ, tục ngữ, ca dao ................... 28 Bảng 2.1. Hệ thống từ loại của con số trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao ............. 49 Bảng 2.2. Thống kê khả năng kết hợp của con số trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao .................................................................................................... 57 Bảng 2.3. Tần số sử dụng số độc lập / kết hợp trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao .................................................................................................... 58 Bảng 2.4. Thống kê tần số sử dụng số/đơn vị-câu-bài trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao ............................................................................................ 59 Bảng 2.5. Hệ thống các kết hợp con số với con số trong thành ngữ, tục ngữ và ca dao ........................................................................................ 65 Bảng 2.6. Hệ thống chức năng ngữ pháp của con số trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao ............................................................................................ 73 Bảng 3.1. Thống kê tần số sử dụng con số trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao......... 75 Bảng 3.2. Thống kê ý nghĩa biểu trưng của các con số trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao .......................................................................................... 104 Bảng 3.3. Thống kê sự khác biệt qua so sánh con số trong thành ngữ, tục ngữ và ca dao ...................................................................................... 106 Bảng 4.1. Hệ thống các hình thức cấu tạo nhịp điệu của con số trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao ............................................................................ 113 Bảng 4.2. Hệ thống các biện pháp tu từ của con số trong thành ngữ, tục ngữ và ca dao ...................................................................................... 123 6 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Luận án chọn đề tài về con số trong thành ngữ, tục ngữ và ca dao người Việt vì những lý do sau: 1.1. Về lý luận a. Con số là một hiện tượng mang tính phổ quát của nhân loại; nó đã được bàn đến từ lâu dưới nhiều góc độ: triết học, văn hoá học, ngôn ngữ học và nhiều lĩnh vực khác của khoa học tự nhiên. Trong mọi lĩnh vực, con số vừa là đối tượng vừa là phương tiện được xem xét, lý giải nhằm rút ra những kết luận phù hợp với mục đích nghiên cứu của từng chuyên ngành. Chẳng hạn, về triết học, tìm hiểu về con số nhằm trả lời câu hỏi: con số thể hiện quy luật nhận thức của con người như thế nào; về văn hoá nhằm trả lời câu hỏi: con số phản ánh tinh thần xã hội như thế nào; về ngôn ngữ học để trả lời câu hỏi: con số hành chức trong xã hội như thế nào... Như vậy, chỉ riêng trong lĩnh vực “con số” đã thấy nó hội tụ (và cũng là sự quy chiếu) nhiều vấn đề liên quan đến tư duy, văn hoá tinh thần và tổ chức giao tiếp của xã hội. b. Việc nghiên cứu con số từ góc độ ngôn ngữ học đã được đề cập ở nhiều công trình. Tuy nhiên, cho đến nay, các kết quả nghiên cứu về con số mới chỉ dừng lại ở một số nhận xét khái quát, thiên về ngữ pháp (khả năng kết hợp, từ loại,...). Nhiều phương diện về ngữ nghĩa, ngữ dụng, văn hóa... của con số chưa được các công trình nghiên cứu bàn luận một cách hệ thống và chuyên sâu. Đây là vấn đề cần được quan tâm tìm hiểu, qua đó góp phần làm sáng tỏ về đặc điểm ngữ pháp - ngữ nghĩa và văn hóa của con số trong tổ chức giao tiếp ngôn từ của xã hội. 1.2. Về thực tiễn a. Con số là một hiện tượng mang tính phổ dụng trong mọi lĩnh vực của đời sống hàng ngày. Hầu như lĩnh vực giao tiếp nào, đơn vị giao tiếp nào cũng có mặt ở những mức độ khác nhau các từ ngữ chỉ lượng, trong đó có con số. Cuộc sống là phải tính đếm, đo lường, phân chia, xếp loại,... các hành động này xuất phát từ con số, liên quan đến con số. 7 b. Thành ngữ, tục ngữ và ca dao người Việt là sự kết tinh của trí tuệ, tình cảm, phản ánh muôn mặt đời sống xã hội từ lâu đời; những hoạt động tính toán, đo đếm thông qua các con số cũng xuất hiện với tần số cao trong thành ngữ, tục ngữ và ca dao. Hiện tượng này cần được khảo sát, phân tích, đánh giá. Trên đây là những căn cứ lý luận, thực tiễn đồng thời là đòi hỏi cần thiết của việc nghiên cứu con số. Đây chính là lý do để chúng tôi thực hiện đề tài này. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ 2.1. Lịch sử ra đời của con số Trong chiều dài lịch sử của nhân loại, các phát minh khoa học vĩ đại lần lượt ra đời. Trong đó có sự hình thành của những con số. Từ năm nghìn năm về trước, con số đã ra đời. Ban đầu nó đơn thuần chỉ là những khắc vạch, những nút thắt trên dây với mục đích ghi nhớ, định lượng các đồ vật, các sản phẩm săn bắn, trồng trọt hoặc để trao đổi, phân chia sản phẩm.v.v... Đến đời Ân Thương (Trung Quốc) thì con số đã hoàn chỉnh từ 0 đến 9 và dần dần tạo nên hình hài vóc dáng ổn định như ngày nay. Mặc dù chúng ta vẫn quen gọi các con số 1, 2, 3, ..., 9 là chữ số Ả Rập nhưng kì thực là do người Ấn Độ sáng tạo và sử dụng đầu tiên trên thế giới. Vào thế kỉ thứ VII (TCN) những người Hồi giáo Ả Rập đã chinh phục Ấn Độ và đặt nền thống trị tại nước này. Sau năm 750 (TCN) người Ả Rập đã tiếp thu và truyền bá rộng rãi cách viết các chữ số của người Ấn Độ sang các nước châu Âu. Chính vì thế mà người ta gọi là chữ số Ả Rập. Bên cạnh đó, còn có hệ thống chữ số La Mã do người La Mã sáng tạo. Nó gồm bảy chữ số: I = 1, V = 5, X = 10, L = 50, C = 100, D = 500, M = 1000. Từ bảy con số này, người ta tạo nên những con số khác nhau. Chữ số La Mã không có số 0. Đến thế kỉ thứ V (TCN) con số 0 mới từ phương Đông du nhập vào. Dù ra đời ở phương Đông hay phương Tây, các con số không chỉ độc lập thực hiện các chức năng đơn giản là cân, đo, đong, đếm sự vật, hiện tượng mà nó gắn liền với đời sống văn hoá của từng dân tộc. Theo thời gian, bên cạnh việc sùng bái linh vật ở ngôn ngữ người ta cũng đã sùng bái những con số và gắn cho nó cách nhìn may rủi của cuộc sống. Qua đó, nó biểu thị được chiều sâu văn hoá trong tâm thức nhân loại. Lẽ đương nhiên, con số trở thành đối tượng được sự quan tâm của 8 nhiều ngành khoa học khác nhau, trên nhiều lĩnh vực khác nhau như toán học, thiên văn học, công nghệ thông tin, văn hóa học, văn học dân gian, thi pháp học, ngôn ngữ học.v.v… Với việc xem xét con số trong ba thể loại thành ngữ, tục ngữ, ca dao, chúng tôi nhận thấy có các hướng nghiên cứu sau: 2.2. Nghiên cứu con số trong Ngôn ngữ học a. Nghiên cứu con số từ phương diện từ vựng, ngữ pháp Từ phương diện từ vựng, ngữ pháp, hầu hết các công trình nghiên cứu đều đề cập đến con số ở những mức độ khác nhau về các mặt: khái niệm con số, xem xét con số về từ loại, thực từ hay hư từ, khả năng kết hợp và chức vụ ngữ pháp, ý nghĩa và vai trò của con số. v.v... Về tên gọi, con số được xác định bằng những tên gọi khác nhau, và kèm theo đó là cách nhìn nhận xếp loại con số cũng không giống nhau. Nguyễn Lân gọi con số là tính từ: “Những tính từ này dùng với danh từ để chỉ số lượng và thứ tự những người hoặc sự vật mà danh từ biểu thị” [105; tr. 252]. Xu hướng thứ hai, gọi con số là lượng số: “Lượng số chỉ định tự gồm có: những số đếm, những tiếng chỉ lượng nhiều hay ít, những tiếng chỉ phân số hay bội số” [94; tr. 53]. “Lượng số chỉ định tự nói về các số đếm, có thứ là tiếng đơn, có thứ là tiếng ghép” [52; tr. 53]. “Lượng số chỉ định tự là tiếng người ta đặt ở trước tiếng danh - tự để chỉ số nhiều hay số đếm nhất định. 1. Lượng số chỉ định tự nói về số đếm là những tiếng đếm từ số một trở lên. 2. Lượng số chỉ định tự nói về số nhiều hay ít” [75; tr. 59]. Xu hướng thứ ba, coi con số là một tiểu loại của danh từ - gọi là danh từ số lượng: “Danh từ chỉ số lượng sự vật (nói gọn là “danh từ số lượng”). Khái niệm sự vật thường đi với khái niệm số lượng, cho nên trong thực tiễn sử dụng ngôn ngữ, dùng danh từ đơn thể hay tổng thể là thường có bao hàm nghĩa số lượng. Nghĩa là được biểu thị bằng những từ như: một, hai, ba, mười, một trăm... những, các, vài, mấy, tất cả, v.v... Những từ này cũng có thể coi là danh từ, đó là danh từ số lượng … Đáng chú ý là danh từ số lượng, trừ trường hợp đặc biệt, không dùng làm chính tố trong ngữ mà chỉ làm thành tố phụ” [97; tr. 38]. 9 Xu hướng thứ tư, cũng là xu hướng chiếm đa số ý kiến của các nhà ngôn ngữ học (Nguyễn Kim Thản (1963), Đỗ Hữu Châu (1962), Nguyễn Anh Quế (1976), Hữu Quỳnh (1980), Lê Biên (1998), Nguyễn Tài Cẩn (1999), Diệp Quang Ban Hoàng Văn Thung (1999), Đỗ Thị Kim Liên (1999).v.v…) gọi tập hợp các con số trong tiếng Việt là số từ. Về khái niệm số từ, Nguyễn Tài Cẩn viết: “Số từ có ý nghĩa số lượng, chúng có ý nghĩa chân thực” [19; tr. 336]; Nguyễn Kim Thản: “Số từ là từ loại biểu thị số lượng và thứ tự. Số từ chia thành hai tiểu loại: số từ chỉ lượng và số từ chỉ thứ tự” [86; tr. 218]; Đỗ Hữu Châu cho rằng: số từ “là những thực từ biểu thị các ý nghĩa phạm trù được thể hiện bằng số, số lượng, đơn vị đo lường và các phạm trù của tư duy có liên quan đến số lượng trình tự khi đếm.” [20; tr. 20]; Lê Biên cho rằng: “Số từ biểu thị ý nghĩa số lượng, đó là số đếm như một, hai, bảy, chín... hoặc có thể là số chỉ thứ tự như nhất, nhì”...[8; tr. 138]; Diệp Quang Ban - Hoàng Văn Thung: “Số từ gồm những từ biểu thị ý nghĩa số” [4; tr. 107]; Đỗ Thị Kim Liên: số từ có ý nghĩa “thường chỉ số lượng: hai, ba, bốn, sáu, bảy...”[57; tr. 56], “Đối với số từ, ý nghĩa gốc, ý nghĩa phạm trù của chúng là ý nghĩa số lượng. Loại ý nghĩa này được tư duy nhận thức như những giá trị thực” [60; tr. 119]. v.v… Về các tiểu loại trong số từ: cho đến nay còn có nhiều ý kiến, nhiều cách chia khác nhau. Dưới đây là một số cách phân loại của một số tác giả tiêu biểu: Tác giả Diệp Quang Ban và Hoàng Văn Thung, Lê Biên chia số từ thành hai tiểu loại, đó là: “Số từ xác định gồm những từ chỉ ý nghĩa số lượng chính xác: hai, sáu, mười lăm, ba sáu... Những từ chỉ số lượng là phân số: hai phần ba, bốn phần năm... Số từ không xác định gồm những từ biểu thị ý nghĩa không chính xác với ý nghĩa phiếm định hay phỏng định: vài, dăm, mươi, mấy, vài ba, dăm ba, một vài, ba bảy, năm bảy.v.v…” [4; tr.108], [8]. Theo tác giả Lê Biên, khác với ngôn ngữ Ấn Âu, tiếng Việt không có riêng thành hệ thống một tiểu loại số thứ tự mà sử dụng phương thức trật tự từ: Số từ + danh từ = số đếm Và: Ví dụ: Hai giờ, ba lớp. Thực từ (danh từ, đại từ) + số từ chính xác = thứ tự 10 Ví dụ: Phòng 12, Lớp bốn. [8]. Nguyễn Anh Quế, Nguyễn Hữu Quỳnh chia số từ trong tiếng Việt thành ba tiểu loại, gồm: số từ chính xác (một, ba, năm, chẳng hạn: ba con gà, hai cô gái...); số từ thứ tự (Phòng số sáu, gác thứ ba... ); số từ ước lượng (là loại số từ chỉ có một số lượng ước chừng chứ không chính xác. Những số từ ước lượng thường thấy là: vài, vài ba, dăm ba, dăm bảy, đôi ba, mươi lăm, mươi mười lăm, vài bốn, mươi hai...) [81; tr. 87], [82; tr. 75]. Đỗ Thị Kim Liên phân chia số từ thành bốn tiểu loại gồm: số từ chỉ số lượng chính xác (một, hai, ba,…); số từ ước chừng (vài, dăm, dăm ba, ba bảy, mươi, đôi mươi, mươi hai, mươi ba, mươi lăm, mươi bảy,…); số từ chỉ thứ tự: dùng để chỉ một đại lượng được xếp theo một trình tự của tư duy (Chúng gồm các số từ tự nhiên: thứ hai, thứ ba... hoặc các danh từ gốc Hán như nhất, nhì (nhị), tam, tứ); số từ dùng với ý nghĩa biểu trưng: ngàn, vạn, trăm, một, ba, năm, bảy, chín, mười,... loại số từ này mang nghĩa không hoàn toàn tương ứng với vỏ vật chất của chúng. Ví dụ: Một duyên hai nợ âu đành phận / Năm nắng mười mưa dám quản công (Trần Tế Xương) [57; tr. 75]. Về việc xác định con số là thực từ hay hư từ, đến nay còn tồn tại hai xu hướng trong các công trình nghiên cứu của các nhà Việt ngữ học: Xu hướng thứ nhất xem số từ là thực từ, gồm các tác giả: Đỗ Hữu Châu [20], Lê Biên [8], Nguyễn Hữu Quỳnh [82, 83], Đỗ Thị Kim Liên [57, 60].v.v… Chẳng hạn, tác giả Đỗ Thị Kim Liên phân tích: “Số từ là những từ dùng để chỉ số lượng: hai, ba, bốn... Đặc điểm về khả năng kết hợp: - Số từ có khả năng làm thành tố trung tâm của cụm số từ nhưng hạn chế: Hai với hai là bốn; - Có khả năng làm thành tố phụ trong cụm danh từ để hạn định cho danh từ ý nghĩa số lượng: Ba gian nhà sạch sẽ (Nam Cao, Đôi mắt); - Có khả năng làm thành phần chính của câu, như chủ ngữ, khi làm vị ngữ thì phía trước phải có từ là. Như vậy, xét về đặc điểm ý nghĩa khái quát và khả năng kết hợp thì số từ hoàn toàn có đầy đủ những đặc điểm của thực từ” [60; tr.178]. 11 Xu hướng thứ hai cho rằng số từ vừa có tính chất thực từ vừa có tính chất hư từ: “Xét theo đối tượng phản ánh trong nhận thức và tư duy, ý nghĩa số vừa có tính chất thực (khái niệm số thường gắn với khái niệm thực thể), vừa có tính chất hư (không tồn tại như những thực thể hay quá trình)... đặc điểm về khả năng kết hợp cũng phản ánh tính chất trung gian (vừa gần gũi với hư từ vừa gần gũi với thực từ) của số từ” (Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung) [4; tr. 107]. Tuy nhiên dù là tên gọi nào, lượng số, tính từ, danh từ số lượng hay số từ; dù ý nghĩa từ vựng - thực từ - hay ý nghĩa quan hệ - hư từ - thì các tác giả đều thống nhất tại một điểm xác định đó là những từ biểu thị ý nghĩa số lượng và thứ tự, đồng thời ngoài nghĩa cụ thể đó những con số còn được dùng với nghĩa biểu trưng - nói cách khác nhiều con số xuất hiện trong những ngữ cảnh mà nghĩa nó biểu thị không hoàn toàn tương ứng với vỏ vật chất của chúng - đó là nghĩa biểu trưng. b. Nghiên cứu con số từ phương diện ngôn ngữ - văn hóa Đây là hướng nghiên cứu mới, vừa xem xét ngôn ngữ với khả năng hành chức của nó vừa nghiên cứu những ảnh hưởng của nó trong văn hóa, với văn hóa. Hướng nghiên cứu này đã thu hút nhiều tác giả, nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu. Chẳng hạn: tác giả Trần Gia Anh [1; 2] ngoài việc tìm hiểu con số trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao còn quan tâm tới giá trị biểu trưng của con số trong truyện dân gian, trong đời sống văn hoá của người Việt. Các nhà ngôn ngữ - văn hoá học như Trần Ngọc Thêm [89; 90], Trần Quốc Vượng [103; 104], Phan Ngọc [70; 71], Nguyễn Đăng Duy [29], Nguyễn Đức Tồn [96],… bên cạnh những vấn đề của văn hoá cũng đã đề cập đến vị trí của con số trong văn bản nghệ thuật văn học dân gian, tính biểu trưng của con số trong nghệ thuật ngôn từ của người Việt. Đặc biệt các tác giả đã hệ thống các quan niệm về con số trong đời sống văn hóa của các dân tộc trên thế giới và của người Việt. Chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa các nền văn hóa qua những quan niệm về con số. Theo các tác giả, dù là dân tộc nào thì ấn tượng số vẫn tồn tại ba dạng cơ bản. Đó là: hình thành những ấn tượng số kiêng kị, may mắn; dùng ấn tượng số để diễn đạt trong các loại hình tục ngữ, thành ngữ, ca dao và văn học; dùng con số để giải thích số phận, duyên phận. v.v... 12 Điều đó cho thấy ý nghĩa của con số có một ảnh hưởng rõ rệt tới văn hoá, văn học nói chung và các tác phẩm nghệ thuật nói riêng của người Việt. c. Nghiên cứu con số từ phương diện ngữ dụng học Các tác giả Đỗ Thị Kim Liên, Nguyễn Văn Khang là những người đi đầu trong việc nghiên cứu ngữ nghĩa của con số trong lời nói trên phương diện ngữ dụng học. Đặc biệt, tác giả Đỗ Thị Kim Liên đã có những công trình tìm hiểu về ngữ nghĩa của con số trong những văn bản cụ thể như Ngữ nghĩa của kết hợp có số từ chỉ lượng “một” trong tục ngữ Việt Nam, (Tạp chí Ngôn ngữ, số 15, 2002), Ngữ nghĩa của những con số trong thơ Nguyễn Bính, (Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 7, 2005). Tác giả Nguyễn Văn Khang có Ngôn ngữ - Văn hóa Trung Hoa qua cách sử dụng các con số, (Ngôn ngữ và đời sống, số 1 + 2, 2001); Trần Thị Minh Hòa (Tư duy con số trong thơ Nguyễn Bính, Ngữ học trẻ 2011). v.v... Một số công trình đã quan tâm đến việc sử dụng con số trong khi nói, viết, cung cấp cho độc giả tri thức về con số, như: Từ vựng chữ số và số lượng của Bùi Hạnh Cẩn [15], Từ điển công cụ của tác giả Đỗ Thanh [87].v.v... d. Nghiên cứu con số từ phương diện ngôn ngữ học tri nhận Ngôn ngữ học tri nhận đã mở ra một hướng mới trong quá trình nghiên cứu ngôn ngữ, trong đó có con số. Ở Việt Nam, một số tác giả đã nghiên cứu ngôn ngữ học theo hướng tri nhận, tiêu biểu là: Lý Toàn Thắng [88], Trần Văn Cơ [24], Nguyễn Xuân Vinh - Nguyễn Phú Thứ [102]. Trong đó, tác giả Trần Văn Cơ khi giới thiệu một số bức tranh ngôn ngữ về thế giới đã đề cập đến con số với ý niệm về “số phận”; lần lượt điểm qua ý nghĩa của các con số từ một đến mười trong quan niệm của nhiều nước trên thế giới; giới thiệu bài viết của Trường Xuân với tiêu đề “Số 7: một con số kỳ diệu” [24; tr. 243-246]. Tác giả Nguyễn Xuân Vinh, Nguyễn Phú Thứ cũng đề cập đến con số năm trong nhiều lĩnh vực của đời sống. Đặc biệt, trên các Website, nhiều bài viết, ý kiến trao đổi cũng đề cập đến những quan niệm về số, số kiêng kỵ, số may mắn.v.v... Chẳng hạn, ngày 5/4/2011, trang vanhoanghean.vn có đăng bài của Trần Quang Chiểu “Con số ba và những ẩn chứa văn hóa”; trang anninhthudo.vn ngày 6/3/2012 đăng bài “Diệu kỳ và thú vị con số ba trong văn hóa Việt Nam” của tác giả Tô Vũ Thành (Giảng viên Khoa Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên). Nhiều website 13 như www.blogphongthuy.com; www.facts.baomoi.com; www.vi.wikipedia.org; www.baomoi.com; www.facebook.com;... đều có những trao đổi về quan niệm số, cách nghĩ và sử dụng số của người Việt nói riêng và một số dân tộc trên thế giới nói chung; ảnh hưởng của việc kiêng kỵ số trong đời sống.v.v... 2.3. Nghiên cứu con số từ phương diện văn học, văn hóa dân gian Từ trước tới nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu thành ngữ, tục ngữ, ca dao và các loại hình sáng tác dân gian (như truyện thần thoại, truyền thuyết, cổ tích; sử thi các dân tộc miền núi,...) từ nhiều góc độ với hàng trăm công trình sưu tầm, nghiên cứu khác nhau. Ở phạm vi quốc tế, có thể kể đến E.B. Tylor (1871) nghiên cứu về văn hóa nguyên thủy, V.Ia Prôp bàn về Folklore và thực tại, V.M Rôdin (1998) tìm hiểu các trường phái văn hóa học thế giới, R. Lado (1957) tìm hiểu ngôn ngữ học qua các nền văn hóa. v.v.... Nhiều công trình đã làm rõ bản sắc văn hóa của các đối tượng nghiên cứu, góp phần bảo vệ và duy trì những nét đẹp của truyền thống, xây dựng xã hội ngày càng văn minh. Ở Việt Nam, có thể kể tên một số công trình tiêu biểu: Văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam thời tiền sử (Hà Văn Tấn, 1993), Việt Nam văn hóa sử cương (Đào Duy Anh, 2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam (Trần Quốc Vượng - chủ biên, 2005), Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á (Phạm Đức Dương, 2000). v.v... Một số công trình tìm hiểu sâu về bản sắc văn hóa dân tộc, như: Tìm về bản sắc dân tộc của văn hóa (Hồ Sĩ Vịnh, 1993), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam (Trần Ngọc Thêm, 2001), Bản sắc văn hóa Việt Nam (Phan Ngọc, 2006), Bàn về văn hóa ứng xử của người Việt Nam (Nguyễn Tất Thịnh, 2006), Văn hóa ứng xử truyền thống của người Việt (Lê Văn Quán, 2007), Người Việt, phẩm chất và thói hư tật xấu (Nhiều tác giả, 2008). v.v... Các công trình nghiên cứu nhìn chung đã xem xét trên nhiều phương diện: Văn hóa dân tộc Việt thể hiện qua các công trình vật thể được lưu giữ từ trong quá khứ hay mới được xây dựng; thể hiện trong sinh hoạt hàng ngày, thể hiện qua các lễ hội, phong tục tập quán, ngôn ngữ. v.v... Khi bàn đến sự thể hiện của văn hóa trong các sáng tác dân gian như thành ngữ, tục ngữ và ca dao, các công trình khoa học đã nghiên cứu trên một số hướng cơ bản gồm: 14 - Nghiên cứu tục ngữ, ca dao từ góc độ thi pháp học: Thi pháp ca dao (Nguyễn Xuân Kính, 2004); Tìm hiểu thi pháp tục ngữ Việt Nam (Phan Thị Đào, 2001); Tiếp cận ca dao bằng phương pháp xâu chuỗi (Triều Nguyên, 2003).v.v… - Từ góc độ ngôn ngữ - văn hóa: Nghệ thuật chơi chữ trong ca dao người Việt (Triều Nguyên, 1999), Đặc trưng cấu trúc - ngữ nghĩa của thành ngữ, tục ngữ trong ca dao người Việt (Nguyễn Nhã Bản, 2005)... Nhiều công trình nghiên cứu văn hóa từ góc độ ngôn ngữ: Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hóa (Nguyễn Tài Cẩn, 2005), Giao tiếp phi ngôn qua các nền văn hóa (Nguyễn Quang, 2008), Tìm hiểu đặc trưng văn hóa - dân tộc qua ngôn ngữ và tư duy người Việt (Nguyễn Đức Tồn, 2002).v.v... Khi đề cập đến con số trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao, hầu như các tác giả mới chỉ dừng lại phân tích ý nghĩa của việc sử dụng con số đối với bản thân tác phẩm. Chẳng hạn, tác giả Tạ Đức Hiền, khi đi vào tìm hiểu các bài ca dao, đã nói đến tác dụng, ý nghĩa của con số trong ca dao. Ví dụ với bài ca dao: Chiều chiều ra đứng ngõ sau / Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều, tác giả đã viết: “Nhà thơ dân gian không sử dụng một bổ ngữ, một trạng ngữ mà lại dùng số từ “chín chiều” để bộc lộ tâm trạng thật là độc đáo” [45]. Hoặc Nguyễn Thị Thương nhấn mạnh đến việc hàng loạt các số từ xuất hiện trong một bài ca dao: “Một loạt số từ sắp xếp theo thứ tự tăng dần từ thấp đến cao, kết nối thật tự nhiên và hài hoà với các tính từ diễn tả các cung bậc tình cảm tăng tiến dần từ mức độ nhẹ đến mức độ sâu đậm hơn” [93]. Tác giả Triều Nguyên khi khảo sát một số bài ca dao có cấu trúc một, hai,... mười thương đã viết: “Các số từ “một”, “hai”,... “mười” ở vị trí đầu của mười dòng thơ, thể hiện sự chặt chẽ khuôn thước, tương đương với cách nói: một là, hai là...; điều thứ nhất là, điều thứ hai là...chúng nhằm báo trước, nhấn mạnh điều sắp nói ra là dứt khoát, quan trọng và cũng chủ đích với điều đã nói...” [73]. Nhìn chung các tác giả còn đang xem xét con số với tư cách là một biện pháp tu từ, một thủ pháp nghệ thuật được sử dụng trong tác phẩm cụ thể. Càng về sau, con số càng ngày càng được sự quan tâm của các nhà phê bình, nghiên cứu. Không dừng lại ở những vấn đề đơn giản, cục bộ trong từng văn bản mà các tác giả đã bắt đầu chú ý đến vấn đề thi pháp, vấn đề ngôn ngữ - văn hoá của 15 con số. Mặc dù các con số chưa được khai thác một cách đầy đủ và toàn diện song đã vạch ra hướng nghiên cứu mới cho những người đi sau. Tuy nhiên, những tìm hiểu, nghiên cứu đó - nói riêng ở đối tượng nghiên cứu là con số, theo những tư liệu mà chúng tôi có được, mới chỉ là những ý kiến bàn luận, nói thêm nhân bàn đến những vấn đề khác của thành ngữ, tục ngữ, ca dao (như khi nói về nội dung của ca dao, thi pháp ca dao, cấu trúc của thành ngữ, tục ngữ, ca dao...) mà chưa có một chuyên luận bàn sâu và kỹ dành riêng cho việc tìm hiểu đặc trưng văn hóa dân tộc từ những quan niệm về con số trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao người Việt như thế nào. Nhìn chung, con số đã được giới nghiên cứu quan tâm ở những mức độ khác nhau trong nhiều công trình nghiên cứu trên nhiều phương diện. Nhiều tác giả cho rằng đây là một vấn đề có giá trị lý luận và thực tiễn. Tuy vậy, cho đến nay, chưa công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về con số. Nhất là con số xuất hiện trong cả ba thể loại thành ngữ, tục ngữ và ca dao. Tuy nhiên, những kết quả đã có được, có ý nghĩa gợi mở, cung cấp cơ sở lý luận cần thiết cho chúng tôi trong việc nghiên cứu đặc điểm và ý nghĩa của con số trong đề tài này. 3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ NGUỒN TƯ LIỆU NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng Đối tượng nghiên cứu của đề tài là khảo sát, tìm hiểu hoạt động các con số mà người Việt sử dụng từ góc độ ngôn ngữ học trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Với đối tượng trên, luận án xác định phạm vi nghiên cứu của đề tài là thống kê, phân loại, mô tả và phân tích lí giải con số ở các phương diện: ngữ pháp, ngữ nghĩa. Tư liệu để khảo sát, tìm hiểu con số giới hạn trong ba thể loại: thành ngữ, tục ngữ và ca dao người Việt. Đồng thời, để làm rõ sự hoạt động của con số trong ngữ cảnh cũng như vai trò của con số trong nhận thức tư duy của dân gian, luận án còn xem xét con số từ góc độ ngôn ngữ - văn hóa. 3.3. Nguồn tư liệu Nguồn tư liệu dùng để thống kê số liệu, phân tích các đặc điểm và dẫn chứng minh họa về con số của Luận án này là các công trình: 16 - Từ điển thành ngữ Việt Nam, Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành, Nxb Văn hóa, 1993 (679 trang). - Kho tàng ca dao người Việt (2 tập), Nguyễn Xuân Kính - Phan Đăng Nhật, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2002 (2.779 trang). - Kho tàng tục ngữ người Việt (2 tập), Nguyễn Xuân Kính (chủ biên). Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2002 (3. 236 trang). - Từ vựng chữ số và số lượng, Bùi Hạnh Cẩn. Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1997 (242 trang). 4. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI 4.1. Mục đích nghiên cứu Qua khảo sát và nghiên cứu các con số trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao, Luận án nhằm: a. Góp phần làm rõ sự hoạt động của các con số trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao với tư cách là một từ loại trong tiếng Việt. b. Góp phần phân tích, lý giải ngữ nghĩa, vai trò và các biểu đạt văn hóa của con số trong ngữ cảnh thành ngữ, tục ngữ và ca dao; đồng thời qua đó làm sáng tỏ quan niệm về con số trong tư duy và giao tiếp của người Việt. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích trên, các nhiệm vụ chính của luận án là: a. Tổng quan lịch sử về con số, các quan niệm về con số và những vấn đề có liên quan đến khái niệm này. b. Thống kê, phân loại các con số được dùng trong thành ngữ, tục ngữ và ca dao. Nêu các đặc điểm về hoạt động ngữ pháp và ngữ nghĩa của các con số. c. Phân tích làm rõ vai trò của con số trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao người Việt và giải mã con số từ góc độ văn hóa. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5.1. Phương pháp thống kê, phân loại Phương pháp này dùng để thống kê các con số và tần số xuất hiện của từng con số trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong nguồn tư liệu sưu tầm đã xác định. Từ đó Luận án phân loại các con số đã thống kê theo từng tiêu chí: khả năng kết hợp 17 của con số với các từ loại khác; chức vụ ngữ pháp của con số trong cụm từ, trong câu; nghĩa thực và nghĩa biểu trưng của con số; các kết hợp số. Với kết quả thống kê mang tính định lượng cụ thể, phương pháp này giúp miêu tả, phân tích con số ở những chương tiếp. 5.2. Phương pháp miêu tả ngôn ngữ học Phương pháp này dùng để miêu tả các ngữ cảnh, các đặc điểm ngữ pháp ngữ nghĩa của con số được sử dụng kết hợp với phương pháp thống kê để miêu tả đặc điểm của từng con số trong khả năng kết hợp và biểu đạt ngữ nghĩa. Phương pháp này cũng được dùng để nêu rõ các biểu hiện của con số về mặt văn hóa, về mặt nhận thức của người Việt trong thành ngữ, tục ngữ và ca dao. 5.3. Phương pháp phân tích ngữ nghĩa Đây là phương pháp được áp dụng để phân tích cấu trúc nghĩa của từ, là một trong những phương pháp hàng đầu để phân tích ngữ nghĩa của các con số. Với các thủ pháp phân loại, phân tích ngữ cảnh, phân tích nghĩa, nhằm cụ thể hóa và xác định chính xác nghĩa của các con số trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao. 5.4. Phương pháp so sánh Phương pháp này được sử dụng trong hầu hết quá trình nghiên cứu, từ hoạt động ngữ pháp, ngữ nghĩa đến vai trò tổ chức văn bản của con số... nhằm tìm ra nét tương đồng và khác biệt giữa các con số trong ba thể loại thành ngữ, tục ngữ, ca dao; đồng thời Luận án trong chừng mực nhất định so sánh con số trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao với một số thể loại khác cũng có con số xuất hiện. 5.5. Phương pháp phân tích - tổng hợp Phương pháp này phân tích ngữ nghĩa của các con số trong các ngữ cảnh, từ đó cố gắng khái quát những đặc điểm hoạt động chính của con số trong tiếng Việt; khái quát những quan niệm của người Việt về con số; vai trò của con số trong quan niệm của người Việt; những đặc trưng về mặt văn hóa của con số trong các ngữ cảnh: thành ngữ, tục ngữ, ca dao. 6. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI Kết quả của Luận án góp phần sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận của chuyên ngành Việt ngữ học về phương diện đặc điểm ngôn ngữ nói chung, số từ nói 18 riêng trong bộ phận văn học truyền miệng là thành ngữ, tục ngữ, ca dao; đồng thời giúp ích cho việc tìm hiểu đặc trưng văn hóa dân tộc của ngôn ngữ và tư duy được thể hiện trong di sản văn hóa tinh thần của dân tộc, phục vụ cho việc biên soạn các giáo trình từ vựng học và cũng giúp cho sự cảm thụ, phân tích và giảng dạy các tác phẩm văn học dân gian trong nhà trường. 7. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và danh mục Tài liệu tham khảo, luận án gồm có 4 chương: Chương 1: Những vấn đề lý thuyết liên quan đến con số. Chương 2: Đặc điểm ngữ pháp của con số trong thành ngữ, tục ngữ và ca dao Việt Nam. Chương 3: Đặc điểm ngữ nghĩa của con số trong thành ngữ, tục ngữ và ca dao Việt Nam. Chương 4: Vai trò và đặc trưng văn hóa của con số trong thành ngữ, tục ngữ và ca dao Việt Nam. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan