Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đặc điểm ngôn ngữ truyện đồng thoại tiếng việt...

Tài liệu đặc điểm ngôn ngữ truyện đồng thoại tiếng việt

.PDF
132
795
117

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Phan Thanh Hòa ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TRUYỆN ĐỒNG THOẠI TIẾNG VIỆT LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Thành phố Hồ Chí Minh - 2013 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Phan Thanh Hòa ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TRUYỆN ĐỒNG THOẠI TIẾNG VIỆT Chuyên ngành Mã số : Ngôn ngữ Việt Nam : 60 22 01 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TẠ THỊ THANH TÂM Thành phố Hồ Chí Minh - 2013 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là kết quả nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Tạ Thị Thanh Tâm. Các số liệu thống kê cũng như các ý kiến nhận xét, nếu không có chú thích trích dẫn, đều được rút ra từ quá trình tìm hiểu đối tượng của bản thân người viết, và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào khác. Tác giả luận văn 1 LỜI CẢM ƠN Xin chân thành cảm ơn TS. Tạ Thị Thanh Tâm đã tận tình hướng dẫn tác giả hoàn thành luận văn thạc sĩ này. Xin cảm ơn phòng sau đại học, thư viên trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, thư viện TP. Hồ Chí Minh để giúp đỡ tác giả rất nhiều. Xin cảm ơn các thầy cô, gia đình, đồng nghiệp và bạn bè đã động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài nghiên cứu. Phan Thanh Hòa 2 MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1 LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2 MỤC LỤC .................................................................................................................... 3 MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 5 1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................................. 5 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................................. 5 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 7 4. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................................... 7 5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu................................................................ 8 6. Đóng góp của luận văn ................................................................................................... 9 7. Cấu trúc của luận văn .................................................................................................... 9 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRUYỆN ĐỒNG THOẠI VÀ PHONG CÁCH NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT ...................................................... 11 1.1. Một số vấn đề chung về truyện đồng thoại .............................................................. 11 1.1.1. Khái niệm truyện đồng thoại ................................................................................. 11 1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của thể loại truyện đồng thoại ....................................... 12 1.1.3. Truyện đồng thoại với một số thể loại gần gũi ..................................................... 14 1.1.4. Đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật của truyện đồng thoại ..................... 16 1.2. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật ............................................................................. 19 1.2.1. Đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật từ cấp độ câu trở xuống ...................................... 19 1.2.2. Đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật ở cấp độ trên câu ................................................. 23 1.3. Đôi nét về đối tượng tiếp nhận.................................................................................. 26 1.4. Tiểu kết ....................................................................................................................... 30 CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TRUYỆN ĐỒNG THOẠI XÉT TỪ CẤP ĐỘ CÂU TRỞ XUỐNG................................................................................... 31 2.1. Đặc điểm từ vựng ....................................................................................................... 31 2.1.1. Xét về nguồn gốc................................................................................................... 31 2.1.2. Xét về mặt phạm vi sử dụng .................................................................................. 39 2.1.3. Xét về màu sắc biểu cảm ....................................................................................... 43 2.2. Đặc điểm câu .............................................................................................................. 66 2.2.1. Xét về mặt cấu trúc cú pháp .................................................................................. 66 2.2.2. Xét về mặt phân bố thông tin ................................................................................ 70 2.3. Tiểu kết ....................................................................................................................... 74 3 CHƯƠNG 3 ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TRUYỆN ĐỒNG THOẠI XÉT Ở CẤP ĐỘ TRÊN CÂU ......................................................................................................... 76 3.1. Đặc điểm kết cấu của văn bản đồng thoại ............................................................... 76 3.1.1. Kết cấu chung của văn bản đồng thoại .................................................................. 76 3.1.2. Một số kiểu kết cấu của văn bản đồng thoại ......................................................... 82 3.2. Đặc điểm liên kết trong truyện đồng thoại .............................................................. 88 3.2.1. Liên kết hình thức.................................................................................................. 89 3.2.2. Liên kết nội dung................................................................................................... 96 3.3. Tiểu kết ..................................................................................................................... 109 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 111 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 113 PHỤ LỤC ................................................................................................................. 118 4 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Ngôn ngữ trong trong tác phẩm văn học từ lâu đã là đối tượng nghiên cứu của nhiều phân ngành ngôn ngữ học như từ vựng học, ngữ pháp học, phong cách học, ngữ dụng học... Chịu quy định bởi những đặc thù về mặt thể loại, ngôn ngữ văn học luôn mang những nét riêng liên quan mật thiết đến đặc điểm nội dung, hình thức nghệ thuật cũng như đối tượng tiếp nhận của nó. Do đó, khi tiếp xúc với loại ngôn ngữ này, người nghiên cứu không thể không có những hiểu biết nhất định về phương diện thể loại. Trong hệ thống thể loại văn học Việt Nam hiện đại, truyện đồng thoại là một thể loại khá đặc biệt. Được sáng tác nhằm mục đích giáo dục trẻ em, lại giàu chất hư cấu, truyện đồng thoại có những đặc điểm riêng biệt và độc đáo về phương diện ngôn ngữ. Đó là thứ ngôn ngữ phù hợp với trình độ tiếp nhận cũng như khả năng cảm nhận văn học của trẻ thơ: chúng khá uyển chuyển, linh hoạt, giàu giá trị biểu cảm. Vừa chịu sự quy định của thể loại vừa chịu sự chi phối bởi đối tượng tiếp nhận, ngôn ngữ truyện đồng thoại có nhiều vấn đề cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng. Dù vậy, cho đến nay, nhiều vấn đề hữu quan vẫn chưa được quan tâm thỏa đáng. Chọn đề tài Đặc điểm ngôn ngữ truyện đồng thoại tiếng Việt, chúng tôi muốn khảo sát ngôn ngữ của thể loại văn học này nhằm góp phần vào việc khắc phục khoảng trống trong tình hình nghiên cứu ngôn ngữ truyện dành cho thiếu nhi. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Đầu thế kỷ XX, truyện đồng thoại Việt Nam hiện đại bắt đầu manh nha, sau đó đạt được những thành tựu nhất định nhưng đến trước năm 1945, các nhà nghiên cứu hầu như vẫn chưa chú ý đến thể loại này. Từ sau năm 1945, trong xu thế văn học thiếu nhi ngày càng được quan tâm, thể loại đồng thoại đã được đề cập đến trong những chuyên luận, chuyên đề về văn học thiếu nhi, các luận án khoa học, các bài báo, bài phê bình, bài giới thiệu sách,… Các nghiên cứu này có thể chia thành các nhóm sau: 2.1. Nhóm nghiên cứu thể loại đồng thoại về mặt lý luận gồm có các bài viết 5 Tìm hiểu đặc điểm của đồng thoại (Văn Thanh) [78], Lại nói về truyện đồng thoại viết cho thiếu nhi (Võ Quảng) [72], Về sức tưởng tượng của đồng thoại (Nguyễn Kiên) [64], Truyện đồng thoại viết cho lứa tuổi nhi đồng (Định Hải) [36], Truyện đồng thoại với giáo dục mẫu giáo (Lã Thị Bắc Lý) [59]. Trong các bài viết này, các tác giả tập trung đề cập đến phương thức phản ánh cuộc sống của thể loại, đặc trưng nhân vật, vai trò và chức năng giáo dục của truyện đồng thoại, còn phương diện ngôn ngữ đồng thoại chưa được bàn đến. 2.2. Nhóm nghiên cứu về quá trình phát triển và những thành tựu của truyện đồng thoại trong thành tựu chung của văn học thiếu nhi và thành tựu của các tác giả gồm có các bài viết: Chặng đầu của nền văn học viết cho thiếu nhi của Vũ Ngọc Bình [5], Phác thảo 50 năm văn học thiếu nhi của Văn Thanh [79], chuyên đề Văn học thiếu nhi của Cao Đức Tiến [74], … Các bài viết này mang tính chất tổng kết từng chặng đường phát triển của văn học thiếu nhi, trong đó có thể loại đồng thoại. Các bài viết về truyện đồng thoại từ góc độ bàn về các tác giả chủ yếu đề cập đến Tô Hoài và Võ Quảng như: Tô Hoài viết cho lứa tuổi măng non [25], Nhà văn Tô Hoài [65], Truyện loài vật của Tô Hoài [27], Đồng thoại qua ngòi bút của Võ Quảng [6], Võ Quảng – 40 năm thơ văn cho thiếu nhi [57], Đôi điều về truyện đồng thoại Võ Quảng [76], … Có thể nói, các công trình nghiên cứu kể trên hầu như không đụng chạm đến đặc điểm ngôn ngữ của truyện đồng thoại. 2.3. Các công trình ít ỏi dưới đây có chú ý đến mặt hình thức biểu đạt, trong đó có đặc điểm ngôn ngữ của truyện đồng thoại. Trong tập sách Những câu chuyện bổ ích và lý thú, Trần Hòa Bình, Lê Hữu Tỉnh có viết: “chọn lối viết đồng thoại, tác giả đã tìm được một hình thức diễn đạt phù hợp với ý tưởng có màu sắc triết lý” khi bình giảng về tác phẩm Chuyện của Bong Bóng của Lương Đình Khoa [4, tr.132]. Nguyễn Quang Thiều khi bàn về tập sách Tôi là Bêtô của Nguyễn Nhật Ánh có lời khen ngợi tác giả về thủ pháp kể chuyện bằng ngôi thứ nhất với một thứ ngôn ngữ gần gũi, giản dị khiến cho người đọc dễ dàng đồng cảm với nhân vật chính của câu chuyện [81]. Trong Kiến thức ngày 6 nay (số 613/2007), Lã Thị Bắc Lý nhận định Tôi là Bêtô có điểm mạnh là kể chuyện lôi cuốn, ngôn ngữ giàu chất thơ [60]. Đọc Xóm đồ chơi, Lý Lan viết “Những câu chuyện của Lưu Thị Lương kể đều ngắn gọn, súc tích theo tiêu chuẩn của đồng thoại” [55]. Tác giả Văn Giá khi viết bài bình giảng truyện đồng thoại Dế Mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài có cho rằng ngôn ngữ tác giả rất sắc sảo, góc cạnh, giàu biểu cảm [32]. Như vậy, trong các bài viết trên, vấn đề ngôn ngữ truyện đồng thoại mới chỉ được đặt ra mà chưa được nghiên cứu một cách cụ thể. 2.4. Gần đây nhất, với luận án “Thể loại truyện đồng thoại trong văn học Việt Nam hiện đại” [63], Lê Nhật Ký đã nghiên cứu thể loại này một cách kỹ lưỡng và toàn diện từ khái niệm, đặc trưng thể loại, quá trình phát triển đến những đặc điểm nội dung và nghệ thuật. Có thể nói, so với các bài viết trước, Lê Nhật Ký đã bàn kĩ hơn về phương diện ngôn ngữ đồng thoại. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc thù của một công trình nghiên cứu về văn chương, tác giả cũng chỉ phân tích giá trị biểu đạt của ngôn ngữ đồng thoại trong tương quan với nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật. Hơn nữa, nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ cũng chỉ là một phần nhỏ trong tổng thể cấu trúc luận án, nên vấn đề còn chưa được bàn đến một cách thấu đáo. Luận văn này trên cơ sở kế thừa các công trình đi trước, thông qua việc sưu tập tư liệu, cố gắng chỉ ra những đặc điểm ngôn ngữ của thể loại đồng thoại tiếng Việt dựa vào hai cấp độ: đặc điểm ngôn ngữ từ câu trở xuống (gồm từ ngữ, câu) và đặc điểm ngôn ngữ trên câu (tổ chức văn bản). 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đặc điểm ngôn ngữ truyện đồng thoại tiếng Việt. Đặc điểm ngôn ngữ là một khái niệm rộng, do vậy luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu đặc điểm phong cách ngôn ngữ truyện đồng thoại tiếng Việt trên một số tác phẩm của các tác giả tiêu biểu. 4. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở vận dụng lý thuyết về ngôn ngữ học nói chung và phong cách học 7 nói riêng cũng như những thành tựu về nghiên cứu thể loại đồng thoại, luận văn hướng đến: - Nhận diện những đặc điểm ngôn ngữ thể loại truyện đồng thoại. - Cung cấp những tri thức cơ bản về đặc điểm ngôn ngữ thể loại truyện đồng thoại nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy tiếng Việt cho học sinh mầm non và tiểu học. 5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu 5.1. Phương pháp nghiên cứu Ngoài những thủ pháp như sưu tập, miêu tả, phân loại mà bất kỳ công trinh nghiên cứu nào dù khoa học tự nhiên hay khoa học xã hội đều sử dụng, luận văn dùng các phương pháp sau đây: - Phương pháp thống kê ngôn ngữ học: Trong luận văn, các đối tượng được thống kê, phân loại là các đơn vị từ, câu, văn bản. Các đối tượng thống kê được phân loại theo nhóm, các số liệu được phân tích theo tỉ lệ, tần suất nhằm tìm ra sự nổi trội của một yếu tố và mối quan hệ giữa các đối tượng. - Phương pháp so sánh đối chiếu: các đối tượng khảo sát được so sánh, đối chiếu với các đối tượng cùng bậc về mức độ sử dụng và hiệu quả của việc sử dụng. Ở đây, chúng tôi chủ yếu so sánh các đối tượng khảo sát trong tương quan với độ dài văn bản. Phương pháp này cũng được dùng để làm rõ sự khác biệt giữa ngôn ngữ truyện đồng thoại với ngôn ngữ thể loại văn học khác. - Phương pháp phân tích quy nạp và diễn dịch: phương pháp này được sử dụng trong quá trình phân tích ngữ liệu để rút ra những kết luận khái quát hay từ nhận định mang tính định hướng, luận văn sẽ làm rõ bằng ngữ liệu. - Phương pháp mô hình hóa: việc xây dựng các mô hình, bảng biểu cho cái nhìn khái quát về hàng loạt các đối tượng cùng loại, ngoài ra, phương pháp này còn có tác dụng trực quan hóa một số kết cấu văn bản cũng như cách tổ chức văn bản đồng thoại. 5.2. Nguồn ngữ liệu Ngoài tác phẩm của một số tác giả chính như Tô Hoài, Võ Quảng, Trần Hoài Dương, Nguyễn Kiên, Viết Linh, Đồng Xuân Lan – các tác giả tiêu biểu của thể loại 8 đồng thoại, luận văn còn sử dụng các tác phẩm tiêu biểu của một số nhà văn khác như Nguyễn Nhật Ánh, Hồng Thủy, Trần Vọng Đức, Nguyễn Thái Vọng, Phương Anh, Trần Ngọc Thanh, Chu Linh, Viễn Phương. Chúng tôi cũng chú ý đến dung lượng các tác phẩm được khảo sát khi lựa chọn 5 truyện dài và 71 truyện ngắn. Để xác định ranh giới truyện ngắn và truyện dài không phải là điều đơn giản, cho nên khi sưu tập và phân loại, chúng tôi tạm dựa vào các tiêu chí sau đây (những tác phẩm thỏa mãn các tiêu chí này được xếp vào truyện đồng thoại dài): (i) Số lượng trang: trên 50 trang (vì truyện dành cho trẻ em); (ii) Hình thức in ấn: được in thành tập riêng khi xuất bản, không dưới dạng truyện tranh. Các tác phẩm được khảo sát cũng được sáng tác trong các giai đoạn khác nhau trong quá trình phát triển của thể loại đồng thoại. (Xem phụ lục 1) 6. Đóng góp của luận văn Luận văn có những đóng góp sau đây: - Nhận diện những đặc điểm cơ bản nhất của ngôn ngữ truyện đồng thoại, đặc biệt là phương diện sử dụng từ vựng và khâu tổ chức văn bản. - Chỉ ra mối liên hệ giữa ngôn ngữ truyện đồng thoại với những đặc trưng thể loại và đặc điểm đối tượng tiếp nhận. - Hệ thống các ví dụ được chọn để minh họa cho những luận điểm trong luận văn có tính chọn lọc cao, đóng góp vào nguồn ngữ liệu cho công tác nghiên cứu ngôn ngữ truyện cho trẻ em. - Góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy tiếng Việt cho học sinh mầm non, tiểu học. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài danh mục tài liệu tham khảo, danh sách ngữ liệu được khảo sát, luận văn có 128 trang gồm phần Mở đầu, Kết luận và 3 chương. Phần Mở đầu (7 trang) trình bày những vấn đề có tính chất trường quy như lý do chọn đề tài, lịch sử vấn đề, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, mục đích nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu, đóng góp của luận văn, cấu trúc 9 luận văn. Chương 1 (23 trang) đề cập đến những vấn đề lý thuyết về thể loại truyện đồng thoại và phong cách ngôn ngữ nghệ thuật. Chương 2 (53 trang) khảo sát những đặc điểm của ngôn ngữ truyện đồng thoại trên bình diện từ ngữ và câu. Chương 3 (42 trang) khảo sát những đặc điểm về kết cấu và liên kết của văn bản đồng thoại. Phần Kết luận (3 trang) tổng kết nội dung luận văn, nêu nhận xét khái quát về đặc điểm ngôn ngữ truyện đồng thoại. 10 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRUYỆN ĐỒNG THOẠI VÀ PHONG CÁCH NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT 1.1. Một số vấn đề chung về truyện đồng thoại 1.1.1. Khái niệm truyện đồng thoại Thuật ngữ truyện đồng thoại có gốc gác từ Trung Quốc xuất hiện ở nước ta vào khoảng những năm 60 của thế kỷ XX khi nền văn học đã cho ra đời những tác phẩm thuộc thể loại này. Trong quá trình sử dụng, nó đã được qui ước lại, thể hiện cách hiểu riêng của văn học Việt Nam. Tìm hiểu thuật ngữ này trong nền văn học Trung Quốc, ta thấy có nhiều điểm khác biệt so với cách hiểu của ta hiện nay. Theo tài liệu Tinh hoa tri thức văn hóa Trung Quốc [50, tr.1156-1157], ta thấy thuật ngữ đồng thoại từ Nhật Bản du nhập vào Trung Quốc cuối thời nhà Thanh. Ban đầu, đồng thoại được hiểu là toàn bộ những tác phẩm có tính kể chuyện cho trẻ em. Nảy sinh từ trong dân gian, thể loại truyện đồng thoại thực sự thu hút trẻ em vì sức tưởng tưởng kỳ diệu và bay bổng của nó, bên cạnh truyền thuyết, thần thoại, tiểu thuyết thiếu nhi... Về sau các nhà văn hiện đại, mà tiên phong là Diệp Thánh Đào đã kế thừa dân gian, học tập phương Tây sáng tác nên nhiều tác phẩm truyện đồng thoại dành cho thiếu nhi. Do vậy, trong nền văn học Trung Quốc, thuật ngữ truyện đồng thoại bao gồm cả đồng thoại dân gian và đồng thoại hiện đại. Căn cứ vào loại hình nhân vật, đồng thoại còn chia thành ba tiểu loại: đồng thoại siêu nhân thể (nhân vật chính là lực lượng thần kì), đồng thoại thường nhân thể (nhân vật chính là con người bình thường) và đồng thoại nghỉ nhân thể (nhân vật chính là những sự vật có sinh mệnh hoặc không có sinh mệnh được nhân cách hóa). Ở Việt Nam, thuật ngữ truyện đồng thoại có nhiều cách hiểu khác nhau, theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (bản in 1994) định nghĩa đồng thoại theo nghĩa rộng: “Đồng thoại: truyện chép cho trẻ con xem” [73,tr. 316]. Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (bản in 2001) lại có cách hiểu khác: “Đồng thoại: thể truyện cho trẻ em, trong đó loài vật và các vật vô tri được nhân cách hóa tạo nên một thế giới thần kì thích hợp với trẻ em” [87, tr. 344]. 11 Bên cạnh đó, một số nhà phê bình trong những bài viết của mình cũng cho ý kiến về vấn đề này. Tiêu biểu là các ý kiến sau đây: Vân Thanh trong bài viết “Tìm hiểu đặc điểm của truyện đồng thoại” đăng trên Tạp chí Văn học (4) năm 1974 đưa ra định nghĩa: “Đồng thoại là một thể loại đặc biệt của văn học, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hiện thực và mơ tưởng. Ở đây, các tác giả thường dùng nhân vật chính là động vật, thực vật và những vật vô tri, lồng cho chúng những tình cảm của con người. (Cũng có khi nhân vật là người). Qua thế giới không thực mà lại thực đó, tác giả lồng cho chúng những tình cảm và cuộc sống của con người. Tính chất mơ tưởng và khoa trương là những yếu tố không thể thiếu được trong đồng thoại” [78, tr. 104]. Cách hiểu của Vân Thanh đã phản ánh được những nét cơ bản của đồng thoại, làm cơ sở cho những định nghĩa khác về sau. Cao Đức Tiến, Dương Thị Hương trong chuyên đề Văn học có đưa ra định nghĩa như sau: “Truyện đồng thoại: là sáng tác của các nhà văn hiện đại, sử dụng nghệ thuật nhân hóa loài vật để kể chuyện về con người, đặc biệt là trẻ em, vì vậy nhân vật chủ yếu là loài vật” [75, tr. 215]. Trong khi đó, Châu Minh Hùng, Lê Nhật Ký quan niệm truyện đồng thoại là: “Thể loại văn học được các nhà văn viết riêng cho các em với bút pháp kế thừa từ đồng thoại dân gian gọi là đồng thoại hiện đại. Vẫn là truyện lấy loài vật (con vật, cỏ cây, hoa quả…) làm đối tượng miêu tả, với tư cách là văn học viết, đồng thoại hiện đại phải mới so với đồng thoại dân gian” [49, tr. 107]. Như vậy, dù có sự khác nhau đôi chút, nhìn toàn thể, các quan niệm trên có sự thống nhất ở hai điểm: (i) truyện đồng thoại là những sáng tác hiện đại trong nền văn học Việt Nam; (ii) đa phần các quan niệm hiểu truyện đồng thoại theo nghĩa hẹp: thể loại truyện kể hiện đại dành cho trẻ em, có hình thức đặc thù là nhân cách hóa loài vật. Luận văn tán đồng hai quan điểm vừa nêu và xem chúng là những tiêu chí nhận diện ban đầu của thể loại truyện đồng thoại. 1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của thể loại truyện đồng thoại Là những tác phẩm thuộc dòng tự sự, truyện đồng thoại hiển nhiên mang những đặc điểm cơ bản mà tất cả các tác phẩm tự sự đều có. Tuy nhiên, nó cũng có những 12 đặc trưng làm nên sự khác biệt so với các thể loại văn học khác. 1.1.2.1. Hướng mục đích giáo dục đến trẻ em Khi nhà văn cầm bút viết một truyện đồng thoại, thì mục đích đầu tiên của họ không gì khác là dành cho trẻ em những bài học giản dị trong gia đình và ngoài xã hội. Bằng con đường đi qua cảm xúc, qua hệ thống nhân vật vừa lạ lẫm vừa thân quen, truyện đồng thoại đem lại những nhận thức lý tính một cách nhẹ nhàng trong những bài học cụ thể, sáng rõ chứ không thâm trầm, sâu xa như thông điệp trong thể loại truyện ngụ ngôn. 1.1.2.2. Nhân cách hóa Hệ thống nhân vật trong truyện đồng thoại rất phong phú, trong đó có cả con người nhưng chiếm đa số là loài vật. Khi xây dựng nhân vật, các nhà văn đồng thoại hướng ngòi viết của mình vào cả con người và loài vật, đem những đặc tính khác biệt ấy vào trong một thực thể. Gán cho loài vật những đường nét tính cách, tình cảm của con người, truyện đồng thoại vẫn tìm cách bảo lưu những đặc điểm tự nhiên vốn có của chúng. Cách làm như vậy tuân thủ nguyên tắc “vật ngã đồng nhất” trong tư duy trẻ thơ, vì vậy dễ dàng tác động đến tâm hồn và tình cảm các em. Miêu tả loài vật nhưng lại hướng vào trẻ em như một đối tượng phản ánh, truyện đồng thoại vừa vẽ nên bức tranh thế giới loài vật sinh động, hấp dẫn đồng thời lại cho các em thấy “có mình” trong đó. Vì thế, các em được sống trong câu chuyện, sau đó tự liên hệ đến mình. Truyện có thể viết về con chó, con vịt, bút chì, thước kẻ… nhưng vẫn đem đến những bài học về cuộc sống xung quanh các em. Theo Lê Nhật Ký, “Nguyên tắc miêu tả kết hợp này có tác dụng nới rộng diện tích nghĩa của hình tượng, khiến cho nhân vật đồng thoại hiện ra vừa là nó (vật), vừa là hình tượng ẩn dụ về con người” [63, tr.32]. 1.1.2.3. Giàu chất hư cấu, tưởng tượng Tiếp xúc với văn chương đồng thoại, không ai không nhận ra sức tưởng tưởng, hư cấu kỳ diệu của nó. Có thể nói, không có hư cấu, tưởng tượng, sẽ không có thể loại văn chương này. Mọi thành tựu trong cuộc sống đều bắt đầu bằng tưởng tưởng, tưởng tượng 13 giúp con người hình dung ra cái chưa có, hoặc cái không thể có. Với văn chương nghệ thuật, tưởng tượng, hư cấu càng quan trọng. Không có nó, nhà văn không thể xây dựng tác phẩm. Điều này đặc biệt đúng với thể loại truyện đồng thoại. Về cơ bản, các tác giả đồng thoại không dựa vào dạng thức vốn có của cuộc sống để xây dựng tác phẩm, mà tập trung khái quát cao độ bản chất của hiện thực rồi lựa chọn hình thức đồ vật, loài vật để phản ánh cái bản chất ấy. Phương pháp tái hiện cuộc sống đặc biệt này làm cho hiện thực có thêm màu sắc. Ở phương diện đối tượng tiếp nhận, với nhận thức lý tính còn non yếu, trẻ em chưa thể nhận thức cuộc sống như người trưởng thành. Vì vậy, tưởng tượng giúp cho các em thoát khỏi những giới hạn, ràng buộc của cuộc sống hằng ngày để mặc sức thả mình phiêu lưu trong thế giới tưởng tượng và ước mơ . Điều này hoàn toàn phù hợp với đặc điểm tâm lý và thiên tính yêu thích tưởng tượng của trẻ em. Tuy nhiên cũng cần lưu ý là tưởng tưởng hư cấu trong truyện đồng thoại không được đi quá giới hạn của nó. Tưởng tượng thiếu căn cứ, đồng thoại sẽ trở thành mộng thoại. Ngược lại, đồng thoại thiếu tưởng tưởng thì trở thành ngốc thoại. Cả hai đều phương hại đến khả năng biểu đạt của thể loại, tư duy cũng như tâm hồn trẻ thơ. 1.1.3. Truyện đồng thoại với một số thể loại gần gũi 1.1.3.1. Truyện đồng thoại và truyện cổ tích loài vật Vốn là một thể loại dân gian, truyện cổ tích loài vật cũng lấy các con vật làm nhân vật chính, như trong truyện Trí khôn của ta đây có Hổ và Trâu. Dựa vào lối tư duy ngây thơ trong quá trình khám phá thế giới tự nhiên, các tác giả dân gian đã lý giải những đặc điểm hay tập tính ở các con vật. Về sau, người sáng tác còn lồng thêm những hiểu biết xã hội khiến cho các nhân vật hiện lên mang dáng dấp của những loại người, hạng người trong xã hội. Điểm chung giữa truyện cổ tích loài vật và truyện đồng thoại là ở phương diện nhân vật. Tuy nhiên, so với truyện cổ tích loài vật, hệ thống nhân vật trong truyện đồng thoại phong phú và đa dạng hơn nhiều. Bên cạnh các con vật, truyện đồng thoại còn sử dụng cả đồ vật, thậm chí là các con số hay các khái niệm trừu tượng làm nhân vật. Nhân vật trong truyện đồng thoại cũng hiện lên cụ thể, sinh động hơn và ít nhiều 14 cá tính hơn. Ngoài ra, bên cạnh một số tác phẩm tiếp tục đi vào chủ đề sự tích, còn lại chủ yếu các tác phẩm hướng tới cuộc sống của trẻ em qua hình tượng loài vật. Ngay cả với những tác phẩm có chủ đề sự tích như Bài học tốt (Võ Quảng) thì chủ đề giáo dục vẫn nổi lên như một cảm hứng chủ đạo. Qua việc lý giải vì sao mai rùa có nhiều vết rạn rứt thì truyện gửi đến bài học về lòng kiên nhẫn, qua đó có tác động giáo dục đến các em. 1.1.3.2. Truyện đồng thoại và truyện ngụ ngôn Truyện ngụ ngôn là một thể loại văn học có mục đích răn đời thông qua hình thức chủ yếu là những câu chuyện kể về loài vật. Nội dung giáo huấn và kiểu loại nhân vật là hai yếu tố đưa đến sự gần gũi giữa thể loại truyện ngụ ngôn và truyện đồng thoại. Theo ý kiến của một số nhà nghiên cứu Cao Đức Tiến- Dương Thị Hương [75], Vân Thanh [78], Võ Quảng [72], Phạm Minh Hạnh [43],… thì ranh giới để phân biệt hai thể loại này thể hiện ở ba phương diện sau: dung lượng, tính chất bài học giáo huấn và phương pháp truyền đạt. Về dung lượng, truyện ngụ ngôn có ngôn ngữ và chi tiết ngắn gọn, súc tích hơn truyện đồng thoại. Theo Phạm Minh Hạnh: “Thông thường thì ngụ ngôn có độ dài rất khiêm tốn, có truyện chỉ 60 đến 70 từ (…). Thường thì truyện ngụ ngôn chỉ khoảng 200 đến 300 từ, ít truyện có đến 500 đến 700 từ hay 1000 từ” [43, tr. 50-51]. Dựa trên một sự việc, thông qua sự ám chỉ, so sánh, ẩn dụ, truyện ngụ ngôn đem đến ý nghĩa triết lý sâu xa. Trong khi đó, theo Lê Nhật Ký: “Những truyện đồng thoại có độ dài khiêm tốn nhất cũng phải đạt 500 đến 600 từ, phổ biến là từ 1000 đến 3000 từ, và không hiếm những truyện có 10.000 từ trở lên. Độ dài như thế là cần thiết giúp cho truyện đồng thoại có khả năng diễn tả một cách cụ thể, rõ ràng các tình huống, sự việc của câu chuyện”[63, tr. 37]. Nhờ đó, truyện đồng thoại cũng thuận lợi hơn trong việc miêu tả nhân vật, hình huống, thiên nhiên…, do đó, có khả năng thu hút trẻ em hơn là truyện ngụ ngôn quá giản lược, cô đọng tối đa. Về tính chất bài học giáo huấn, bài học trong truyện đồng thoại đơn giản và cụ thể, phù hợp với tuổi thơ chứ không thâm trầm và triết lý sâu xa như ở ngụ ngôn. Để hiểu được ý nghĩa sâu xa của truyện ngụ ngôn, người đọc phải là người từng trải, có 15 kinh nghiệm sống còn trẻ em có thể chỉ hiểu phần diễn truyện mà thôi. Về phương pháp truyền đạt, cả hai thể loại truyện đều lấy loài vật, đồ vật, cỏ cây làm nhân vật và đều nhân cách hóa chúng. Tuy nhiên, truyện đồng thoại lấy loài vật vừa làm đối tượng phản ánh vừa làm phương tiện chuyển tải thông điệp còn truyện ngụ ngôn thì chỉ xem nhân vật như là phương tiện chuyển tải nội dung giáo dục mà thôi. Dó đó, nhân vật trong truyện ngụ ngôn có thể được thay thế một cách dễ dàng mà không phương hại đến các lớp nội dung truyện như là ở truyện đồng thoại. Truyện ngụ ngôn không đặt mục tiêu miêu tả nhân vật, còn ngược lại, miêu tả nhân vật là một nhiệm vụ có tính chất bắt buộc đối với truyện đồng thoại vì nhân vật trong truyện đồng thoại có ngoại hình, tính cách, đời sống nội tâm sâu sắc hơn nhiều. Trong khi xây dựng nhân vật, truyện ngụ ngôn dùng lối ẩn dụ, kín đáo thì truyện đồng thoại chủ yếu theo lối cách điệu. Cho nên, ngụ ngôn càng thâm trầm, sâu sắc, triết lý bao nhiêu thì càng hay còn đồng thoại thì càng hồn nhiên, giản dị, nhiều cảm xúc thì càng hấp dẫn được trẻ nhỏ. 1.1.3.3. Truyện đồng thoại và truyện loài vật Truyện loài vật là một thể loại văn học viết dành cho thiếu nhi, có chức năng phản ánh đời sống sinh hoạt của loài vật nên nhân vật chính cũng là các con vật. Cũng giống như truyện đồng thoại, truyện loài vật cũng miêu tả đời sống các loài vật như nó vốn có ngoài đời. Tuy nhiên, ở truyện đồng thoại, mức độ miêu tả có giới hạn hơn. Hơn nữa, nếu truyện loài vật lấy thủ pháp tả thực làm chính thì truyện đồng thoại lại chuộng thủ pháp nhân cách hóa. Do đó, nhân vật truyện đồng thoại hiện lên vừa là nó (vật ) vừa là hình ảnh biểu trưng về con người. 1.1.4. Đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật của truyện đồng thoại 1.1.4.1. Nội dung Truyện đồng thoại có được từ nguồn cảm hứng về thế giới tự nhiên và cả cảm hứng về cuộc sống con người. Bên canh đó, thể loại truyện này cũng đem đến những bài học lý thú cho trẻ em, thậm chí là cho cả người lớn. Xuất phát từ việc lấy loài vật, cỏ cây, sông nước làm đối tượng nhận thức, miêu tả, truyện đồng thoại đem đến cho độc giả những điều kì lạ, lí thú của thế giới tự 16 nhiên. Dù thiên nhiên được nhà văn phú cho tâm hồn, tính cách như con người thì chúng vẫn phải được bảo lưu những đặc điểm tự nhiên của mình. Cho nên, bước vào thế giới đồng thoại, người đọc sẽ được khám phá tự nhiên muôn hình vạn trạng. Trong thế giới tự nhiên phong phú ấy, trọng tâm vẫn là loài vật và những sự vật, hiện tượng có mối quan hệ gần gũi với con người. Đối với người lớn, những sự vật, hiện tượng trong truyện đồng thoại không có gì xa lạ nhưng với các em, đó là cả một thế giới cần nhận thức và lí giải: đời sống, “phong tục”, những tập tính ngộ nghĩnh của loài vật, những biến hóa kì diệu của thiên nhiên trong quá trình phát triển… Trong truyện đồng thoại, có lúc thế giới loài vật được miêu tả trong mối quan hệ cộng sinh đa dạng với con người. Trong mối quan hệ ấy, loài vật trở nên có “số phận”, đồng thời là đối tượng khiến con người bộc lộ nhân tính. Qua đó, nhà văn nói lên tiếng nói nhân văn, ca ngợi tình yêu thương loài vật và phê phán những hành động tàn nhẫn, phi nhân tính. Cũng giống như các thể loại văn chương khác, truyện đồng thoại dù viết về đề tài gì, đối tượng nào, mục đích cuối cùng vẫn nhằm thể hiện cuộc sống con người. Đa phần các câu chuyện phản ánh thế giới tuổi thơ hồn nhiên, trong sáng. Nhân vật - chủ yếu là loài vật - được phú cho những đường nét, tính cách trẻ em trong những mối quan hệ đời thường: quan hệ mẹ con, quan hệ bạn bè, thầy trò…, qua đó mà bộc lộ cái hay, cái dở của lứa tuổi mình. Khi khắc họa tính cách trẻ con, nhà văn bao giờ cũng thể hiện cái nhìn bao dung, tin tưởng vào khả năng hướng thiện của các em. Vì vậy, khi phản ánh cái ác, cái xấu cũng là lúc nhà văn muốn các em “tham gia” đấu tranh vì một thế giới tốt đẹp. Bên cạnh thế giới trẻ em hồn nhiên, trong sáng, truyện đồng thoại cũng đề cập đến thế giới của người trưởng thành, tất nhiên là dưới con mắt thơ trẻ. Một số tác phẩm trước Cách mạng tháng Tám, như của Tô Hoài chẳng hạn, nói đến cái đói, cái nghèo, sự lạc hậu, sự bế tắc,… nhưng chủ yếu là để khơi gợi sự đồng cảm, yêu thương đồng loại cho trẻ em là chính. Bên canh đó, một số tác phẩm, chịu sự chi phối của thời đại và nhiện vụ của văn chương tuyên truyền, cũng phản ánh không khí lịch sử, cuộc sống mới, con người mới như một số truyện trong giai đoạn 1955 – 1985. Được sáng tác chủ yếu vì trẻ em, truyện đồng thoại đem lại nhiều bài học giản dị 17 mà sâu sắc cho lứa tuổi này. Đó là bài học về lí tưởng cuộc sống, bài học về tình yêu quê hương đất nước, bài học về lòng nhân ái, yêu thương đồng loại, yêu thương loài vật, bài học về thái độ sống nghiêm túc, trung thực, bài học về cách nhìn người, bài học về đức tính siêng năng, thái độ tôn trọng môi trường,… Bên cạnh đó, truyện đồng thoại còn gửi gắm những thông điệp có thể có ích cho cả người lớn. Đó là việc nhận rõ trách nhiệm của mình trong sự trưởng thành nhân cách của trẻ em, hiểu được thái độ, cách ứng xử trong cuộc sống, nhận ra thói sỉ diện, thói a dua, xu nịnh…Đôi khi, truyện đồng thoại còn đem đến thông điệp cho người làm nghệ thuật và cho những ai muốn giữ gìn cái đẹp ở đời. Với những đặc điểm nội dung kể trên, truyện đồng thoại cũng phải tìm cho mình những thủ pháp, phương tiện nghệ thuật tương ứng. 1.1.4.2. Nghệ thuật Truyện đồng thoại có những đặc thù riêng trong hệ thống nhân vật, các biện pháp xây dựng nhân vật, nghệ thuật tổ chức cốt truyện và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Truyện đồng thoại có hệ thống nhân vật phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, theo Lê Nhật Ký, loại nhân vật phổ biến là muông thú (chiếm 81,30 %), cỏ cây, hoa lá (chiếm 6,35%), đồ vật (chiếm 6,35 %). Con người ít xuất hiện, nếu có cũng không giữ vai trò chính [63, tr.101]. Một đặc điểm quan trọng nữa là nhân vật trong truyện đồng thoại chủ yếu là những con vật nhỏ bé, quen thuộc. Điều này được Lê Nhật Ký lí giải là do sự quy định của không gian địa lý, văn hóa người Việt, trải nghiệm của chủ thể sáng tạo và tâm lý của chủ thể tiếp nhận. Nhân vật trong truyện đồng thoại được đặt tên chủ yếu theo danh từ chung hoặc theo một đặc điểm nào đó của đối tượng, ngoại hình được miêu tả theo lối chấm phá, ngắn gọn, phẩm chất, tính cách được khắc họa chủ yếu thông qua hành động, qua các xung đột, tình huống, sự kiện tiêu biểu. Đặc biệt, nhân vật trong thể loại truyện này mang tính biểu trưng về con người. Trong nghệ thuật tổ chức cốt truyện, các kiểu cốt truyện chính thường được sử dụng là cốt truyện tuyến tính - hành động, cốt truyện phiêu lưu, cốt truyện đối 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan