Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Cưỡng bức tình dục trong hôn nhân (nghiên cứu trường hợp tại xã gia vượng, huyện...

Tài liệu Cưỡng bức tình dục trong hôn nhân (nghiên cứu trường hợp tại xã gia vượng, huyện gia viễn, tỉnh ninh bình và phường tứ liên, quận tây hồ, thành phố hà nội)

.PDF
116
592
96

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ KIM DUNG Cưỡng bức tình dục trong hôn nhân - Nghiên cứu trường hợp tại xã Gia Vượng, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình và phường Tứ Liên, Quận Tây Hồ, Hà Nội 1 Luận văn thạc sỹ Nguyễn Thị Kim Dung MỤC LỤC MỞ ĐẦU ……………………………………………………….....................5 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ……………………………………………….5 2. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI………………7 2.1. Ý nghĩa lý luận………………………………………………………….7 2.2. Ý nghĩa thực tiễn …………………………………………………………...…7 3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU………………………………………………..7 4. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU………………………………………...…7 5. ĐỐI TƢỢNG, KHÁCH THỂ, PHẠM VI, MẪU NGHIÊN CỨU…...8 5.1. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………..........8 5.2. Khách thể nghiên cứu..............................................................................8 5.3. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................8 5.4. Mẫu nghiên cứu.......................................................................................8 6. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..........................................................8 6.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi......................................................8 6.2. Phương pháp thảo luận nhóm tập trung………………………………………………………………………………….10 6.3. Phương pháp phỏng vấn sâu.................................................................11 6.4. Phương pháp phân tích tài liệu............................................................12 6.5. Phương pháp quan sát...........................................................................12 7. NHỮNG KHÓ KHĂN GẶP PHẢI CÓ THỂ LÀM HẠN CHẾ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.....................................................................................12 7.1. Sự né tránh bàn đề chủ đề cưỡng bức tình dục trong hôn nhân.........12 7.2. Hạn chế về lực lượng nghiên cứu..........................................................13 8. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU……14 9. KHUNG LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU……………………………..15 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI……...15 2 Luận văn thạc sỹ Nguyễn Thị Kim Dung 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.............................................15 2. PHƢƠNG PHÁP LUẬN……………………………………………...157 3. CƠ SỞ LÝ LUẬN…………………………………………………….19 3.1. Các khái niệm được sử dụng trong luận văn........................................19 3.2. Những lý thuyết được sử dụng trong luận văn.....................................22 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CƯỠNG BỨC TÌNH DỤC TRONG HÔN NHÂN.............................................................................................................29 1. VÀI NÉT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU.............................................29 1.1. Lý do lựa chọn địa bàn nghiên cứu.......................................................29 1.2. Đặc điểm của địa bàn nghiên cứu.........................................................30 2. THỰC TRẠNG CƢỠNG ÉP TÌNH DỤC TRONG HÔN NHÂN....33 2.1. Mức độ cưỡng bức tình dục trong hôn nhân .......................................33 2.2. Tâm trạng và quan niệm của người trong cuộc – những phụ nữ đã từng bị cưỡng bức tình dục...........................................................................37 2.3. Quan điểm của Nam giới về cưỡng bức tình dục trong hôn nhân................................................................................................................45 2.4. Quan điểm và thái độ của chính quyền địa phương.............................52 2.5. Mối liên hệ giữa cưỡng bức tình dục trong hôn nhân và các hình thức bạo lực gia đình đối với phụ nữ.....................................................................58 3. NGUYÊN NHÂN CỦA CƢỠNG BỨC TÌNH DỤC TRONG HÔN NHÂN.............................................................................................................57 3.1. Các nguyên nhân từ nam giới...............................................................58 3.2. Các nguyên nhân từ gia đình................................................................64 3.3. Các nguyên nhân từ cộng đồng.............................................................67 3.4. Xã hội......................................................................................................69 4. HẬU QUẢ CỦA CƢỠNG BỨC TÌNH DỤC TRONG HÔN NHÂN.............................................................................................................80 4.1. Đối với người bị cưỡng bức....................................................................77 3 Luận văn thạc sỹ Nguyễn Thị Kim Dung 4.2. Đối với người cưỡng bức........................................................................83 4.3. Đối với gia đình......................................................................................85 4.4. Đối với xã hội.........................................................................................88 KẾT LUẬN – KHUYẾN NGHỊ…………………………………………..89 1. KẾT LUẬN……………………………………………………………89 2. KHUYẾN NGHỊ……………………………………………………...90 2.1. Về cách tiếp cận lồng ghép....................................................................90 2.2. Về việc nâng cao nhận thức...................................................................90 2.3. Về luật pháp............................................................................................91 2.4. Về hoạt động tập huấn...........................................................................91 TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………92 PHỤ LỤC…………………………………………………………………..96 4 Luận văn thạc sỹ Nguyễn Thị Kim Dung MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI “Bạo lực chống lại phụ nữ là biểu hiện của các quan hệ quyền lực không bình đẳng về mặt lịch sử giữa nam giới và nữ giới, điều đó dẫn tới sự thống trị và phân biệt dối xử của nam giới đối với phụ nữ và ngăn cản sự tiến bộ mọi mặt của phụ nữ” (United Nations 1995) Trước năm 1993, phần lớn các Chính phủ coi bạo lực chống lại phụ nữ chủ yếu là vấn đề riêng tư giữa các cá nhân (United Nations 1996). Tuy nhiên trong những thập kỷ gần đây, xóa bỏ tình trạng phân biệt đối xử đối với phụ nữ đã trở thành một trong những nội dung quan trọng của cuộc đấu tranh vì quyền con người của phụ nữ. Phụ nữ có quyền bình đẳng với nam giới trên tất cả các lĩnh vực là nội dung được ghi nhận trong hệ thống pháp luật quốc tế và hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới. Bạo lực gia đình đối với phụ nữ là một trong những hình thức của bạo lực chống lại phụ nữ. Các nghiên cứu trên thế giới đã cho thấy bạo lực gia đình là một hiện tượng có tính chất toàn cầu và hiện đang tác động đến khoảng 20-50% toàn bộ phụ nữ trên thế giới. “Phần lớn bạo lực chống lại phụ nữ xảy ra trong gia đình và người gây ra bạo lực gần như luôn luôn là đàn ông” (WHO 1998). Bạo lực gia đình ngày càng được nhìn nhận như “một trở ngại đối với sự bình đẳng và là sự vi phạm không thể chấp nhận được đối với nhân phẩm con người” 1. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên ký Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ của Liên Hiệp Quốc 1 Vũ Mạnh Lợi và cộng sự: “Việt Nam- Bạo lực trên cơ sở giới”. Hà nội, 11/1999, trang 16 5 Luận văn thạc sỹ Nguyễn Thị Kim Dung (CEDAW) và Chương trình hành động Bắc Kinh. Điều này cho thấy chính phủ Việt Nam đã nhận thức được tầm quan trọng của việc xóa bỏ nạn bạo lực chống lại phụ nữ nói chung và bạo lực gia đình đối với phụ nữ nói riêng đối với sự phát triển của phụ nữ, đối với mục tiêu bình đẳng giới. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, bạo lực gia đình đã được đề cập đến trên các phương tiện truyền thông đại chúng, nhiều nghiên cứu về bạo lực gia đình được thực hiện, các mô hình phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ được áp dụng ở các địa phương. Tuy nhiên, trong 3 hình thức bạo lực gia đình được đề cập đến là: bạo lực thể chất, bạo lực tình thần và bạo lực tình dục thì hình thức bạo lực tình dục dường như ít được “quan tâm” hơn cả bởi tính chất nhạy cảm của nó. Trong nền văn hóa Việt Nam, tình dục là vấn đề ít được các cặp vợ chồng thảo luận một cách cởi mở. Những nghiên cứu hiện nay về phụ nữ Việt Nam cho thấy người phụ nữ thường được mô tả là tương đối “thụ động” trong quan hệ tình dục. Họ có vẻ chấp nhận và chịu đựng trong quan hệ tình dục với chồng hơn là tham gia một cách chủ động trong quan hệ này. Do vậy, cưỡng bức tình dục trong hôn nhân thường khó được nhận biết bởi nó bị che lấp bởi những chuẩn mực đạo đức, những quan niệm về đức hạnh của phụ nữ . Cưỡng bức tình dục không chỉ gây ra những tổn thương về mặt thể xác mà còn gây ra những hậu quả về tinh thần đối với người phụ nữ cũng như ảnh hưởng tới hạnh phúc gia đình. Trên cơ sở đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Cưỡng bức tình dục trong hôn nhân - Nghiên cứu trường hợp tại xã Gia Vượng, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình và phường Tứ Liên, Quận Tây Hồ, Hà Nội” làm đề tài luận văn nhằm tìm hiểu thực trạng của vấn đề cưỡng bức tình dục trong hôn nhân tại nông thôn và đô thị Việt Nam, nguyên nhân của vấn đề này cũng như những hậu quả đối với người phụ nữ và cuộc sống gia đình. 6 Luận văn thạc sỹ Nguyễn Thị Kim Dung 2. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 2.1. Ý nghĩa lý luận Phòng chống bạo lực với phụ nữ trong gia đình nói chung và vấn đề cưỡng bức tình dục trong hôn nhân nói riêng được rất nhiều ngành khoa học và tổ chức xã hội quan tâm nghiên cứu. Việc vận dụng các kiến thức xã hội học vào nghiên cứu chủ đề trên sẽ góp phần làm phong phú thêm lý thuyết của khoa học xã hội học. 2.2. Ý nghĩa thực tiễn Cưỡng bức tình dục trong hôn nhân là một vấn đề có tính “nhạy cảm” nhất là trong một xã hội mà các chuẩn mực, giá trị vẫn chịu ảnh hưởng của quan niệm Nho giáo. Nghiên cứu góp phần đưa ra một bức tranh rõ nét về thực trạng về hiện tượng cưỡng bức tình dục trong hôn nhân-một biểu hiện của sự vi phạm quyền con người. Kết quả nghiên cứu góp phần lý giải mức độ phổ biến, các hình thức của cưỡng bức tình dục trong hôn nhân; nguyên nhân dẫn đến cưỡng bức tình dục và hậu quả. Từ đó, nghiên cứu đưa ra một số kết luận và khuyến nghị làm cơ sở cho các tổ chức xã hội có cùng mối quan tâm cũng như đưa ra một vài khuyến nghị có tính khả thi . 3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Mục đích của đề tài là tìm hiểu thực trạng vấn đề cưỡng bức tình dục trong hôn nhân (tại một vùng nông thôn Bắc bộ và một phường của thành phố Hà Nội), từ đó tìm ra các nguyên nhân và hậu quả cũng như đề xuất một số khuyến nghị, giải pháp nhằm giải quyết vấn đề này. 4. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 4.1. Tìm hiểu quan niệm và hành vi tình dục của nam giới và phụ nữ trong gia đình. 4.2. Tìm hiểu và phân tích mối liên hệ giữa cưỡng bức tình dục trong hôn nhân và các hành vi bạo lực gia đình khác. 4.3. Tìm hiểu và phân tích các nguyên nhân và hậu quả của vấn đề cưỡng bức tình dục trong hôn nhân. 7 Luận văn thạc sỹ 4.4. Nguyễn Thị Kim Dung Tìm hiểu kiến thức và hành vi của lãnh đạo chính quyền đối với vấn đề cưỡng bức tình dục trong hôn nhân. 4.5. Đưa ra kết luận và đề xuất một số khuyến nghị, giải pháp nhằm giải quyết vấn đề cưỡng bức tình dục trong hôn nhân. 5. ĐỐI TƢỢNG, KHÁCH THỂ, PHẠM VI, MẪU NGHIÊN CỨU 5.1. Đối tượng nghiên cứu: Cưỡng bức tình dục trong hôn nhân 5.2. Khách thể nghiên cứu - Phụ nữ và nam giới đã có gia đình trong độ tuổi từ 20-55 - Nạn nhân và thủ phạm của bạo lực gia đình chống lại phụ nữ. - Cán bộ chính quyền, đoàn thể 5.3. Phạm vi nghiên cứu - Thời gian: từ 06/2007 đến 7/2008 - Không gian: nghiên cứu chọn mẫu tại xã Gia Vượng huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình, và phường Tứ Liên, Quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. 5.4. Mẫu nghiên cứu - 400 bảng hỏi - 6 thảo luận nhóm với người dân, cán bộ chính quyền đoàn thể - 26 phỏng vấn sâu với nam giới gây bạo lực gia đình, phụ nữ là nạn nhân và nhóm cán bộ chính quyền đoàn thể. 6. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu đã sử dụng kết hợp các phương pháp định tính và định lượng để thu thập thông tin. Các phương pháp cụ thể bao gồm: 6.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi Nhằm tìm hiểu mức độ phổ biến và nhận thức của nam giới và phụ nữ đã lập gia đình, chúng tôi đã tiến hành phương pháp điều tra bằng bảng hỏi. Một bảng hỏi ngắn gọn với 15 câu hỏi đã được xây dựng. Việc chọn mẫu được tiến hành như sau: Dựa trên danh sách các hộ gia đình do các cộng tác 8 Luận văn thạc sỹ Nguyễn Thị Kim Dung viên dân số cung cấp, chúng tôi lựa chọn các gia đình có các cặp vợ chồng trong độ tuổi cần thu thập. Sau đó, số hộ gia đình được chia đều cho số mẫu cần lấy. Khi đã xác định được khoảng cách mẫu, chúng tôi tiếp tục lựa chọn ngẫu nhiên có chủ đích dựa trên danh sách sao cho số nam giới và số phụ nữ được mời trả lời là bằng nhau và không có cặp vợ chồng nào cùng được hỏi. Kết quả thu được 396 bảng hỏi (200 bảng tại Hà Nội và 196 bảng tại Ninh Bình) với các đặc điểm cụ thể như sau:  Giới tính: nam: 192 (48,5%); nữ: 204 (51,5%)  Độ tuổi Độ tuổi Số người (tỷ lệ) Dưới 20 tuổi 16 người (4 %) Từ 20 – 35 tuổi 188 (47,5%) Từ 36-50 tuổi 144 người (36,4%) Trên 50 tuổi 48 người (12,1%)  Số con trong gia đình Số con trong gia đình Số người (tỷ lệ) Chưa có con 18 người (4,5%) 1 con 60 người (15,2%) 2 con 252 người (63,6%) 3 con 36 người (9,1%) Nhiều hơn 3 con 30 người (7,6%)  Số năm kết hôn Số năm kết hôn Số người (tỷ lệ) 1-5 năm 62 người (15,7%) 9 Luận văn thạc sỹ Nguyễn Thị Kim Dung 6-10 năm 84 người (21,2%) 11- 15 năm 104 người (26,3%) 16-20 năm 40 người (10,1%) Trên 20 năm 106 người (26,7%)  Trình độ học vấn - Cấp 1: 34 người (8,6%) - Cấp 2: 130 người (32,8%) - Cấp 3: 112 người (28,3%) - Trung cấp, cao đẳng: 82 người (20,7%) - Đại học: 30 người (7,6%) - Sau Đại học: 8 người (2%)  Nghề nghiệp - Nông nghiệp: 160 người (40,4%) - Buôn bán nhỏ: 80 người (20,2%) - Cán bộ nhà nước: 156 (39.4%) - Nghề khác: 8 (làm việc tại công ty tư nhân) (2%) 6.2. Phương pháp thảo luận nhóm tập trung 6 cuộc thảo luận nhóm tập trung đã thực hiện tại 2 địa bàn nghiên cứu với 1) nhóm người dân ở các địa phương, đó là nam giới và phụ nữ đã có gia đình (2 nhóm nam và 2 nhóm nữ); 2) Nhóm lãnh đạo xã/phường và các ban ngành đoàn thể tại địa phương. 10 Luận văn thạc sỹ Nguyễn Thị Kim Dung Địa điểm chủ yếu để tiến hành các thảo luận nhóm tập trung là tại hội trường UBND xã/phường. 6.3. Phương pháp phỏng vấn sâu Mục tiêu chung của phương pháp phỏng vấn sâu nhằm giúp người nghiên cứu hiểu sâu, hiểu kỹ về vấn đề cưỡng bức tình dục trong hôn nhân. Phương pháp phỏng vấn sâu bán cấu trúc được sử dụng trong toàn bộ cuộc nghiên cứu. Các bảng hướng dẫn phỏng vấn sâu được xây dựng chi tiết cho từng đối tượng để đảm bảo thu được thông tin đầy đủ phục vụ cho nghiên cứu. Người phỏng vấn tự do hoàn toàn trong cách dẫn dắt cuộc phỏng vấn, đặt trình tự các câu hỏi và cách thức đặt câu hỏi nhằm thu thập được thông tin mong muốn. Trong quá trình phỏng vấn, cá nhân nào am hiểu về vấn đề nào trong nghiên cứu, thì điều tra viên tập trung hỏi sâu cá nhân này về vấn đề đó. Việc chọn người để phỏng vấn có chủ định, đó là những người có liên quan đến mục tiêu nghiên cứu. Cụ thể trong nghiên cứu này chúng tôi đã tiến hành 26 phỏng vấn sâu với: - 2 Chủ tịch Hội Phụ nữ xã/phường - 2 đại diện lãnh đạo UBND - 2 nhân viên y tế. - 10 phụ nữ có gia đình đã từng bị bạo lực gia đình - 10 nam giới đã có gia đình và từng có hành vi bạo lực gia đình Do tính chất “nhạy cảm” của chủ đề nên việc lựa chọn phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình và nam giới là thủ phạm rất khó khăn. Đầu tiên chúng tôi lựa chọn dựa trên danh sách do Hội phụ nữ cung cấp. Do đó hầu hết các trường hợp được xác định đều là bạo lực thể xác trong gia đình. Tiếp đó chúng tôi sử dụng phương pháp quả bóng tuyết để tiếp tục lựa chọn thêm những người được phỏng vấn. Tức là khi phỏng vấn một nạn nhân của bạo lực gia đình, chúng tôi hỏi họ về những trường hợp giống như họ và họ sẽ giới thiệu cho chúng tôi trường hợp đó. Mặt khác, hai nghiên cứu viên nam 11 Luận văn thạc sỹ Nguyễn Thị Kim Dung có kinh nghiệm cũng được mời cộng tác để phỏng vấn và điều hành các thảo luận với nhóm nam giới. 6.4. Phương pháp phân tích tài liệu Nhằm thu thập các thông tin liên quan đến chủ đề nghiên cứu, ngay từ khi bắt đầu xây dựng đề cương nghiên cứu đến trước khi viết báo cáo chúng tôi đã tiến hành thu thập các tài liệu có liên quan. Các tài liệu đó bao gồm: - Các công trình nghiên cứu, tạp chí, kỷ yếu hội thảo của một số tổ chức làm việc về vấn đề bạo lực trong gia đình và bạo lực tình dục, sức khoẻ tình dục… - Các bài viết, số liệu, công trình nghiên cứu được đăng trên các tạp chí Khoa học như tạp chí Xã hội học, tạp chí Cộng sản, báo Gia đình Xã hội… và các website trong nước và quốc tế trên mạng Internet - Các báo cáo của địa bàn nghiên cứu có liên quan đến chủ đề nghiên cứu. 6.5. Phương pháp quan sát Phương pháp quan sát cũng được sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu để nhằm hiểu rõ hơn các thông tin qua thái độ, cử chỉ, hành vi cũng như môi trường và hoàn cảnh của người cung cấp thông tin. 7. NHỮNG KHÓ KHĂN GẶP PHẢI CÓ THỂ LÀM HẠN CHẾ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 7.1. Sự né tránh bàn đề chủ đề cưỡng bức tình dục trong hôn nhân Cưỡng bức tình dục trong hôn nhân là một chủ đề nhạy cảm và khó khăn trong việc thu thập thông tin, trong quá trình tiến hành nghiên cứu, chúng tôi gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với các khách thể nghiên cứu để lấy thông tin. Câu trả lời khẳng định ban đầu rất phổ biến mà chúng tôi thu được thường là không có một trường hợp cưỡng bức tình dục trong hôn nhân. Các đại diện lãnh đạo UBND nơi chúng tôi tiến hành thu thập thông tin đều khăng khăng rằng ở địa phương của họ không xảy ra chuyện 12 Luận văn thạc sỹ Nguyễn Thị Kim Dung đó. Và khi chúng tôi dẫn chứng một số trường hợp thì họ đã từ chối trả lời và chuyển trách nhiệm đó cho các ban ngành khác. Để thu thập được thông tin, chúng tôi đã không thể nói rõ mục tiêu nghiên cứu với những người cung cấp thông tin vì khi tiến hành nghiên cứu thử chúng tôi đã thất bại khi thu thập thông tin và vấp phải sự phản ứng mạnh mẽ đối với chủ đề được coi là nhạy cảm này. Chúng tôi đã phải khéo léo nói rằng nghiên cứu của chúng tôi nhằm tìm hiểu thực trạng về sức khoẻ tình dục, tuy nhiên các nội dung và đối tượng thu thập thông tin vẫn được đảm bảo như trong đề cương nghiên cứu đã đề ra. Trước sự không hợp tác từ phía lãnh đạo địa phương, chúng tôi đã cộng tác với các cán bộ dân số và cán bộ Hội Phụ nữ tại các địa phương này. Khi tiến hành nghiên cứu thử các phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm, chúng tôi cũng thấy rằng cụm từ “cưỡng bức tình dục trong hôn nhân” đã gây ra sự khó chịu ở nhóm nam giới tham gia cung cấp thông tin, do đó họ không có tâm lý muốn trả lời hoặc thảo luận những vấn đề liên quan. Và để khắc phục khó khăn này chúng tôi đã phải sửa cụm từ “cưỡng bức tình dục trong hôn nhân” thành “quan hệ tình dục không mong muốn trong hôn nhân”. Những nam giới tham gia phỏng vấn được giải thích rằng quan hệ tình dục không mong muốn trong hôn nhân là việc một người vẫn quan hệ tình dục với vợ khi đã nhận thấy vợ không mong muốn việc quan hệ đó. Việc sửa đổi tên gọi đã cho kết quả là nam giới đã cộng tác với nhà nghiên cứu một cách tích cực và cởi mở hơn trước đó. Tuy nhiên đối với một số trường hợp, khi chúng tôi nhận thấy nam giới rất cởi mở, thì chúng tôi vẫn sử dụng cụm từ “cưỡng bức tình dục trong hôn nhân”. 7.2. Hạn chế về lực lượng nghiên cứu Ban đầu, tác giả đã mời hai nghiên cứu viên nữ cùng tham gia nghiên cứu, tuy nhiên trong nghiên cứu thử, chúng tôi đã gặp khó khăn khi lấy thông tin từ nam giới bởi sự khác biệt về giới tính và sự khó khăn khi bàn luận chủ đề tình dục giữa những người khác giới. Do đó khi tiến hành nghiên cứu, hai nghiên cứu viên nam có kỹ năng về thu thập thông tin và kinh nghiệm nghiên 13 Luận văn thạc sỹ Nguyễn Thị Kim Dung cứu trên lĩnh vực này đã được mời tham gia hướng dẫn thảo luận và phỏng vấn với nhóm nam giới và một nghiên cứu viên nữ cùng với tác giả phỏng vấn nhóm phụ nữ. Trong suốt quá trình thu thập thông tin, chúng tôi đã gặp một số trường hợp mà người nói không cho ghi âm, không cho ghi chép, không cho hỏi lại thông tin nếu chúng tôi không kịp nghe hoặc nhớ. Tuy nhiên vì nhóm nghiên cứu bao giờ cũng gồm ít nhất hai người nên chúng tôi đã duy trì được các cuộc “cùng nhớ lại” và ghi chép tương đối kết quả. Những thông tin này là một bổ sung quý giá cho nhiều trường hợp không dùng được máy ghi âm. Nó được chính xác hóa nhờ sự kết hợp thảo luận giữa những người trong nhóm phỏng vấn. 8. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU Khi bắt đầu tiến hành nghiên cứu, tác giả đã đặt ra các câu hỏi nghiên cứu: - Cưỡng bức tình dục trong hôn nhân có phải là một hiện tượng phổ biến không? Có sự khác biệt gì giữa nông thôn và thành phố? - Nguyên nhân của hiện tượng cưỡng bức tình dục trong hôn nhân là gì? Và những hậu quả của nó ra sao? Từ những câu hỏi nghiên cứu trên, tác giả đã đi đến các giả thuyết nghiên cứu sau: 8.1. Cưỡng bức tình dục trong hôn nhân xảy ra phổ biến tại các gia đình ở nông thôn và đô thị 8.2. Cưỡng bức tình dục có mối liên hệ với các hành vi bạo lực bạo lực gia đình đối với phụ nữ. 8.3. Nguyên nhân của cưỡng bức tình dục là sự bất bình đẳng giới trong gia đình, các định kiến giới liên quan đến vấn đề tình dục trong hôn nhân và sự khác nhau trong quan điểm về tình dục giữa vợ và chồng. 8.4. Cưỡng bức tình dục trong hôn nhân ảnh hưởng đến sức khỏe của người vợ, tâm lý của người chồng và cuộc sống gia đình. 14 Luận văn thạc sỹ Nguyễn Thị Kim Dung 9. KHUNG LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU Bối cảnh kinh tế-xã hội Sự khác nhau về quan điểm, kiến thức tình dục giữa vợ và chồng Bất bình đẳng giới trong gia đình Cƣỡng bức tình dục trong hôn nhân Các định kiến giới liên quan đến vấn đềtình dục trong hôn nhân Các hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Theo Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO-1997), bạo lực tình dục được nhận thấy như một vấn đề ưu tiên trong các vấn đề sức khỏe cộng đồng và nhân quyền bởi vì vấn đề này tồn tại ở nhiều nước trên thế giới và gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của người phụ nữ. Cưỡng bức tình dục trong hôn nhân là một hình thức bạo lực đối với phụ nữ, nó không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe về mặt thể chất mà cả về mặt tinh thần. Do vậy, trên thế giới đã có rất nhiều bài viết khoa học đề cập đến vấn đề này. Bài báo “Bạo hành tình dục với phụ nữ: một vấn đề toàn cầu” (1999), tác giả Randall đã nhấn mạnh rằng bạo lực tình dục nằm ở cốt lõi của mối 15 Luận văn thạc sỹ Nguyễn Thị Kim Dung quan hệ không bình đẳng giữa nam với nữ và nó ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục của người phụ nữ. Bài báo cũng chỉ ra rằng các định kiến giới và sự thống trị quyền lực của nam giới đã nuôi dưỡng và làm trầm trọng hơn tình trạng cưỡng bức tình dục trong hôn nhân2 Bài báo “Cưỡng bức tình dục” trong “Báo cáo dân số” của Tổ Chức Y Tế Thế Giới về chủ đề bạo lực chống lại phụ nữ số 4 năm 1999 cho biết kết quả của một nghiên cứu định lượng về nguy cơ lây nhiễm HIV của phụ nữ ở 15 quốc gia cho thấy nhiều phụ nữ là nạn nhân của sự cưỡng ép tình dục trong hôn nhân. Thậm chí nhiều người trong số họ đã bị chồng đánh đập để ép quan hệ tình dục3. Ở Việt Nam, vấn đề bạo lực gia đình mới được nghiên cứu trong khoảng 10 năm trở lại đây. Tuy nhiên vẫn chưa có những nghiên cứu ở diện rộng, đặc biệt thiếu vắng những nghiên cứu riêng biệt về bạo lực tình dục trong gia đình. Năm 1997, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tiến hành một nghiên cứu về bạo lực gia đình. Trong nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu sử dụng các số liệu thứ cấp lấy từ báo chí và các cơ quan khác nhau tại ba tỉnh: Hà Nội, Hà Tây và Thái Bình làm cơ sở phân tích. Nghiên cứu này đã chỉ ra được rằng bạo lực gia đình tỏ ra khá phổ biến, tuy nhiên nghiên cứu chưa cung cấp được những thông tin toàn diện về bạo lực gia đình cũng như bạo lực tình dục trong gia đình. Năm 1998, Lê Thị Phương Mai (Hội đồng Dân số) đã thực hiện một nghiên cứu về bạo lực và hậu quả của nó đối với sức khỏe sinh sản. Nghiên cứu này đã đề cập đến vấn đề cưỡng bức tình dục trong hôn nhân như là một biểu hiện của bạo lực gia đình. Mặc dù vậy, các khái niệm cũng như cảm nhận về cưỡng bức tình dục trong gia đình của cả hai giới không được đề cập đến. 2 3 Global Forum for health research, 1999 Population Report, Series L, Number 11, 1999, trang 9 16 Luận văn thạc sỹ Nguyễn Thị Kim Dung Trong nghiên cứu “Bạo lực trên cơ sở giới ở Việt Nam” do Ngân hàng Thế giới và các nhà nghiên cứu của Viện Xã hội học thực hiện năm 1999, khía cạnh bạo lực tình dục trong gia đình đã được đề cập đến qua các phần về các hình thức biểu hiện của các ngược đãi liên quan đến tình dục và vấn đề cưỡng bức làm tình. Mặc dù vậy, những nội dung này chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong nghiên cứu và các nhà nghiên cứu vẫn chưa chỉ rõ được quan niệm và hành vi tình dục của nam giới, từ đó có cái nhìn toàn diện về vấn đề này. Năm 2002, nghiên cứu về “Sự im lặng của phụ nữ và sự hòa thuận trong gia đình: Thái độ và hành vi tình dục của phụ nữ nông thôn có gia đình” của Vũ Song Hà-(Công ty tư vấn Đầu tư Y tế) đã phát hiện ra rằng hầu hết phụ nữ nghĩ rằng họ không có quyền từ chối đòi hỏi tình dục của chồng mình. Cho dù không có hứng thú hoặc nhu cầu thì họ vẫn chiều theo ý chồng để giữ gìn sự hòa thuận trong gia đình. Nghiên cứu đã không xem xét các quan niệm và hành vi tình dục của nam giới để biết được rằng nam giới nghĩ gì và cảm thấy như thế nào khi họ nhận ra vợ mình đang phải chịu đựng khi quan hệ với chồng, đây chính là điểm then chốt để khám phá quá trình hình thành và sự tồn tại của cưỡng bức tình dục trong hôn nhân. Năm 2003, nghiên cứu của Phan Thị Thu Hiền về cưỡng bức tình dục trong hôn nhân tại một vùng nông thôn của Quảng Trị đã cho thấy một bức tranh tương đối rõ ràng về thực trạng của vấn đề này. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng bất bình đẳng giới là nguyên nhân gốc rễ của bạo lực và cưỡng bức tình dục trong hôn nhân. Những nguyên nhân của vấn đề này được tìm hiểu bao gồm: 1) các quan niệm văn hoá về nam tính và nữ tính đã ảnh hưởng đến mối quan hệ quyền lực trong gia đình cũng như quan hệ tình dục giữa vợ và chồng; 2) Sự hạn chế kiến thức về tình dục và sự thiếu cởi mở trong trao đổi về tình dục giữa vợ và chồng. Các hậu quả của vấn đề cưỡng bức tình dục đối với vợ, chồng cũng được đề cập đến trong nghiên cứu. Tuy nhiên nghiên cứu được tập trung nhìn nhận dưới góc độ y tế nhiều hơn là góc độ xã hội và địa bàn nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở một vùng nông thôn. 17 Luận văn thạc sỹ Nguyễn Thị Kim Dung Năm 2006, nghiên cứu về Gia đình Việt Nam tại 6 tỉnh thành phố của Việt Nam do Trung tâm Nghiên cứu Giới, Gia đình và Môi trường trong phát triển phối hợp với Uỷ ban các Vấn đề xã hội của Quốc hội cũng đã cho thấy hiện tượng cưỡng bức tình dục có xảy ra trong gia đình. Có tới gần 30% số người được hỏi cho rằng trong cuộc sống vợ chồng có xảy ra chuyện “một trong hai người không muốn mà vẫn phải chiều người kia”. Nghiên cứu đã chỉ ra mực độ bạo lực tình dục trong gia đình, thực trạng về nhận thức của cộng đồng đối với vấn đề này cũng như thái độ của vợ khi chồng có bạo lực tình dục. Kết quả nghiên cứu này cho thấy phần nào bức tranh về hiện tượng cưỡng bức tình dục trong hôn nhân xét từ quan điểm của các nhà xã hội học. Tuy nhiên do đây là một nghiên cứu tổng hợp nên chưa các vấn đề lý giải một cách cụ thể. Ngoài các nghiên cứu trên, còn có nhiều bài viết về vấn đề cưỡng bức tình dục trong hôn nhân cũng đã được đề cập trên các tạp chí chuyên ngành (như tạp chí Xã hội học, Tạp chí Luật…), các báo cũng như trên mạng Internet. Tuy nhiên những bài viết này phần lớn chỉ mang tính chất mô tả thực trạng và chưa phân tích chi tiết về nguyên nhân gốc rễ cũng như đưa ra được những giải pháp cụ thể. 2. PHƢƠNG PHÁP LUẬN Luận văn được viết dựa trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Chủ nghĩa duy vật biện chứng nhìn các hiện tượng xã hội trong mối quan hệ nhân quả: mọi hiện tượng trong xã hội không tồn tại độc lập mà luôn tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau. Do đó, khi nghiên cứu hiện tượng, vấn đề xã hội cần đặt chúng trong môi trường xác định, trong sự tương tác giữa hiện tượng, vấn đề đó với hiện tượng, vấn đề khác. Chủ nghĩa duy vật lịch sử nhìn các hiện tượng xã hội trong một quá trình: mọi hiện tượng trong xã hội không tồn tại một cách bất biến mà luôn luôn vận động, có sự hình thành, phát triển và tiêu vong. Do đó, khi nghiên 18 Luận văn thạc sỹ Nguyễn Thị Kim Dung cứu một hiện tượng, vấn đề xã hội nào thì cần xem xét nó trong một quá trình và đặt nó trong một giai đoạn lịch sử nhất định. 3. CƠ SỞ LÝ LUẬN 3.1. Các khái niệm được sử dụng trong luận văn  Gia đình Theo điều 8 luật “Hôn nhân và gia đình” của Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X (kỳ họp thứ 7, ngày 09/06/2000) thì: “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau” Các nhà xã hội học đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về gia đình, nhưng định nghĩa sau đây được sử dụng trong luận văn: “Gia đình là một nhóm xã hội hình thành trên cơ sở các quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng tuy không có quan hệ máu mủ. Các thành viên trong gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi (kinh tế, văn hoá, tình cảm...). Giữa họ có những ràng buộc có tính pháp lý được nhà nước thừa nhận và bảo vệ, đồng thời có những quy định rõ ràng về quyền được phép và những cấm đoán trong quan hệ tình dục giữa các thành viên gia đình”4  Bạo lực chống lại phụ nữ Định nghĩa về bạo lực chống lại phụ nữ được chúng tôi sử dụng là định nghĩa đang được sử dụng rất rộng rãi trên thế giới do Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua năm 1993, theo đó “ Bất kỳ một hành động bạo lực dựa trên cơ sở giới nào dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến những tổn hại về thân thể, tình dục hay tâm lý hay những đau khổ của người phụ nữ, bao gồm cả sự đe dọa có những hành động như vậy, sự cưõng bức hoặc sự tước đoạt tự do một cách tùy tiện, dù nó xảy ra ở nơi cộng cộng hay trong cuộc sống riêng tư” (Liên Hiệp Quốc, 1993)  Bạo lực gia đình Chung Á- Nguyễn Đình Tấn, “Nghiên cứu xã hội học”. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội- 1996, trang 190. 4 19 Luận văn thạc sỹ Nguyễn Thị Kim Dung Bạo lực gia đình là các hành vi bạo lực xảy ra trong phạm vi gia đình, đó là sự xâm phạm và ngược đãi về thân thể, tinh thần hay tình cảm giữa các thành viên trong gia đình. Bạo lực gia đình là sự lạm dụng quyền lực, một hành động sử dụng vũ lực nhằm hăm doạ hoặc đánh đập một người thân trong gia đình để điều khiển hay kiểm soát người đó5  Bạo lực gia đình chống lại phụ nữ Hình thức phổ biến nhất của sự ngược đãi phụ nữ trên thế giới là “bạo lực gia đình” hay là sự ngược đãi về thân thể, tinh thần và /hoặc về tình dục đối với người phụ nữ gây ra bởi những người bạn tình hay đàn ông thân thiết của họ (Heise, 1994) Theo nhận định của Tổ chức Y tế Thế giới năm 1998: “ Phần lớn bạo lực chống lại phụ nữ xảy ra trong gia đình và người gây ra bạo lực luôn luôn là nam giới, thường là người chồng/người tình hoặc chồng cũ/người tình cũ, hay những người đàn ông quen biết của phụ nữ”6  Cƣỡng bức tình dục trong hôn nhân Cưỡng bức tình dục trong hôn nhân có thể do chồng hoặc vợ gây ra. Trong bài viết “Cưỡng ép tình dục trong hôn nhân” của tác giả Hoàng Bá Thịnh, trong tạp chí Xã hội học số 4/2006, “cưỡng ép tình dục trong hôn nhân” được hiểu phần lớn là chồng cưỡng hiếp vợ hay đôi khi được hiểu một cách chuẩn hơn trong mối quan hệ giới: cưỡng hiếp vợ chồng. Cưỡng ép tình dục trong hôn nhân được hiểu là những hành vi bạo lực về tình dục trong mối quan hệ vợ chồng7. Tuy nhiên dựa trên những kết quả nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam, trong khuôn khổ luận văn tôi chỉ tập trung nghiên cứu cưỡng bức tình 5 Hoàng Bá Thịnh, “Bạo lực giới trong gia đình Việt Nam và vai trò của truyền thông đại chúng trong sự nghiệp phát triển phụ nữ”, Trung tâm nghiên cứu Giới- Gia đình và Môi trường trong phát triển, Nhà xuất bản Thế giới 2005, trang 17. Vũ Mạnh Lợi và cộng sự: “Việt Nam- Bạo lực trên cơ sở giới”. Hà nội, 11/1999, trang 1. 7 Hoàng Bá Thịnh, “Cưỡng ép tình dục trong hôn nhân”, Tạp chí Xã hội học số 4 năm 2006, trang 59. 6 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan