Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Luật CUỘC THI TÌM HIỂU HIẾN PHÁP NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 2016...

Tài liệu CUỘC THI TÌM HIỂU HIẾN PHÁP NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 2016

.DOCX
41
543
115

Mô tả:

CUỘC THI VIẾT TÌM HIỂU HIẾN PHÁP NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Câu 1: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đến nay, nước ta có mấy bản Hiến pháp? Các bản Hiến pháp đó được Quốc hội thông qua vào ngày, tháng, năm nào? Trả lời: Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đến nay thì nước ta có 05 bản Hiến pháp. Trong đó: + Hiến pháp năm 1946: Ngày 09/11/1946, tại kỳ họp thứ hai của Quốc hội khóa I (do cuộc tổng tuyển cử ngày 06/01/1946 lần đầu) đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta. Hiến pháp Trang 1 + Hiến pháp năm 1959: Tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa I, ngày 31/12/1959 Hiến pháp sửa đổi được thông qua và ngày 01/01/1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh công bố Hiến pháp này. + Hiến pháp năm 1980: Ngày 18/12/1980, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa VI đã nhất trí thông qua Hiến pháp mới. + Hiến pháp năm 1992: Ngày 15/04/1992 tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa VIII, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp năm 1992 và được Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 vào ngày 25/12/2001. + Hiến pháp năm 2013: là bản Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua vào sáng ngày 28/11/2013. Câu 2: Bản Hiến pháp mới được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 28/11/2013 (Hiến pháp năm 2013) có hiệu lực từ ngày, tháng, năm nào? So với Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) có bao nhiêu điều được giữ nguyên? Có bao nhiêu điều được sửa đổi, bổ sung? Điều sửa đổi, bổ sung nào bạn tâm đắc nhất? Vì sao? Trả lời: Hiến pháp Trang 2 Bản Hiến pháp mới được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 28/11/2013 (Hiến pháp năm 2013) có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2014. So với Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) thì Hiến pháp năm 2013 giảm 01 chương, 27 điều, trong đó có 12 điều mới (Điều 19, Điều 34, Điều 41, Điều 42, Điều 43, Điều 55, Điều 63, Điều 78, Điều 111, Điều 112, Điều 117 và Điều 118); có 07 điều được giữ nguyên (Điều 01, Điều 23, Điều 49, Điều 86, Điều 87, Điều 91, Điều 97) và sửa đổi, bổ sung 101 điều. Theo tôi, điều tâm đắc nhất là Điều 43 Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”. Bởi vì: Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển làm nảy sinh hàng loạt những vấn đề gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường tự nhiên, hủy hoại môi trường sống của chúng ta. Điều đó đã trực tiếp xâm phạm đến quyền được hưởng thụ môi trường sống trong lành của mọi người. Vì vậy, hiện nay vấn đề cấp bách được đặt ra là chúng ta phải có nhận thức đầy đủ, có biện pháp kịp thời và nổ lực hành động để bảo vệ môi trường sống trong giai đoạn hiện nay và cho cả thế hệ con cháu mai sau. Đây là một bài toán khó đòi hỏi phải có sự chung tay, giúp sức cùng nhau giải quyết của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các tổ chức, doanh Hiến pháp Trang 3 nghiệp và của mọi công dân. Cho nên nước ta đã sớm nhận thức được vai trò quan trọng của việc bảo vệ môi trường và đã gia nhập nhiều Công ước Quốc tế về bảo vệ môi trường như: Công ước Viên về bảo vệ tầng ô-zôn 1985 (gia nhập ngày 26/4/1994); Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu 1992 (gia nhập ngày 16/11/1994); Công ước về đa dạng sinh học 1992 (gia nhập ngày 16/11/1994).... Trong những năm qua Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật và không ngừng hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật nhằm kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực môi trường, mà trước hết phải kể đến Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 (sửa đổi bổ sung năm 2005), Luật bảo vệ môi trường năm 2014. Bên cạnh các văn bản pháp luật của Nhà nước, Bộ Chính trị cũng đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Gần đây nhất là Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2014 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những văn bản này thể hiện rõ quan điểm, đường lối nhất quán của Đảng, Nhà nước phù hợp với ý nguyện của Nhân dân về đổi mới toàn diện, hội nhập quốc tế sâu rộng và phát triển bền vững, trong đó xem môi trường là một trong 3 trụ cột chính (kinh tế - xã hội - môi trường) để phát triển đất nước và bảo vệ quyền con người. Như vậy, có thể nói trước Hiến pháp năm 2013, vấn đề bảo vệ môi trường đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992. Tuy nhiên, việc ghi nhận này còn ở dạng nguyên tắc chung về trách nhiệm từ phía các cơ quan, tổ chức Hiến pháp Trang 4 của Nhà nước mà chưa đề ra vấn đề quy định quyền được sống trong môi trường trong lành là một quyền cơ bản của công dân như trong Hiến pháp năm 2013. Nhằm khắc phục những hạn chế nêu trên, Hiến pháp năm 2013 ra đời đã có sự tiếp thu, chọn lọc những quy định phù hợp của pháp luật quốc tế, đồng thời thể chế hóa quan điểm của Đảng về quyền con người, coi con người là chủ thể, là động lực quan trọng của sự phát triển đất nước. Với quy định: “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường” là một bước tiến lớn thể hiện việc mở rộng và phát triển quyền con người, phản ánh kết quả của quá trình đổi mới gần 30 năm qua ở nước ta đồng thời thể hiện sự quan tâm, trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân, thừa nhận vấn đề bảo vệ môi trường chính là bảo vệ quyền con người, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Để mọi người thực hiện quyền của mình, Hiến pháp năm 2013 cũng quy định trách nhiệm của Nhà nước là phải ban hành văn bản pháp luật để có cơ sở pháp lý cho mọi người và công dân thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của mình. Bên cạnh đó thì mọi người hãy cùng nhau chung tay, chung sức để bảo vệ môi trường! Vì bảo vệ môi trường chính là bảo vệ cuộc sống trong môi trường trong lành của chúng ta! Câu 3: Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân Hiến pháp Trang 5 dân…”. Bạn hãy nêu và phân tích ngắn gọn các quy định của Hiến pháp năm 2013 về những cách thức để Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước. Trả lời: Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân…” các quy định của Hiến pháp năm 2013 về những cách thức để Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước như sau: - Khoản 2 Điều 4 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”, đây là điểm bổ sung mới quan trọng, vì vai trò làm chủ của Nhân dân đối với Nhà nước, Nhân dân giao phó trách nhiệm cho Đảng để lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Vì vậy, Đảng phải chịu sự giám sát và chịu trách nhiệm trước Nhân dân trong việc lãnh đạo của mình. - Điều 6 Hiến pháp năm 2013: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”, quy định đa dạng hơn về thực hiện quyền lực của Nhân dân so với Hiến pháp năm 1992, đặc biệt thể hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp đã làm rõ hơn, sâu sắc hơn vai trò làm chủ của Nhân dân. Hiến pháp Trang 6 Dân chủ trực tiếp là phương thức người dân trực tiếp thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình mà không phải thông qua cá nhân hay tổ chức đại diện. Các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp của người dân, có thể như: tham gia ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, đối thoại trực tiếp giữa Nhân dân với đại diện cơ quan Nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân, biểu tình .v.v. Trong đó trưng cầu dân ý là hình thức cao nhất của dân chủ trực tiếp. Về hình thức trưng cầu ý dân, trong Hiến pháp năm 1946, tại Ðiều 21 có quy định: “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc có quan hệ đến vận mệnh quốc gia...” và Ðiều 32 quy định: “Những việc có quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba số nghị viên đồng ý...”. Các bản Hiến pháp 1959, 1980 và 1992 sau này đều có đề cập đến việc trưng cầu ý dân nhưng chưa có cơ chế thực hiện cụ thể nên những quy định của Hiến pháp chưa được thực hiện trong thực tế. Sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành, để cụ thể hóa các quyền dân chủ trực tiếp của Nhân dân, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2015, trong đó có hai đạo luật rất quan trọng đó là Luật trưng cầu ý dân và Luật biểu tình (Luật trưng cầu ý dân giao Hội Luật gia Việt Nam chủ trì xây dựng, Luật biểu tình giao Bộ Công an chủ trì xây dựng). Cả hai dự án luật này Chính phủ dự kiến sẽ trình Quốc hội xem xét thông qua tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII vào cuối năm 2015. Tuy nhiên những hình thức dân chủ trực tiếp lại rất ít được các quốc gia ưa chuộng và sử dụng vì có một số Hiến pháp Trang 7 lý do sau: việc thực hiện dân chủ trực tiếp đòi hỏi người dân có trình độ dân trí cao, đồng đều cho nên đối với các quốc gia diện tích lớn, địa bàn rộng, dân cư đông thì rất khó thực hiện. Dân chủ gián tiếp (đại diện) là phương thức thực hiện quyền lực Nhà nước cơ bản và phổ biến nhất của Nhân dân. Theo đó, Nhân dân thông qua các cơ quan đại biểu do mình bầu ra và ủy thác quyền lực như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; rồi đến lượt mình Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp tiếp tục lập ra các cơ quan khác của Nhà nước để thực hiện ý chí, nguyện vọng của Nhân dân. Như vậy, hiểu một cách đầy đủ, cơ quan Nhà nước được Nhân dân ủy quyền không chỉ là các cơ quan dân cử như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp mà còn bao gồm cả các cơ quan trong hệ thống hành pháp và tư pháp; các cơ quan này thay mặt Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước để điều hành, quản lý xã hội và chịu sự giám sát của Nhân dân. Trong đó Quốc hội là cơ quan đại diện cho Nhân dân trong cả nước có quyền đặt ra chính sách, đặt ra pháp luật, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan đại diện cho tâm tư nguyên vọng của người dân tại địa phương. Hình thức này được đa số các quốc gia ưa chuộng và sử dụng bởi vì tính tiện lợi, dễ thực hiện, quản lý được mọi mặt đời sống xã hội nhưng có hạn chế là ý chí, nguỵện vọng của người dân phải qua trung gian của người đại diện, có thể bị méo mó bởi nhiều lý do như trình độ nhận thức, quan điểm, lợi ích... Hiến pháp Trang 8 Dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện là hai hình thức cơ bản để Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước; có mối quan hệ tác động qua lại với nhau và đều có vai trò quan trọng trong nền dân chủ đương đại. Nếu như bằng hình thức dân chủ đại diện Nhân dân lập ra bộ máy Nhà nước từ trung ương tới cơ sở để quản lý, điều hành xã hội một cách thường xuyên liên tục, giữ vững ổn định thể chế và phát triển đất nước thì với hình thức dân chủ trực tiếp Nhân dân lại góp phần làm cho bộ máy Nhà nước đó ngày càng hoàn thiện hơn bằng việc giám sát, tham gia ý kiến hay biểu thị thái độ với chính các cá nhân hay cơ quan Nhà nước do mình lập nên. Thực hiện tốt và bảo đảm hài hòa cả hai hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp là cơ sở vững chắc để hướng tới một thể chế Nhà nước hoàn thiện mà Nhân dân là ngườichủ đích thực của nó. - Vị trí Chương “Quyền và Nghĩa vụ cơ bản của công dân”: trong Hiến pháp năm 1992 là chương V còn trong Hiến pháp năm 2013 là chương II. Việc thay đổi vị trí nói trên không đơn thuần là sự thay đổi về bố cục mà còn là sự thay đổi về nhận thức. Với quan niệm đề cao chủ quyền Nhân dân trong Hiến pháp, coi Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước, thì quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân phải được xác định ở vị trí trang trọng hàng đầu trong một bản Hiến pháp. Việc thay đổi này là sự kế thừa Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp của nhiều nước trên thế giới, thể hiện nhất quán đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong Hiến pháp Trang 9 việc công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. - Điều 14 Hiến pháp năm 2013: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Quy định này thể hiện sự phát triển quan trọng về nhận thức và tư duy trong việc ghi nhận quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp. - Điều 53 Hiến pháp năm 2013: “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” đã khẳng định quyền sở hữu của Nhân dân và Nhân dân ủy quyền cho Nhà nước đại diện cho Nhân dân để sở hữu và thống nhất quản lý, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về việc quản lý tài sản do Nhân dân ủy quyền. - Điều 65 Hiến pháp năm 2013: “Lực lượng vũ trang Nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế” thể hiện trách nhiệm của lực lượng vũ trang là tuyệt đối trung thành với Nhân dân và trước hết là Hiến pháp Trang 10 phải bảo vệ Nhân dân một chủ thể làm chủ đất nước, sau đó là bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. - Điều 69 Hiến pháp năm 2013: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” đã nhấn mạnh vai trò của Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước, tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về Nhân dân. Nhân dân ủy thác thực hiện quyền lực cao nhất cho Quốc hội để thực hiện quyền lập hiến như đề xuất sửa đổi Hiến pháp. Có thể nói, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã thể hiện được ý chí của Đảng, lòng dân, là sự kết tinh của tinh thần dân chủ, đổi mới, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền trong thời kỳ mới. Câu 4: Những quy định nào của Hiến pháp năm 2013 thể hiện tư tưởng đại đoàn kết dân tộc? Trả lời: Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã và đang từng bước được hiện thực hóa trong quá trình cách mạng. Chính vì thế, cùng với quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, các dân tộc ở Việt Nam cũng được giải phóng, quyền bình đẳng giữa các dân Hiến pháp Trang 11 tộc được khẳng định; đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế... của các dân tộc thiểu số được từng bước nâng cao, an ninh chính trị và toàn vẹn lãnh thổ được bảo đảm vững chắc. Đó là những thành tựu không thể phủ nhận của cách mạng Việt Nam trong hơn 68 năm qua. Những quy định của Hiến pháp 2013 thể hiện tư tưởng đại đoàn kết dân tộc đó là: -Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng tiến bộ là quan điểm mang tính nguyên tắc của Đảng ta về vấn đề dân tộc và công tác dân tộc được thể hiện rõ ở Điều 5 Hiến pháp năm 2013: “1. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. 2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. 3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. 4. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”. Hiến pháp Trang 12 -Quy định trong quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ (Điều 42): “Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp”. -Quy định trong lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (khoản 1 Điều 58 Hiến pháp năm 2013): “Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của Nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, có chính sách ưu tiên chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn”. -Quy định trong lĩnh vực văn hóa (khoản 1 Điều 60): “Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”. -Quy định trong lĩnh vực giáo dục (khoản 2, khoản 3 Điều 61): “Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không thu học phí; từng bước phổ cập giáo dục trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý; Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hoá và học nghề”. Hiến pháp Trang 13 -Quy định trong vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng dân tộc và Chủ tịch Hội đồng dân tộc (khoản 2, khoản 3 Điều 75): “Hội đồng dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội về công tác dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chủ tịch Hội đồng dân tộc được mời tham dự phiên họp của Chính phủ bàn về việc thực hiện chính sách dân tộc. Khi ban hành quy định thực hiện chính sách dân tộc, Chính phủ phải lấy ý kiến của Hội đồng dân tộc”. Câu 5: Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân? Điểm mới nào bạn tâm đắc nhất? Vì sao? Trả lời: Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân: - Có sự thay đổi về tên chương, nếu như ở Hiến pháp năm 1992 là “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” thì đến Hiến pháp năm 2013 chương này có tên là “Quyền con người, quyền và nghĩa cụ cơ bản của công dân”. Qua đó để khẳng định quyền con người được Nhà nước thừa nhận, tôn trọng và cam kết bảo vệ theo Công ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Hiến pháp Trang 14 - Có sự thay đổi về vị trí chương, nếu như ở Hiến pháp năm 1992 là chương V thì đến Hiến pháp năm 2013 là chương II, thể hiện có sự nhận thức lại tầm quan trọng của quyền con người, quyền công dân. - Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung nguyên tắc hạn chế quyền phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Theo đó quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng. Việc hạn chế quyền con người, quyền công dân không thể tùy tiện mà phải theo quy định của luật, được quy định tại Điều 14 Hiến pháp 2013: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. - Hiến pháp năm 2013 quy định cụ thể nội dung những quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân được thể hiện rõ tại Điều 15 Hiến pháp năm 2013: “1. Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Hiến pháp Trang 15 2. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. 3. Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. 4. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Từ đó khẳng định Hiến pháp nào không tôn trọng quyền con người, quyền công dân thì Hiến pháp đó không phải là Hiến pháp dân chủ. - So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 thay cụm từ “mọi công dân” thành “mọi người”, cụ thể tại Điều 16 quy định “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”. Bổ sung thêm quy định: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp luật” tại Điều 19 Hiến pháp năm 2013. - Tại khoản 3 Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người phải có sự đồng ý của người được thử nghiệm”, đây là điểm mới so với Hiến pháp năm 1992, thể hiện được quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác của mọi người để chữa bệnh cho người thân, cũng như đề cao vai trò của bộ phận cơ thể người phục vụ cho việc nghiên cứu, chữa bệnh trong y học hiện nay. Hiến pháp Trang 16 - Về quyền tự do kinh doanh: Tại Điều 57 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân có quyền tự do kinh doanh” thì tại Điều 33 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm” đã mở rộng hơn về đối tượng được kinh doanh và ngành nghề được kinh doanh tạo điều kiện mọi người tự do kinh doanh làm giàu chính đáng, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội. - Điều 43 Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”. Ngoài một số nội dung cơ bản trên, Hiến pháp năm 2013 quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân đã quy định rõ ràng, cụ thể và bổ sung đầy đủ hơn so với Hiến pháp năm 1992 như gộp các Điều 65, 66, 67 và bổ sung thêm một số nội dung thành Điều 37 Hiến pháp năm 2013; tách Điều 53 Hiến pháp năm 1992 quy định về công dân có quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân thành Điều 29 Hiến pháp năm 2013: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”... Về cách thức thể hiện, Hiến pháp năm 2013 có sự đổi mới quan trọng theo hướng ghi nhận mọi người có quyền, công dân có quyền và quyền con người là quyền tự nhiên, bất cứ ai cũng có quyền đó; quyền công dân là quyền của người có quốc tịch Việt Nam… Để mọi người, công dân thực hiện quyền của mình thì Hiến pháp năm Hiến pháp Trang 17 2013 quy định trách nhiệm của Nhà nước là phải ban hành văn bản pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người và công dân thực hiện đầy đủ các quyền của mình. Hiến pháp năm 2013 quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là sự kế thừa tinh hoa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Hiến pháp năm 1946, đồng thời, đã thể chế hóa chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng và nhà nước ta về quyền con người, coi con người là chủ thể, là động lực quan trọng của sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm hướng đến mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Theo tôi, điều tâm đắc nhất là Điều 43 Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”. Bởi vì: Trong những năm trở lại đây, kinh tế nước ta ngày càng phát triển làm nảy sinh hàng loạt những vấn đề gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường tự nhiên, hủy hoại môi trường sống của chúng ta. Điều đó đã trực tiếp xâm phạm đến quyền được hưởng thụ môi trường sống trong lành của mọi người. Vì vậy, hiện nay vấn đề cấp bách được đặt ra là chúng ta phải có nhận thức đầy đủ, có biện pháp kịp thời và nổ lực hành động để bảo vệ môi trường sống trong giai đoạn hiện nay và cho cả thế hệ con cháu mai sau. Đây là một bài toán khó đòi hỏi phải có sự chung tay, giúp sức cùng nhau giải quyết của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các tổ chức, Hiến pháp Trang 18 doanh nghiệp và của mọi công dân. Cho nên nước ta đã sớm nhận thức được vai trò quan trọng của việc bảo vệ môi trường và đã gia nhập nhiều Công ước Quốc tế về bảo vệ môi trường như: Công ước Viên về bảo vệ tầng ô-zôn 1985 (gia nhập ngày 26/4/1994); Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu 1992 (gia nhập ngày 16/11/1994); Công ước về đa dạng sinh học 1992 (gia nhập ngày 16/11/1994).... Trong những năm qua Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật và không ngừng hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật nhằm kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực môi trường, mà trước hết phải kể đến Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 (sửa đổi bổ sung năm 2005), Luật bảo vệ môi trường năm 2014. Bên cạnh các văn bản pháp luật của Nhà nước, Bộ Chính trị cũng đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Gần đây nhất là Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2014 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những văn bản này thể hiện rõ quan điểm, đường lối nhất quán của Đảng, Nhà nước phù hợp với ý nguyện của nhân dân về đổi mới toàn diện, hội nhập quốc tế sâu rộng và phát triển bền vững, trong đó xem môi trường là một trong 3 trụ cột chính (kinh tế - xã hội - môi trường) để phát triển đất nước và bảo vệ quyền con người. Như vậy, có thể nói trước Hiến pháp năm 2013, vấn đề bảo vệ môi trường đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992. Tuy nhiên, việc ghi nhận này còn ở dạng nguyên tắc chung về trách nhiệm từ phía các cơ quan, tổ chức Hiến pháp Trang 19 của Nhà nước mà chưa đề ra vấn đề quy định quyền được sống trong môi trường trong lành là một quyền cơ bản của công dân như trong Hiến pháp năm 2013. Nhằm khắc phục những hạn chế nêu trên, Hiến pháp năm 2013 ra đời đã có sự tiếp thu, chọn lọc những quy định phù hợp của pháp luật quốc tế, đồng thời thể chế hóa quan điểm của Đảng về quyền con người, coi con người là chủ thể, là động lực quan trọng của sự phát triển đất nước. Với quy định: “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường” là một bước tiến lớn thể hiện việc mở rộng và phát triển quyền con người, phản ảnh kết quả của quá trình đổi mới gần 30 năm qua ở nước ta đồng thời thể hiện sự quan tâm, trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân, thừa nhận vấn đề bảo vệ môi trường chính là bảo vệ quyền con người, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Để mọi người thực hiện quyền của mình, Hiến pháp năm 2013 cũng quy định trách nhiệm của Nhà nước là phải ban hành văn bản pháp luật để có cơ sở pháp lý cho mọi người và công dân thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của mình. Bên cạnh đó thì mọi người hãy cùng nhau chung tay, chung sức để bảo vệ môi trường! Vì bảo vệ môi trường chính là bảo vệ cuộc sống trong môi trường trong lành của chúng ta! Câu 6: Những điểm mới, quan trọng về vị trí, chức năng của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân trong Hiến pháp năm 2013. Phân tích điểm mới về mối quan hệ giữa các cơ quan đó trong thực hiện quyền lực Nhà nước? Hiến pháp Trang 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan