Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ CUNG, CẦU VÀ CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ...

Tài liệu CUNG, CẦU VÀ CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ

.PDF
17
408
84

Mô tả:

CUNG, CẦU VÀ CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ
CHƯƠNG 4 CUNG, CẦU VÀ CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ Các nhà kinh tế đóng hai vai trò. Là nhà khoa học, họ xây dựng và thử nghiệm các lý thuyết để lý giải thế giới xung quanh mình. Là nhà hoạch định chính sách, họ sử dụng lý thuyết của mình với mục đích làm cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn. Hai chương vừa qua đã tập trung vào vai trò nhà khoa học. Chúng ta đã thấy cung và cầu quyết định giá cả và lượng hàng hóa bán ra như thế nào. Chúng ta cũng đã thấy các sự kiện khác nhau làm thay đổi cung và cầu, qua đó làm thay đổi giá và lượng cân bằng như thế nào. Chương này đem lại cho chúng ta một cái nhìn ban đầu về chính sách. Ở đây, chúng ta phân tích các loại chính sách khác nhau của chính phủ hoàn toàn bằng công cụ cung và cầu. Như các bạn sẽ thấy, phương pháp phân tích này đem lại một số hiểu biết đáng ngạc nhiên. Các chính sách thường gây ra các hậu quả mà các nhà hoạch định ra chúng không mong đợi hay dự kiến trước. Chúng ta bắt đầu bằng việc xem xét các chính sách kiểm soát giá cả trực tiếp. Ví dụ, luật về kiểm soát tiền thuê nhà quy định mức tiền thuê tối đa mà chủ nhà được phép thu từ người thuê nhà. Luật về tiền lương tối thiểu quy định tiền lương thấp nhất mà các doanh nghiệp được phép trả cho công nhân. Những quy định về kiểm soát giá cả thường được đưa ra khi các nhà hoạch định chính sách tin rằng giá thị trường của một hàng hóa hay dịch vụ nào đó không công bằng đối với người mua hoặc người bán. Song như chúng ta sẽ thấy, chính các chính sách này cũng có thể tạo ra sự bất công. Sau khi đã thảo luận về các biện pháp kiểm soát giá cả, chúng ta sẽ xem xét ảnh hưởng của thuế. Các nhà hoạch định chính sách sử dụng thuế vừa để tác động vào các kết cục thị trường, vừa để tạo nguồn thu cho các mục tiêu công cộng. Cho dù tính phổ biến của thuế trong nền kinh tế của chúng ta rất rõ ràng, nhưng hiệu quả của chúng thì khó hiểu hơn. Ví dụ khi chính phủ đánh thuế vào tiền lương mà doanh nghiệp trả cho công nhân, doanh nghiệp hay công nhân phải chịu gánh nặng về thuế này? Câu trả lời chỉ trở nên rõ ràng khi chúng ta sử dụng các công cụ mạnh mẽ là cung và cầu. CÁC BIỆN PHÁP KIỂM SOÁT GIÁ CẢ Để phân tích ảnh hưởng của biện pháp kiểm soát giá cả đối với các kết cục thị trường, một lần nữa chúng ta lại xem xét thị trường kem. Như chúng ta đã thấy trong chương 4, nếu kem được bán trên thị trường cạnh tranh, không có sự can thiệp của chính phủ, thì giá kem sẽ điều chỉnh để cân bằng cung và cầu: Tại mức giá cân bằng, lượng kem mà người mua muốn mua đúng bằng lượng kem mà người bán muốn bán. Cụ thể, chúng ta giả sử giá cân bằng là 3 đô la một chiếc kem. Không phải ai cũng cũng vui mừng với kết quả mà thị trường tự do tạo ra. Giả sử Hiệp hội những người ăn kem Mỹ phàn nàn rằng giá 3 đô la quá cao và mọi người không thể thưởng thức mỗi ngày một chiếc kem (định mức ăn kem mà họ đưa ra). Trong khi đó, Tổ chức Quốc gia các nhà sản xuất kem lại kêu ca rằng mức giá 3 đô la - kết quả của sự “cạnh tranh cắt cổ” - đang làm cho thu nhập của các thành viên của họ quá thấp. Cả hai NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 4 – Cung, cầu và chính sách của chính phủ 1 nhóm này đều vận động chính phủ thông qua một đạo luật nhằm thay đổi kết cục thị trường bằng cách kiểm soát giá cả trực tiếp. Tất nhiên, do người mua bất kỳ hàng hóa nào cũng muốn có giá thấp hơn trong khi người bán lại muốn bán với giá cao hơn, cho nên lợi ích của hai nhóm người này xung đột nhau. Nếu nhóm người ăn kem thành công trong việc vận động hành lang, chính phủ sẽ thông qua một mức giá tối đa cho kem, gọi là trần giá. Nếu nhóm các nhà sản xuất kem thành công, chính phủ sẽ thông qua một mức giá tối thiểu, gọi là sàn giá. Chúng ta sẽ lần lượt xem xét ảnh hưởng của các chính sách này. Ảnh hưởng của trần giá tới kết quả hoạt động của thị trường Khi chính phủ áp đặt một mức trần giá cho thị trường kem do bị mủi lòng vì những lời ca thán của người ăn kem, hai kết cục có thể xảy ra. Trong phần (a) của hình 1, chính phủ định mức trần giá là 4 đô la một chiếc kem. Trong trường hợp này, trần giá được coi là không ràng buộc do giá cân bằng cung cầu (3 đô la) thấp hơn trần giá. Các lực lượng thị trường sẽ đẩy nền kinh tế về trạng thái cân bằng một cách tự nhiên và trần giá không gây ra ảnh hưởng gì. Phần (b) của hình 1 chỉ ra một khả năng khác thú vị hơn. Trong trường hợp này, chính phủ ấn định trần giá là 2 đô la một chiếc kem. Do giá cân bằng là 3 đô la cao hơn trần giá, nên trần giá này không phải là một điều kiện ràng buộc trên thị trường. Các lực lượng cung cầu có xu hướng đẩy giá cả về mức giá cân bằng. Nhưng khi giá thị trường đụng vào trần giá, nó không thể tăng cao hơn nữa. Do đó, giá thị trường phải bằng trần giá. Tại mức giá này, lượng cầu về kem (125 chiếc như trong hình vẽ) vượt quá lượng cung về kem (75 chiếc). Do xảy ra tình trạng thiếu hụt kem, nên một số người muốn mua kem ở mức giá cao hơn không mua được kem. Khi tình hình thiếu hụt kem xảy ra do tác động của trần giá, một cơ chế nào đó sẽ tự nhiên phát sinh để phân phối lượng kem này. Cơ chế này có thể là nguyên tắc xếp hàng: Những người mua sẵn sàng đến sớm và chờ đợi sẽ mua được kem, trong khi những người không sẵn sàng chờ đợi không mua được kem. Hoặc người bán có thể phân phối số kem này theo sự thiên vị cá nhân của họ, chẳng hạn chỉ bán cho bạn bè, họ hàng, người cùng dân tộc hay chủng tộc. Cần chú ý rằng mặc dù trần giá được đưa ra nhằm mục đích giúp đỡ người mua kem, nhưng không phải tất cả người mua đều được hưởng lợi từ chính sách này. Một số người được lợi vì được mua kem với giá thấp hơn, nhưng họ phải xếp hàng, trong khi những người khác không mua được một chiếc kem nào. Ví dụ về thị trường kem chỉ ra một nguyên tắc chung: Khi chính phủ áp đặt một trần giá ràng buộc trong thị trường cạnh tranh, tình trạng thiếu hụt hàng hóa sẽ phát sinh và người bán phải phân phối lượng hàng hóa khan hiếm này cho một số lớn người mua tiềm tàng. Các cơ chế phân phối phát sinh dưới tác động của trần giá này hiếm khi đáng mong muốn. Việc xếp hàng dài là không có hiệu quả, vì nó làm mất thời gian của người mua. Sự phân biệt đối xử theo thiên kiến của người bán vừa không hiệu quả (vì hàng hóa không đến được người mua đánh giá nó cao nhất), vừa có khả năng không công bằng. Ngược lại, cơ chế phân phối trong thị trường cạnh tranh tự do vừa có hiệu quả, vừa khách quan. Khi thị trường kem đạt trạng thái cân bằng, bất kỳ ai muốn trả theo giá thị trường đều mua được kem. Thị trường tự do phân phối hàng hóa thông qua giá cả. NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 4 – Cung, cầu và chính sách của chính phủ 2 (a) Giá trần không ràng buộc Giá kem (b) Giá trần ràng buộc Giá kem Cung Cung 4$ Giá trần 3$ 3$ 2$ Giá trần Thiếu hụt Cầu 0 0 100 Lượng kem (lượng cân bằng) Cầu 75 125 Lượng kem lượng cung lượng cầu Hình 1. Thị trường với trần giá. Trong phần (a), chính phủ định mức trần giá là 4 đô la. Do mức trần giá này cao hơn giá cân bằng là 3 đô la, nên nó không có tác dụng gì và thị trường có thể đạt tới trạng thái cân bằng cung cầu. Tại trạng thái cân bằng, lượng cung bằng lượng cầu là 100 chiếc kem. Trong phần (b), chính phủ định ra trần giá là 2 đô la. Do trần giá này thấp hơn giá cân bằng là 3 đô la, nên giá thị trường chỉ là 2 đô la. Tại mức giá này, lượng cầu bằng 125 chiếc kem nhưng lượng cung chỉ bằng 75 chiếc kem. Do vậy, mức thiếu hụt là 50 chiếc kem. NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG: XẾP HÀNG TẠI TRẠM XĂNG Như chúng ta đã phân tích trong chương trước, vào năm 1973 Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) đã làm tăng giá dầu trên thị trường dầu thô thế giới. Do dầu thô là đầu vào chủ yếu dùng để sản xuất xăng, nên giá dầu thô cao hơn đã làm giảm cung về xăng. Tình trạng xếp hàng dài trước các trạm xăng trở nên phổ biến và lái xe thường phải chờ đợi hàng giờ chỉ để mua được vài thùng xăng. Ai phải chịu trách nhiệm về tình trạng xếp hàng dài để mua xăng này? Hầu hết mọi người đổ lỗi cho OPEC. Chắc chắn là nếu OPEC không làm tăng giá dầu thô, thì tình trạng thiếu xăng không xảy ra. Thế nhưng các nhà kinh tế lại đổ lỗi cho các quy định của chính phủ nhằm giới hạn giá mà các công ty xăng dầu được phép tính cho xăng. (a) Giá trần không ràng buộc của xăng Giá xăng 1. Ban đầu giá trần không có tính ràng buộc, ... Cung, S1 Giá trần P1 Cầu 0 Q1 Lượng xăng NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 4 – Cung, cầu và chính sách của chính phủ 3 (b) Giá trần mang tính ràng buộc của xăng 2. ... nhưng khi cung giảm ... Giá xăng S2 S1 P2 4. ... gây ra thiếu hụt P1 Giá trần 3. ... giá trần trở nên ràng buộc Cầu 0 QS QD Q1 Lượng xăng Hình 2. Thị trường xăng với trần giá. Phần (a) cho thấy thị trường xăng khi trần giá không ràng buộc bởi vì giá cân bằng P1 thấp hơn trần. Phần (b) cho thấy thị trường xăng sau khi sự gia tăng giá dầu (một đầu vào cho sản xuất xăng) làm dịch chuyển đường cung sang trái từ S1 tới S2. Trong thị trường không bị kiểm soát, giá sẽ tăng từ P1 lên P2. Tuy nhiên, trần giá ngăn cản không cho điều này xảy ra. Tại mức trần giá ràng buộc, người tiêu dùng sẵn sàng mua lượng QD, nhưng người sản xuất xăng chỉ sẵn sàng bán lượng QS. Mức chênh lệch giữa lượng cầu và lượng cung QD - QS chính là lượng xăng bị thiếu hụt. Hình 2 cho biết điều gì đã xảy ra. Như được minh họa trong phần (a), trước khi OPEC làm tăng giá dầu thô, giá cân bằng của xăng là P1, thấp hơn trần giá. Do đó, quy định về giá cả không có tác dụng gì. Tuy nhiên, khi giá dầu thô tăng lên thì tình hình thay đổi. Việc dầu thô lên giá làm tăng chi phí sản xuất xăng và điều này làm giảm cung về xăng. Phần (b) cho thấy, sự dịch chuyển sang trái của đường cung từ S1 tới S2 đã làm tăng giá cân bằng. Trong thị trường không bị kiểm soát, sự dịch chuyển của đường cung này sẽ làm tăng giá xăng cân bằng từ P1 lên P2, và kết quả là không có tình trạng thiếu hụt xăng. Song trần giá đã ngăn cản không cho giá tăng lên đến mức cân bằng. Tại mức trần giá này, các nhà sản xuất chỉ sẵn sàng bán lượng QS và người tiêu dùng sẵn sàng mua lượng QD. Bởi vậy, sự dịch chuyển của đường cung gây ra tình trạng thiếu hụt trầm trọng tại mức giá bị kiểm soát. Cuối cùng thì đạo luật về kiểm soát giá xăng cũng bị bãi bỏ. Các nhà làm luật đã hiểu ra rằng họ phải chịu một phần trách nhiệm trong việc làm cho rất nhiều người Mỹ mất thời gian chờ đợi xếp hàng mua xăng. Hiện nay khi giá dầu thô thay đổi, giá xăng có thể điều chỉnh để làm cho cung và cầu cân bằng nhau. NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG: KIỂM SOÁT TIỀN THUÊ NHÀ TRONG NGẮN HẠN VÀ DÀI HẠN Một ví dụ phổ biến của trần giá là chính sách kiểm soát tiền thuê nhà. Tại nhiều thành phố, chính phủ địa phương quy định mức trần cho tiền thuê mà các chủ nhà có thể thu từ người NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 4 – Cung, cầu và chính sách của chính phủ 4 thuê nhà. Mục tiêu của chính sách này là trợ giúp người nghèo thông qua việc làm cho nhà ở trở nên rẻ hơn. Các nhà kinh tế thường chỉ trích chính sách kiểm soát tiền thuê nhà này với lập luận rằng đó là một cách kém hiệu quả để giúp người nghèo nâng cao mức sống. Một nhà kinh tế đã gọi chính sách kiểm soát tiền thuê nhà là “cách tốt nhất để phá hủy một thành phố, ngoài ném bom”. Quảng đại quần chúng không thấy ngay những tác động tiêu cực của chính sách kiểm soát tiền thuê nhà, bởi vì chúng chỉ xảy ra sau nhiều năm. Trong ngắn hạn, chủ nhà chỉ có một số lượng các căn hộ cho thuê cố định và họ không thể nhanh chóng thay đổi con số này khi tình hình thị trường thay đổi. Hơn nữa, số người muốn thuê nhà trong một thành phố có thể không phản ứng mạnh đối với tiền thuê nhà trong ngắn hạn, bởi vì người ta cần có thời gian để điều chỉnh nhà ở của mình. Do đó trong ngắn hạn, cung và cầu về nhà ở tương đối ít co giãn. Phần (a) của hình 3 chỉ rõ các tác động ngắn hạn của chính sách kiểm soát tiền thuê nhà đối với thị trường nhà ở. Cũng như với bất kỳ trần giá nào, chính sách kiểm soát tiền thuê nhà gây ra tình trạng thiếu hụt. Song do cung và cầu không co giãn trong ngắn hạn, nên mức thiếu hụt ban đầu do chính sách kiểm soát tiền thuê nhà gây ra thấp. Tác động chính trong ngắn hạn là làm giảm tiền thuê nhà. Tiền thuê căn hộ Tiền thuê căn hộ Cung Cung Tiền thuê bị kiểm soát thiếu hụt 0 Tiền thuê bị kiểm soát thiếu hụt Cầu Lượng căn hộ (a) Kiểm soát tiền thuê nhà trong ngắn hạn (cung và cầu ít co giãn) 0 Cầu Lượng căn hộ (b) Kiểm soát tiền thuê nhà trong dài hạn (cung và cầu co giãn mạnh) Hình 3. Đạo luật về kiểm soát tiền thuê nhà trong ngắn hạn và dài hạn. Phần (a) cho thấy tác động ngắn hạn của luật kiểm soát tiền thuê nhà: Vì cung và cầu về nhà ở tương đối không co giãn, mức trần giá được quy định bởi luật kiểm soát tiền thuê nhà chỉ gây ra sự thiếu hụt nhỏ về nhà ở. Phần (b) cho thấy tác động dài hạn của luật kiểm soát giá cả: Vì cung và cầu về nhà ở co giãn nhiều hơn, nên luật kiểm soát tiền thuê nhà gây ra lượng thiếu hụt lớn. Diễn biến trong dài hạn lại rất khác bởi vì theo thời gian, người thuê và người cho thuê nhà phản ứng mạnh hơn đối với các điều kiện thị trường. Về phía cung, chủ nhà phản ứng lại tiền thuê nhà thấp bằng cách không xây thêm các căn hộ mới và không bảo dưỡng các căn hộ hiện có. Về phía cầu, tiền thuê nhà thấp khuyến khích mọi người tìm thuê căn hộ riêng (thay vì sống với cha mẹ hay thuê chung với người khác) và gây ra tình trạng ngày càng có nhiều người đổ về thành phố. Do đó, cả cung và cầu đều co giãn nhiều hơn trong dài hạn. NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 4 – Cung, cầu và chính sách của chính phủ 5 Phần (b) của hình 3 minh họa cho thị trường nhà ở trong dài hạn. Khi chính sách kiểm soát tiền thuê nhà làm cho tiền thuê nhà thấp hơn mức cân bằng, lượng cung về căn hộ giảm, trong khi lượng cầu về căn hộ tăng. Điều này dẫn đến tình trạng thiếu hụt nhà ở trầm trọng. Ở các thành phố áp dụng chính sách kiểm soát tiền thuê nhà, chủ nhà sử dụng nhiều cơ chế để phân phối nhà. Một vài chủ nhà có một danh sách dài các khách chờ. Người khác thì ưu tiên người thuê chưa có con. Lại có những người phân biệt đối xử với khách hàng theo chủng tộc. Cũng có khi các căn hộ lại được dành cho người thuê nhà sẵn sàng đút lót những kẻ trông nom khu nhà ấy. Về bản chất, các khoản hối lộ này làm cho tổng tiền thuê nhà của căn hộ (bao gồm cả tiền hối lộ) gần với mức giá cân bằng. Để hiểu đầy đủ các tác động của chính sách kiểm soát tiền thuê nhà, chúng ta phải nhớ lại một trong Mười Nguyên lý của kinh tế học nêu ra trong chương 1: Con người phản ứng với các kích thích. Trong thị trường tự do, chủ nhà cố gắng giữ nhà sạch và an toàn, bởi vì các căn hộ đó có giá cao. Ngược lại, khi chính sách kiểm soát tiền thuê nhà tạo ra sự thiếu hụt và chờ đợi, chủ nhà mất động cơ quan tâm tới lợi ích của người thuê nhà. Tại sao chủ nhà lại phải chi tiền để bảo dưỡng và nâng cấp nhà cho thuê trong khi người có cầu thuê đang xếp hàng để thuê chúng trong tình trạng hiện tại? Xét cho cùng thì mọi người thuê được nhà với giá rẻ hơn, nhưng họ cũng phải chấp nhận ngôi nhà kém chất lượng hơn. Các nhà hoạch định chính sách thường phản ứng với các tác động do chính sách kiểm soát giá gây ra bằng cách đưa ra các quy định mới. Ví dụ, có các đạo luật quy định rằng việc phân biệt chủng tộc khi cho thuê nhà ở là phạm pháp và yêu cầu chủ nhà phải đáp ứng điều kiện sinh hoạt cần thiết tối thiểu. Song việc thực hiện các đạo luật này rất khó khăn và tốn kém. Ngược lại, nếu chính sách kiểm soát tiền thuê nhà bị bãi bỏ và thị trường nhà ở được điều tiết bởi các lực lượng cạnh tranh, những đạo luật như trên sẽ trở nên ít cần thiết hơn. Trong thị trường tự do, tiền thuê nhà tự điều chỉnh để loại trừ tình trạng thiếu hụt - một nguyên nhân gây ra nhiều hành vi không mong muốn của người cho thuê nhà. Tác động của sàn giá tới kết cục thị trường Để xem xét ảnh hưởng của một loại chính sách kiểm soát giá khác của chính phủ, chúng ta hãy quay lại với thị trường kem. Bây giờ chúng ta hãy tưởng tượng ra rằng chính phủ bị thuyết phục bởi những lời khẩn cầu do Tổ chức Quốc gia của các nhà sản xuất Kem đưa ra. Trong trường hợp này, chính phủ có thể thiết lập một sàn giá. Sàn giá, cũng như trần giá, là một cố gắng của chính phủ nhằm duy trì giá cả ở một mức khác với mức giá cân bằng. Trong khi trần giá áp đặt mức tối đa cho giá cả, thì sàn giá lại áp đặt mức tối thiểu. Khi chính phủ quy định sàn giá cho thị trường kem, hai khả năng có thể xảy ra. Nếu chính phủ áp đặt sàn giá 2 đô la một chiếc kem trong khi giá cân bằng là 3 đô la, chúng ta sẽ có kết quả như trong phần (a) của hình 4. Trong trường hợp này, sàn giá không có tính ràng buộc bởi vì giá cân bằng cao hơn sàn giá. Các lực lượng thị trường sẽ đẩy nền kinh tế tới trạng thái cân bằng một cách tự nhiên và sàn giá không có tác đụng gì. Phần (b) của hình 4 cho thấy điều gì xảy ra khi chính phủ áp đặt sàn giá bằng 4 đô la một chiếc kem. Trong trường hợp này, sàn giá có tính chất ràng buộc trên thị trường bởi vì giá cân bằng 3 đô la thấp hơn sàn giá. Các lực lượng cung cầu có xu hướng đẩy giá thị trường về mức cân bằng, nhưng khi chạm sàn, nó không thể xuống thấp hơn nữa. Giá thị trường phải bằng sàn giá. Tại mức sàn giá này, lượng kem cung ra (120 chiếc) vượt quá lượng cầu (80 chiếc). NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 4 – Cung, cầu và chính sách của chính phủ 6 Một số người muốn bán kem với giá hiện hành không bán được kem. Do đó, sàn giá ràng buộc gây ra tình trạng thặng dư. Nếu trần giá và sự thiếu hụt có thể dẫn đến các cơ chế phân phối không mong muốn, thì sàn giá và sự thặng dư cũng vậy. Trong trường hợp áp dụng sàn giá, một số người bán không thể bán hết lượng kem mà họ muốn bán với giá thị trường. Những người bán biết chiều theo khuynh hướng cá nhân của người mua, có thể do mối liên hệ gia đình hay chủng tộc, sẽ bán được nhiều kem hơn so với những người không có điều kiện này. Ngược lại trong thị trường tự do, giá đóng vai trò là cơ chế phân phối và người bán có thể bán được tất cả lượng kem họ muốn bán tại mức giá cân bằng. (a) Giá sàn không ràng buộc Giá kem Cung 3$ Giá sàn 2$ Cầu 0 100 Lượng kem (lượng cân bằng) (b) Giá sàn ràng buộc Giá kem Cung Dư thừa 4$ Giá sàn 3$ (giá cân bằng) Cầu 0 80 120 lượng cầu lượng cung Lượng kem Hình 4. Thị trường với sàn giá. Trong phần (a), chính phủ áp đặt sàn giá bằng 2 đô la. Vì sàn giá thấp hơn giá cân bằng là 3 đô la, nên nó không có tác động gì. Giá thị trường điều chỉnh để cân bằng cung cầu. Tại mức giá cân bằng, cả lượng cung và lượng cầu đều là 100 chiếc. Trong phần (b), chính phủ áp đặt sàn giá bằng 4 đô la, cao hơn giá cân bằng là 3 đô la. Do đó, giá thị trường là 4 đô la. Do có 120 chiếc kem được cung ứng tại mức giá này trong khi lượng cầu chỉ bằng 80 chiếc kem, nên mức thặng dư bằng 40 chiếc kem. NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 4 – Cung, cầu và chính sách của chính phủ 7 NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG: LUẬT TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU Một ví dụ quan trọng về chính sách sàn giá là tiền lương tối thiểu. Các đạo luật về tiền lương tối thiểu quy định mức giá thấp nhất mà giới chủ có thể trả cho người lao động. Quốc hội Mỹ lần đầu tiên quy định tiền lương tối thiểu trong Đạo luật về Tiêu chuẩn lao động bình đẳng vào năm 1938 nhằm đảm bảo cho người lao động một mức sống tối thiểu. Vào năm 1996, tiền lương tối thiểu theo luật Liên bang là 4,75 đô la/giờ. Một số bang còn có tiền lương tối thiểu cao hơn. Để phân tích tác động của tiền lương tối thiểu, chúng ta hãy xem xét thị trường lao động. Phần (a) của hình 5 mô tả thị trường lao động phụ thuộc vào cung và cầu như tất cả các thị trường khác. Người lao động quyết định cung về lao động và các doanh nghiệp quyết định cầu về lao động. Nếu chính phủ không can thiệp, tiền lương sẽ điều chỉnh để cân bằng cung và cầu về lao động. (a) Thị trường lao động tự do Cung Tiền lương (b) Thị trường lao động với tiền lương tối thiểu có tính ràng buộc Tiền lương W cân bằng Dư cung lao động (thất nghiệp) Cung Wmin Cầu Cầu Số việc làm Lượng cân bằng lao động 0 Lượng cầu Lượng cung Lượng lao động Hình 5. Tiền lương tối thiểu ảnh hưởng tới thị trường lao động như thế nào. Phần (a) mô tả thị trường lao động trong đó tiền lương điều chỉnh để cân bằng cung và cầu về lao động. Phần (b) chỉ ra ảnh hưởng của tiền lương tối thiểu có tính ràng buộc. Do tiền lương tối thiểu là một loại sàn giá, nên nó gây ra sự thặng dư: Lượng cung về lao động vượt quá lượng cầu. Kết quả là tình trạng thất nghiệp. Phần (b) của hình 5 mô tả thị trường lao động với tiền lương tối thiểu. Nếu tiền lương tối thiểu cao hơn mức cân bằng như trường hợp này, thì lượng cung về lao động sẽ vượt lượng cầu. Kết quả là tình trạng thất nghiệp. Do đó, tiền lương tối thiểu làm tăng thu nhập của người lao động có việc làm, nhưng nó làm giảm thu nhập của người lao động không tìm được việc làm. Để hiểu biết đầy đủ về tiền lương tối thiểu, vấn đề quan trọng là cần nhớ rằng nền kinh tế không chỉ bao gồm một thị trường lao động duy nhất, mà có nhiều thị trường lao động cho các loại lao động khác nhau. Ảnh hưởng của tiền lương tối thiểu phụ thuộc vào kỹ năng và kinh nghiệm của người lao động. Người lao động có kỹ năng cao và nhiều kinh nghiệm không bị ảnh hưởng, vì tiền lương cân bằng của họ cao hơn nhiều so với mức lương tối thiểu. Đối với những người lao động này, tiền lương tối thiểu không có tính ràng buộc. NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 4 – Cung, cầu và chính sách của chính phủ 8 Tiền lương tối thiểu có tác động mạnh nhất đối với thị trường lao động thanh niên (tuổi dưới 20). Tiền lương cân bằng cho đối tượng lao động này có xu hướng thấp vì họ nằm trong số những người lao động có ít kỹ năng và kinh nghiệm nhất trong lực lượng lao động. Hơn nữa, họ thường chấp nhận tiền lương thấp hơn để đổi lấy việc được đào tạo qua công việc. (Trên thực tế, có những lao động trẻ sẵn sàng làm việc với tư cách “người học việc” không ăn lương. Bởi vì học việc thì không được trả lương, nên tiền lương tối thiểu không áp dụng đối với họ. Nếu được áp dụng, các công việc như thế có thể không tồn tại). Kết quả là tiền lương tối thiểu thường có tính ràng buộc nhiều hơn đối với lao động thanh niên so với các đối tượng khác của lực lượng lao động. Nhiều nhà kinh tế đã phân tích ảnh hưởng của luật về tiền lương tối thiểu đối với thị trường lao động thanh niên. Các nhà nghiên cứu này so sánh sự thay đổi tiền lương tối thiểu theo thời gian với sự thay đổi của mức sử dụng lao động thanh niên. Cho dù còn có sự tranh cãi nào đó về việc tiền lương tối thiểu ảnh hưởng ở mức nào tới công ăn việc làm, kết quả nghiên cứu tình huống điển hình vẫn cho thấy rằng khi tiền lương tối thiểu tăng 10 phần trăm, mức sử dụng lao động thanh niên giảm từ 1 đến 3 phần trăm. Để hiểu được con số ước tính này, chúng ta cần chú ý rằng mức tăng tiền lương tối thiểu 10 phần trăm không làm tăng mức lương bình quân của thanh niên thêm 10%. Sự thay đổi của luật không trực tiếp tác động tới số thanh niên đã được trả cao hơn mức tối thiểu. Hơn nữa, việc thực thi các đạo luật về tiền lương tối thiểu không hoàn hảo. Do vậy, mức giảm ước tính của việc làm từ 1đến 3 phần trăm là con số đáng kể. Ngoài việc làm thay đổi lượng cầu về lao động, tiền lương tối thiểu còn làm thay đổi lượng cung. Do tiền lương tối thiểu làm tăng tiền lương mà thanh niên có thể kiếm được, nên nó làm tăng số thanh niên đi tìm việc làm. Các công trình nghiên cứu đã cho thấy rằng tiền lương tối thiểu cao hơn tác động tới những thanh niên đang có việc làm. Khi tiền lương tối thiểu tăng lên, một số thanh niên đang đi học quyết định nghỉ học để đi làm. Những người mới bỏ học này sẽ thế chỗ những người đã bỏ học trước đó và họ trở thành người thất nghiệp. Tiền lương tối thiểu luôn là một chủ đề chính trị gây tranh cãi. Những người chủ trương áp dụng tiền lương tối thiểu coi chính sách này là một cách để nâng cao thu nhập của những người lao động nghèo. Họ chỉ ra một cách đúng đắn rằng người lao động hưởng lương tối thiểu chỉ có mức sống đạm bạc. Ví dụ vào năm 1994, khi tiền lương tối thiểu là 4,25 đô la/giờ, thì hai người lớn làm việc 40 giờ một tuần và tất cả các tuần trong năm đều hưởng tiền lương tối thiểu chỉ có được tổng thu nhập cả năm bằng 17.680 đô la, bằng già nửa mức thu nhập của một gia đình trung bình. Nhiều người chủ trương chính sách tiền lương tối thiểu cũng thừa nhận rằng chính sách này gây ra những tác động tiêu cực, trong đó có thất nghiệp, nhưng họ tin rằng chúng không đáng kể và khi xem xét vấn đề một cách toàn diện, thì mức lương tối thiểu cao hơn làm lợi cho người nghèo nhiều hơn. Những người phản đối chính sách tiền lương tối thiểu cho rằng đó không phải là cách tốt nhất chống lại đói nghèo. Họ lập luận rằng tiền lương tối thiểu cao gây ra tình trạng thất nghiệp, khuyến khích thanh niên bỏ học và làm cho người lao động không có nghề mất cơ hội được đào tạo qua công việc. Hơn nữa, những người phản đối tiền lương tối thiểu chỉ ra rằng tiền lương tối thiểu là một chính sách không nhằm đúng đối tượng. Không phải tất cả những người lao động ăn lương tối thiểu là chủ hộ gia đình đang cố gắng giúp gia đình họ thoát khỏi đói nghèo. Nhiều người ăn lương tối thiểu là thanh niên thuộc tầng lớp trung lưu, họ làm các công việc phụ để có thêm tiền tiêu vặt. NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 4 – Cung, cầu và chính sách của chính phủ 9 Đánh giá chính sách kiểm soát giá Một trong Mười Nguyên lý của kinh tế học thảo luận ở chương 1 nói rằng thị trường thường là cách tốt để tổ chức hoạt động kinh tế. Nguyên lý này lý giải tại sao hầu hết các nhà kinh tế luôn phản đối các chính sách quy định trần giá và sàn giá. Đối với các nhà kinh tế, giá cả không phải là kết quả của một quá trình lộn xộn, tự phát nào đó. Họ cho rằng, giá cả là kết quả của hàng triệu quyết định do các doanh nghiệp và người tiêu dùng ẩn sau đường cung và đường cầu đưa ra. Giá cả có nhiệm vụ quan trọng là cân bằng cung và cầu, qua đó điều phối hoạt động kinh tế. Khi các nhà hoạch định chính sách định giá bằng pháp luật, họ làm mờ các tín hiệu mà thông thường có tác dụng định hướng quá trình phân phối nguồn lực xã hội. Một nguyên lý khác trong Mười Nguyên lý của kinh tế học là đôi khi chính phủ có thể cải thiện kết cục thị trường. Trên thực tế, các nhà hoạch định chính sách kiểm soát giá vì họ cho rằng kết quả hoạt động của thị trường không công bằng. Chính sách kiểm soát giá thường nhằm giúp đỡ người nghèo. Ví dụ, luật về kiểm soát tiền thuê nhà cố gắng làm cho ai cũng có nhà ở và luật về tiền lương tối thiểu thì tìm cách giúp mọi người thoát khỏi cảnh đói nghèo. Thế nhưng chính sách kiểm soát giá thường gây tổn hại cho những người cần được trợ giúp. Chính sách kiểm soát tiền thuê nhà có thể giữ cho tiền thuê nhà thấp, nhưng nó không khuyến khích chủ nhà duy tu nhà và làm cho việc tìm kiếm nhà ở trở nên khó khăn. Luật tiền lương tối thiểu có thể làm tăng thu nhập của một số người lao động, nhưng nó cũng làm cho những người khác thất nghiệp. Việc giúp đỡ những đối tượng cần trợ giúp có thể được thực hiện bằng những cách khác, chứ không nhất thiết phải thông qua chính sách kiểm soát giá. Ví dụ, chính phủ có thể làm cho nhà ở rẻ hơn bằng cách trả một phần tiền thuê nhà cho các gia đình nghèo. Không như chính sách kiểm soát tiền thuê nhà, việc trợ cấp tiền thuê nhà không làm giảm lượng cung về nhà ở, do đó không dẫn đến tình trạng thiếu hụt nhà ở. Tương tự như vậy, biện pháp trợ cấp tiền lương có thể nâng cao mức sống của người lao động nghèo mà không gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc tuyển dụng họ. Một ví dụ về trợ cấp tiền lương là miễn thuế thu nhập. Chương trình này của chính phủ hỗ trợ thu nhập cho những công nhân có tiền lương thấp. Mặc dù các chính sách thay thế này thường tốt hơn chính sách kiểm soát giá, nhưng chúng cũng không hoàn thiện. Biện pháp trợ cấp tiền lương và tiền thuê nhà làm tăng số tiền mà chính phủ phải chi ra và chính phủ phải tăng thuế. Như chúng ta sẽ thấy trong phần tiếp theo, thuế cũng có cái giá của chúng. Kiểm tra nhanh: Hãy định nghĩa trần giá, sàn giá và cho ví dụ về mỗi loại. Điều gì dẫn đến sự thiếu hụt? Điều gì dẫn đến sự thặng dư? Tại sao? THUẾ Tất cả các cơ quan chính phủ - từ chính phủ liên bang ở Washington cho tới chính quyền địa phương ở các thị trấn nhỏ - đều sử dụng thuế để tạo nguồn thu cho các dự án công cộng như đường xá, trường học và quốc phòng. Do thuế là một công cụ chính sách quan trọng, và bởi vì thuế ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta theo nhiều cách, nên việc nghiên cứu thuế là một chủ đề mà chúng ta sẽ quay trở lại nhiều lần trong cuốn sách này. Trong phần này, chúng ta bắt đầu nghiên cứu vấn đề thuế ảnh hưởng tới nền kinh tế như thế nào. NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 4 – Cung, cầu và chính sách của chính phủ 10 Để có cơ sở phân tích, chúng ta hãy tưởng tượng ra rằng chính quyền địa phương quyết định tổ chức một lễ hội kem hàng năm - có diễu hành, pháo hoa, và quan chức đọc diễn văn. Để có nguồn thu phục vụ cho sự kiện này, người ta quyết định đánh thuế 0,5 đô la trên mỗi chiếc kem bán ra. Khi kế hoạch được thông báo, có hai nhóm vận động hành lang vào cuộc. Tổ chức Quốc gia các nhà sản xuất kem cho rằng hội viên của họ đang phải vật lộn để tồn tại trên thị trường cạnh tranh và họ đề nghị người mua kem phải nộp khoản thuế đó. Hiệp hội những người ăn kem Mỹ cho rằng người tiêu dùng kem đang túng quẫn và yêu cầu người bán kem phải nộp thuế. Vì hy vọng đạt được một sự thỏa hiệp, nên ông thị trưởng nêu ra ý kiến là một nửa số thuế sẽ do người bán chịu và nửa còn lại sẽ do người mua chịu. Để phân tích các đề xuất này, chúng ta phải nghiên cứu vấn đề đơn giản, nhưng không dễ phát hiện: Khi chính phủ đánh thuế vào hàng hóa, ai là người chịu gánh nặng thuế khóa này? Người mua hàng? Người bán hàng? Hay, nếu người mua và người bán cùng chia xẻ gánh nặng thuế, thì điều gì quyết định cách phân chia? Liệu chính phủ có thể quy định đơn giản việc phân chia này như ông thị trưởng đề xuất, hay sự phân chia được quyết định bởi các lực lượng cơ bản hơn trong nền kinh tế? Các nhà kinh tế sử dụng thuật ngữ điểm rơi của thuế để chỉ vấn đề phân chia gánh nặng thuế. Như chúng ta sẽ thấy, chúng ta có thể rút ra được một số bài học đáng ngạc nhiên về ảnh hưởng của thuế chỉ bằng cách sử dụng công cụ cung và cầu. Thuế đánh vào người mua tác động thế nào đến kết cục thị trường? Đầu tiên chúng ta hãy xem xét khoản thuế đánh vào người mua hàng. Giả dụ, chính quyền địa phương thông qua một đạo luật quy định người mua kem phải trả cho chính phủ 0,5 đô la mỗi khi họ mua một chiếc kem. Luật thuế này tác động như thế nào đến người mua và người bán kem? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta tuân theo ba bước trong phân tích cung và cầu ở chương 4: (1) xác định xem liệu đạo luật này tác động tới đường cung hay đường cầu; (2) xác định xem các đường này dịch chuyển theo hướng nào; (3) xác định xem sự dịch chuyển này tác động tới trạng thái cân bằng như thế nào. Tác động đầu tiên của khoản thuế này là làm thay đổi cầu về kem. Đường cung không bị ảnh hưởng bởi vì đối với bất kỳ giá kem nào, người bán vẫn có động cơ cung ứng kem ra thị trường như cũ. Ngược lại, bây giờ người mua phải nộp thuế cho chính phủ (và giá kem cho người bán) mỗi khi họ mua kem. Do vậy, khoản thuế này làm dịch chuyển đường cầu về kem. Thật dễ dàng xác định hướng của dịch chuyển này. Do thuế đánh vào người mua làm cho việc mua kem không còn hấp dẫn như trước, nên người mua có lượng cầu về kem thấp hơn tại mọi mức giá. Kết quả là đường cầu dịch chuyển sang trái (hay xuống dưới) như trong hình 6. Trong trường hợp này, chúng ta có thể nói chính xác đường cầu dịch chuyển bao nhiêu. Do người mua bị đánh thuế 0,5 đô la, nên giá mua kem thực sự đối với người mua cao hơn giá thị trường 0,5 đô la. Ví dụ, nếu giá thị trường của một chiếc kem bằng 2 đô la, thì giá thực sự bằng 2,5 đô la. Do người mua coi tổng chi phí mua hàng bao gồm cả thuế, nên họ có cầu mua một lượng kem giống như trường hợp giá thị trường cao hơn giá bán ra là 0,5 đô la. Nói cách khác, để người mua có cầu về bất kỳ lượng kem nào, thì giờ đây giá thị trường cũng phải thấp hơn 0,5 đô la để bù lại ảnh hưởng do thuế gây ra. Cho nên, khoản thuế 0,5 đô la làm dịch chuyển đường cầu xuống dưới một lượng đúng bằng mức thuế (0,5 đô la), tức từ D1 tới D2. NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 4 – Cung, cầu và chính sách của chính phủ 11 Để thấy rõ điểm rơi của thuế, chúng ta so sánh điểm cân bằng cũ với điểm cân bằng mới. Bạn có thể thấy trong hình vẽ là giá cân bằng của kem giảm từ 3 đô la xuống 2,8 đô la và lượng cân bằng giảm từ 100 xuống còn 90 chiếc. Do người sản xuất bán ít hơn và người tiêu dùng mua ít hơn, nên khoản thuế này làm giảm quy mô thị trường kem. Bây giờ chúng ta hãy quay trở lại với vấn đề ảnh hưởng của thuế: Ai là người chịu thuế? Mặc dù người mua nộp toàn bộ số thuế cho chính phủ, nhưng cả người mua và người bán đều phải chịu gánh thuế. Do giá thị trường giảm từ 3 đô la xuống còn 2,8 đô la khi chính phủ đánh thuế, nên người bán thu được số tiền ít hơn 0,2 đô la từ mỗi chiếc kem bán ra so với khi chưa có thuế. Vì vậy, thuế gây ảnh hưởng tiêu cực đối với người bán. Người mua trả người bán giá thấp hơn (2,8 đô la), nhưng giá mà anh ta thực sự trả gồm cả thuế đã tăng từ 3 đô la lên 3,3 đô la (2,80 + 0,5 = 3,3 đô la). Cho nên, khoản thuế này cũng làm người mua bị thiệt. D1 Giá kem D2 Giá người mua trả Giá không thuế S1 $3.3 Cân bằng trước thuế 3.0 Thuế (0,5$) 2.8 Thuế đánh vào người mua làm dịch chuyển đường cầu xuống dưới một lượng đúng bằng thuế (0,50 đô la) Giá người bán nhận Cân bằng sau thuế 0 90 100 Lượng kem Hình 6. Thuế đánh vào người mua. Khi một khoản thuế 0,5 đô la đánh vào người mua, đường cầu dịch chuyển xuống một khoảng bằng 0,5 đô la, tức từ D1 xuống D2. Lượng cân bằng giảm từ 100 xuống 90 chiếc kem. Giá mà người bán thu được giảm từ 3 đô la xuống còn 2,8 đô la. Giá mà người mua trả (bao gồm cả thuế) tăng từ 3 đô la lên 3,3 đô la. Mặc dù thuế đánh vào người mua, nhưng cả người mua và người bán đều phải chia sẻ gánh nặng thuế. Tóm lại, phân tích trên đây đem lại cho chúng ta hai kết luận tổng quát: - Thuế cản trở hoạt động của thị trường. Khi một mặt hàng bị đánh thuế, lượng bán ra của nó giảm khi thị trường đạt trạng thái cân bằng mới. - Người mua và người bán cùng chia sẻ gánh nặng thuế. Trong trạng thái cân bằng mới, giá mà người mua phải trả cao hơn và giá mà người bán được nhận thấp hơn. Tác động của thuế đánh vào người bán đến kết cục thị trường Bây giờ chúng ta hãy xem xét trường hợp thuế đánh vào người bán. Giả sử chính quyền địa phương thông qua một đạo luật quy định những người bán kem phải nộp 0,5 đô la cho chính phủ đối với mỗi chiếc kem họ bán. Đạo luật đó gây ra những tác động gì? NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 4 – Cung, cầu và chính sách của chính phủ 12 Trong trường hợp này, trước hết thuế tác động vào cung về kem. Do thuế không đánh vào người mua, nên lượng cầu về kem tại mọi mức giá vẫn như cũ, do đó đường cầu không thay đổi. Ngược lại, khi thuế đánh vào người bán, chi phí bán kem tăng và người bán cung ứng lượng kem ít hơn tại mọi mức giá. Đường cung dịch chuyển sang trái (hay lên trên). Một lần nữa, chúng ta có thể tính toán chính xác quy mô của sự dịch chuyển. Đối với bất kỳ mức giá thị trường nào của kem, giá mà người bán thực sự nhận được - tức số tiền họ được phép giữ lại sau khi nộp thuế - thấp hơn so với trước là 0,5 đô la. Ví dụ, nếu giá thị trường của một chiếc kem là 2 đô la, giá người bán thực sự nhận được sẽ là 1,5 đô la. Cho dù giá thị trường là bao nhiêu, thì người bán cũng chỉ cung ứng một lượng kem như trong trường hợp giá thị trường giảm 0,5 đô la. Nói cách khác, để làm cho người bán cung ứng bất kỳ lượng nào, giá thị trường bây giờ cũng phải cao hơn 0,5 đô la để bù lại điểm rơi của thuế. Do đó như được chỉ ra trong hình 7, đường cung dịch chuyển lên trên một đoạn bằng đúng mức thuế (0,5 đô la), tức từ S1 tới S2. Khi thị trường chuyển từ trạng thái cân bằng cũ sang trạng thái cân bằng mới, giá kem cân bằng tăng từ 3 đô la lên 3,3 đô la và lượng cân bằng giảm từ 100 xuống còn 90 chiếc kem. Một lần nữa, thuế lại làm giảm quy mô thị trường kem. Và lần này cũng vậy, người mua và người bán cùng chia sẻ gánh nặng thuế. Do giá thị trường tăng, người mua phải trả thêm 0,3 đô la cho mỗi chiếc kem mà họ mua so với trước khi có thuế. Người bán nhận được giá cao hơn so với trước khi có thuế, nhưng giá thực sự (sau khi đóng thuế) giảm từ 3 đô la xuống còn 2,8 đô la. So sánh hình 6 và 6.7, chúng ta đi đến một kết luận đáng ngạc nhiên: Thuế đánh vào người mua và thuế đánh vào người bán tương đương nhau. Trong cả hai trường hợp, thuế đều đặt một chiếc nêm vào giữa giá mà người mua trả và giá mà người bán nhận được. Chiếc nêm này không thay đổi, cho dù thuế được đánh vào người mua hay người bán. Trong cả hai trường hợp, nó đều làm dịch chuyển vị trí tương đối của đường cung và đường cầu. Tại điểm cân bằng mới, người mua và người bán cùng chia sẻ gánh nặng thuế. Điểm khác biệt duy nhất giữa thuế đánh vào người mua và thuế đánh vào người bán là ở người nộp thuế cho chính phủ. Tính tương đương của hai loại thuế này có lẽ dễ hiểu hơn nếu chúng ta tưởng tượng rằng chính phủ thu thuế 0,5 đô la một chiếc kem bằng cách đặt một cái bát tại mỗi quầy bán kem. Khi chính phủ đánh thuế vào người mua, người mua được yêu cầu bỏ 0,5 đô la vào bát khi họ mua một chiếc kem. Khi chính phủ đánh thuế vào người bán, người bán được yêu cầu bỏ 0,5 đô la vào bát mỗi khi họ bán một chiếc kem. Việc 0,5 đô la đi trực tiếp từ ví của người mua vào bát, hay gián tiếp từ ví người mua qua tay người bán rồi vào bát đều có ảnh hưởng như nhau. Khi thị trường đạt đến điểm cân bằng mới, người mua và người bán cùng nhau chia sẻ gánh nặng thuế, việc đánh thuế như thế nào không quan trọng. Giá kem Giá người mua trả Giá không thuế Giá người bán nhận D1 S2 S1 $3.3 Thuế (0,5$) 3.0 Thuế đánh vào người bán làm dịch chuyển đường cung lên trên một lượng đúng bằng mức thuế (0,50 đô la) 2.8 Cân bằng NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 4 – Cung, cầu và chính sách của chínhtrước phủ thuế Cân bằng 13 Hình 7. Thuế đánh vào người bán. Khi mức thuế 0,5 đô la đánh vào người bán, đường cung dịch chuyển lên trên 0,5 đô la, tức từ S1 lên S2. Lượng cân bằng giảm từ 100 xuống 90 chiếc kem. Giá người mua phải trả tăng từ 3 lên 3,3 đô la. Giá người bán nhận được (sau khi nộp thuế) giảm từ 3 xuống 2,8 đô la. Cho dù là thuế đánh vào người bán hay người mua, thì cả người mua và người bán đều chia sẻ gánh nặng thuế NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG: QUỐC HỘI CÓ THỂ PHÂN CHIA GÁNH NẶNG THUẾ TIỀN LƯƠNG KHÔNG? Nếu đã từng nhận được một tấm séc trả lương, bạn có thể thấy rằng thuế được khấu trừ đi từ số tiền bạn kiếm được. Một trong các loại thuế đó được gọi là FICA, chữ viết tắt của Đạo luật về Đóng góp bảo hiểm Liên bang. Chính phủ Liên bang sử dụng nguồn thu từ thuế FICA để chi trả bảo hiểm xã hội, y tế, hỗ trợ thu nhập và các chương trình chăm sóc sức khỏe cho người già. FICA là một ví dụ về thuế đánh vào tiền lương, vì nó đánh vào tiền lương mà các doanh nghiệp trả cho công nhân của họ. Năm 1995, tổng nguồn thu từ thuế FICA đánh vào một công nhân điển hình bằng 15,3% thu nhập từ tiền lương. Bạn nghĩ ai phải chịu gánh nặng thuế đánh vào tiền lương này - doanh nghiệp hay người lao động? Khi phê chuẩn đạo luật về thuế tiền lương, Quốc hội tìm cách phân chia gánh nặng thuế. Vì vậy, Quốc hội quy định một nửa số thuế do doanh nghiệp trả và nửa còn lại do người lao động trả. Nghĩa là một nửa số thuế được thu từ doanh thu của doanh nghiệp, còn nửa kia được khấu trừ vào tiền lương của công nhân. Số tiền khấu trừ trên cuống séc tiền lương của bạn là phần đóng góp của người lao động. Song phân tích của chúng ta về ảnh hưởng của thuế chỉ ra rằng các nhà làm luật không thể phân bổ gánh nặng thuế dễ dàng như vậy. Để minh họa, chúng ta có thể phân tích thuế tiền lương giống như là một loại thuế hàng hóa, trong đó hàng hóa là lao động, còn giá cả là tiền lương. Đặc điểm then chốt của thuế tiền lương là nó đặt một chiếc nêm vào giữa tiền lương mà doanh nghiệp trả và tiền lương mà người lao động nhận được. Hình 8 chỉ ra kết cục này. Khi loại thuế tiền lương có hiệu lực, tiền lương mà người lao động nhận được giảm đi và tiền lương mà doanh nghiệp phải trả tăng lên. Cuối cùng thì người lao động và doanh nghiệp cùng chia sẻ gánh nặng thuế đúng như luật quy định. Nhưng việc phân chia gánh nặng thuế này giữa người lao động và doanh nghiệp chẳng có gì liên quan tới sự phân chia theo luật quy định: Sự phân chia gánh nặng thuế trong hình 8 không nhất thiết phải là 50-50, và kết quả tương tự cũng sẽ xảy ra nếu đạo luật này yêu cầu người lao động nộp toàn bộ tiền thuế hay doanh nghiệp nộp toàn bộ thuế tiền thuế. Ví dụ trên chỉ ra rằng bài học cơ bản nhất về ảnh hưởng của thuế thường bị bỏ qua trong các cuộc tranh luận công khai. Các nhà làm luật có thể quyết định việc thuế lấy từ ví người mua NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 4 – Cung, cầu và chính sách của chính phủ 14 hay người bán, nhưng họ không quyết định được sự phân chia gánh nặng thuế. Trên thực tế, ảnh hưởng của thuế phụ thuộc vào các lực lượng cung cầu. Tiền lương Cung về lao động Tiền lương do doanh nghiệp trả Chiếc nêm Tiền lương thuế không thuế Cầu về lao động Tiền lương người lao động nhận được Lượng công nhân Hình 8. Thuế tiền lương. Thuế lương đặt một chiếc nêm vào giữa tiền lương người lao động nhận được và tiền lương doanh nghiệp trả. Khi so sánh tiền lương có thuế và không thuế, bạn nhận thấy rằng người lao động và doanh nghiệp cùng chia sẻ gánh nặng thuế. Việc phân chia gánh nặng thuế giữa người lao động và doanh nghiệp không phụ thuộc vào việc vào việc chính phủ đánh thuế vào người lao động hay doanh nghiệp, hoặc phân chia thuế thành hai phần bằng nhau cho hai nhóm người này. Hệ số co giãn và điểm rơi của thuế Khi một hàng hóa bị đánh thuế, cả người mua và người bán cùng chia sẻ gánh nặng thuế. Nhưng thực ra gánh nặng thuế được phân chia như thế nào? Rất hiếm khi nó được chia đều cho các bên. Để biết gánh nặng này được chia sẻ như thế nào, chúng ta cùng xem xét ảnh hưởng của thuế tới hai thị trường trong hình. Trong cả hai trường hợp, hình này chỉ ra đường cầu ban đầu, đường cung ban đầu và một mức thuế chèn chiếc nêm giá vào giữa số tiền người mua phải trả và số tiền người bán nhận được. (Trong cả hai phần hình 9, chúng ta không vẽ đường cung và đường cầu mới. Việc đường nào dịch chuyển phụ thuộc vào chỗ thuế đánh vào người mua hay người bán. Như chúng ta thấy, điều này không liên quan tới điểm rơi của thuế). Sự khác biệt giữa hai phần là hệ số co giãn tương đối của cung và cầu. Phần (a) của hình 9 minh họa cho một loại thuế trên thị trường có cung rất co giãn và cầu tương đối không co giãn. Trong tình huống này, người bán phản ứng mạnh đối với giá cả trong khi người mua ít phản ứng đối với giá cả. Khi một loại thuế được áp dụng trong thị trường có hệ số co giãn như vậy, giá người bán thu được không giảm nhiều, nên người bán chỉ phải chịu một phần nhỏ của gánh nặng thuế. Ngược lại, giá người mua phải trả tăng đáng kể và điều này cho thấy người mua chịu phần lớn gánh nặng thuế. Giá Giá người mua trả Giá không thuế Giá người bán nhận (a) Cung co giãn, cầu ít co giãn Cung Thuế 3... là đánh vào người bán Cầu 1. Khi cung co giãn nhiều hơn cầu ... 2… gánh nặng của thuế rơi vào người mua nhiều hơn Lượng (b) Cung ít co giãn, cầu coTẾ giãnHỌC NGUYÊN LÝ KINH Chương 4 – Cung, cầu và chính sách chính phủ 1. Khi cầu co giãncủa nhiều hơn cung ... Giá Cung 15 Hình 9. Gánh nặng thuế được phân chia như thế nào. Trong phần (a), đường cung co giãn còn đường cầu không co giãn. Trong trường hợp này, giá người bán nhận được giảm ít trong khi giá người mua phải trả tăng nhiều. Do đó, người mua chịu phần lớn gánh nặng thuế. Trong phần (b), đường cung ít co giãn còn đường cầu co giãn. Trong trường hợp này, giá người bán nhận được giảm nhiều trong khi giá người mua phải trả tăng ít. Cho nên, người bán chịu phần lớn gánh nặng thuế. Phần (b) của hình 9 minh họa cho một loại thuế trong thị trường có cung tương đối không co giãn và cầu rất co giãn. Trong trường hợp này, người bán rất ít phản ứng mạnh đối với giá, nhưng người mua lại phản ứng mạnh. Hình này cho thấy khi có thuế, giá người mua phải trả không tăng nhiều lắm, trong khi giá người bán nhận được lại giảm mạnh. Cho nên, người bán phải chịu hầu hết gánh nặng thuế. Hai phần của hình 9 nêu ra một bài học chung về cách phân chia gánh nặng thuế. Gánh nặng thuế nghiêng nhiều về bên thị trường ít co giãn hơn. Tại sao điều này đúng? Về bản chất, hệ số co giãn phản ánh sự sẵn sàng rời bỏ thị trường của người mua và người bán khi điều kiện thị trường trở nên bất lợi. Cầu không co giãn hàm ý người mua không có các phương án tốt thay thế cho việc tiêu dùng hàng hóa này. Cung ít co giãn hàm ý người bán không có các phương án tốt thay thế cho việc sản xuất hàng hóa này. Khi hàng hóa bị đánh thuế, bên thị trường có ít sự lựa chọn hơn không thể dễ dàng rời bỏ thị trường và do đó phải chịu gánh nặng thuế lớn hơn. NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG: AI CHỊU THUẾ ĐÁNH VÀO HÀNG XA XỈ? Vào năm 1990, Quốc hội thông qua đạo luật thuế mới đánh vào các mặt hàng xa xỉ như du thuyền, máy bay tư nhân, đồ lông thú, đồ trang sức và xe hơi đắt tiền. Mục đích của loại thuế này là tăng nguồn thu từ những người có khả năng nộp thuế. Bởi vì chỉ những người giàu mới có thể mua những đồ xa xỉ, nên đánh thuế vào hàng xa xỉ dường như là một lô gic hợp lý khi người ta muốn đánh thuế vào người giàu. Thế nhưng, do ảnh hưởng của các lực lượng cung và cầu, kết quả lại không như Quốc hội dự kiến. Ví dụ, chúng ta hãy xem xét thị trường du thuyền. Cầu về du thuyền tương đối co giãn. Một triệu phú có thể dễ dàng không mua du thuyền nữa, mà dùng số tiền đó để mua một ngôi NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 4 – Cung, cầu và chính sách của chính phủ 16 nhà lớn hơn, đi du lịch châu Âu, hay để lại thừa kế của cải nhiều hơn cho con cháu. Ngược lại, cung về du thuyền không co giãn, ít nhất là trong ngắn hạn. Các nhà máy sản xuất du thuyền không dễ dàng chuyển sang hoạt động sản xuất khác, còn công nhân đóng du thuyền thì không sẵn sàng đổi nghề để đáp lại điều kiện thay đổi của thị trường. Phân tích của chúng ta đưa ra một dự báo rõ ràng trong trường hợp này. Với cầu co giãn và cung ít co giãn, gánh nặng thuế chủ yếu đổ lên đầu các nhà cung cấp. Nghĩa là thuế đánh vào du thuyền đặt gánh nặng chủ yếu lên vai các doanh nghiệp và công nhân sản xuất du thuyền, bởi vì cuối cùng họ thu được giá thấp hơn cho sản phẩm của mình. Song công nhân không phải là người giàu có. Do đó, gánh nặng của thuế đánh vào hàng xa xỉ rơi vào tầng lớp trung lưu, chứ không phải là những người giàu. Những giả định sai lầm về ảnh hưởng của thuế đánh vào hàng xa xỉ nhanh chóng trở nên rõ ràng sau khi đạo luật thuế này có hiệu lực. Các nhà cung cấp hàng hóa xa xỉ đã làm cho đại diện của họ trong Quốc hội nhận thức được khó khăn mà họ phải trải qua và Quốc hội đã bãi bỏ hầu hết luật thuế đánh vào hàng xa xỉ vào năm 1993. Kiểm tra nhanh: Trong đồ thị cung cầu, hãy chỉ rõ tác động của mức thuế 1.000 đô la/ một chiếc xe đánh vào người mua xe đối với số lượng xe bán ra và giá của chúng. Bằng một đồ thị khác, hãy chỉ ra tác động của mức thuế 1.000 đô la một chiếc xe đánh vào người bán đối với số lượng xe bán ra và giá cả của chúng. Trong cả hai đồ thị, hãy chỉ ra sự thay đổi giá cả mà người mua xe phải trả và sự thay đổi giá cả mà người bán xe nhận được. KẾT LUẬN Nền kinh tế do hai loại luật chi phối: luật cung cầu và luật do chính phủ đưa ra. Trong chương này, chúng ta đã bắt đầu tìm hiểu xem các luật này tương tác như thế nào. Kiểm soát giá và thuế mang tính phổ biến trong các thị trường khác nhau, và ảnh hưởng của chúng thường được báo chí và các nhà hoạch định chính sách tranh luận. Chỉ cần một chút kiến thức kinh tế là có thể hiểu và đánh giá được các chính sách này. Trong các chương sau, chúng ta sẽ phân tích chính sách của chính phủ một cách chi tiết hơn. Chúng ta sẽ xem xét các ảnh hưởng của thuế đầy đủ hơn và nghiên cứu nhiều loại chính sách hơn so với chúng ta đã làm trong chương này. Song các bài học cơ bản của chương này sẽ không thay đổi: Khi phân tích các chính sách của chính phủ, thì cung và cầu là những công cụ phân tích đầu tiên và hữu hiệu nhất. NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 4 – Cung, cầu và chính sách của chính phủ 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan