TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN NGỮ VĂN
PHAN THỊ MỸ THIỀU
MSSS: 6062213
CÔNG THỨC NGÔN NGỮ VÀ BIỂU TƯỢNG
TRONG CA DAO NAM BỘ
VỀ LỠ DUYÊN
Luận Văn Tốt Nghiệp
Ngành Ngữ Văn Khóa 2006 – 2010
Cán bộ hướng dẫn: ThS. LÊ THỊ DIỆU HÀ
Cần Thơ, ngày 21 tháng 4 năm 2010
1
ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Lịch sử vấn đề
Mục đích yêu cầu
Phạm vi nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CA DAO NAM BỘ, CÔNG THỨC NGÔN NGỮ VÀ
BIỂU TƯỢNG TRONG CA DAO NAM BỘ VỀ LỠ DUYÊN
1. Khái niệm ca dao và công thức truyền thống trong ca dao
1.1. Khái niệm ca dao
1.2. Khái niệm công thức truyền thống trong ca dao
2. Khái niệm công thức ngôn ngữ và biểu tượng trong ca dao Nam Bộ về lỡ duyên
2.1. Khái niệm về ca dao Nam Bộ
2.2. Khái niệm ca dao Nam Bộ về lỡ duyên
2.3. Khái niệm công thức ngôn ngữ và biểu tượng trong ca dao Nam Bộ
2.3.1. Khái niệm công thức ngôn ngữ
2.3.2. Khái niệm công thức biểu tượng
2.3.3. Khái niệm công thức ngôn ngữ và biểu tượng trong ca dao Nam Bộ
3. Thống kê
CHƯƠNG II: BIỂU HIỆN CÔNG THỨC NGÔN NGỮ VÀ BIỂU TƯỢNG
TRONG CA DAO NAM BỘ VỀ LỠ DUYÊN
1. Biểu hiện công thức ngôn ngữ và biểu tượng trong các chủ đề của ca dao Nam
Bộ
1.1. Biểu hiện công thức ngôn ngữ và biểu tượng trong chủ đề về tình yêu quê
hương đất nước
1.2. Biểu hiện công thức ngôn ngữ và biểu tượng trong chủ đề về tình yêu đôi
lứa
1.3. Biểu hiện công thức ngôn ngữ và biểu tượng trong chủ đề về quan hệ gia
đình và các mối quan hệ khác
2. Biểu hiện công thức ngôn ngữ và biểu tượng trong ca dao Nam Bộ về lỡ duyên
2
CHƯƠNG III: GIÁ TRỊ Ý NGHĨA CÔNG THỨC NGÔN NGỮ VÀ BIỂU
TƯỢNG TRONG CA DAO NAM BỘ VỀ LỠ DUYÊN
1. Giá trị nội dung
2. Giá trị hình thức
3. Giá trị về văn hóa
KẾT LUẬN
3
A. PHẦN MỞ ĐẦU
4
1. Lí do chọn đề tài
Khi nhắc đến Nam Bộ ai cũng nghĩ đến vùng đất mới của những lưu dân với
hình ảnh
- Xứ đâu xứ lạ xứ lùng
Dưới sông sấu lội trên rừng cọp um
hay
- Xứ nào bằng xứ Cạnh Đền
Muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lội lền như bánh canh
Vẻ hoang sơ trở thành ấn tượng khó phai. Con người luôn bị những nguy hiểm
của thiên nhiên hoang dại rình rập. Những bước chân đầu tiên vừa bỡ ngỡ trước môi
trường xa lạ vừa chần chừ, do dự vì lo lắng cho cuộc sống trong những ngày sắp tới ở
“nơi khỉ ho cò gáy”, nhưng rồi bộn bề công việc làm cho họ không còn thời gian suy
nghĩ đến tương lai mà phải đối mặt với thực tại thế nào, làm sao để tồn tại và lao động
cần mẫn là giải pháp tốt nhất. Trải qua năm tháng cải tạo miệt mài, những lưu dân này
phải đấu tranh với những gian khó “muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lội lền tựa bánh canh”,
nhưng đồng thời lại có được sự ủng hộ của khí hậu mưa thuận gió hoà, sản vật dồi dào
thì bàn tay chai cứng đã biến nơi đây thành cánh đồng lúa bạt ngàn cò bay thẳng cánh,
đất đai phì nhiêu vun bón cho vườn cây lành trái ngọt quanh năm. Cho thấy sự hài hòa
của vùng đất đã giữ chân con người cùng khổ. Nó đồng thời gây ra cho con người
những khó khăn, khắc nghiệt và bù đắp bằng điều kiện thuận lợi. Một địa điểm vô
cùng mới mẻ trên bản đồ địa lí nước ta thời bấy giờ, mang đầy đủ nét tự nhiên chưa
từng ghi dấu con người chỉ có cây cối, sinh vật chung sống bên nhau. Vì thế mà đặc
tính hoang dã luôn đe dọa an toàn của con người và chấp nhận đến đây thì phải chịu
không ít đau thương mất mát vì nỗi "rừng thiêng nước độc”, nhưng đồng thời được tận
hưởng sản vật dồi dào
Ai ơi về miệt Tháp Mười
Cá tôm sẵn bắt, lúa trời sẵn ăn
Chỉ cần giới thiệu một địa danh điển hình cũng đủ khái quát toàn cảnh Đồng
bằng sông Cửu Long giàu có tài nguyên thiên nhiên, hay câu ca dao về Gia Định –
trung tâm của vùng cho ta hình dung vẻ đẹp trù phú
Ai về Gia Định thì về
Nước Trong gạo trắng dễ bề làm ăn
5
Như người xưa thường nói “trời không phụ lòng người”, có phấn đấu vươn lên
từ những cơ cực ban đầu thì sẽ thu kết quả tốt đẹp. Những lưu dân mới đến không nản
lòng trước những trắc trở mà quyết tâm chinh phục nó bằng sức lao động của mình và
kết quả được làm chủ trên mảnh đất rộng lớn, phì nhiêu.
Như vậy, đời sống con người không kém phần sôi động, luôn vật lộn với
chướng ngại vật trong cuộc sống, hăng say khai hoang lập nhà cửa xóm ấp. Không vì
thế mà tâm hồn con người trở nên khô cằn, họ luôn giữ vẻ tươi vui và tràn đầy sức
sống để xua tan mệt mỏi làm cho vị mặn mồ hôi thêm ngọt ngào tình người mở đất.
Thời gian dần hun đúc cho con người nét tính cách riêng độc đáo, đó là: tính bộc trực,
chất phát nhưng không kém phần dí dỏm và tính hài hước, phóng khoáng,... đến nghĩa
tình trong quan hệ giữa người với người. Tụ chung lại làm thành bản sắc văn hóa vừa
quen vừa lạ với con người Việt Nam, đây thực sự ẩn chứa đời sống tinh thần vô cùng
phong phú mang nét độc đáo cá thể. Để lưu lại nét đẹp con người cũng như tạo vật nơi
đây thì ca dao Nam Bộ đã làm tròn chức năng, những câu hát bình dân phản ánh toàn
bộ bản chất như chính những gì họ trải qua, thể hiện một cách chân thực và sâu sắc.
Những lời ca mộc mạc, giản dị được dân vùng châu thổ ngâm nga gần gũi với
thiên nhiên, hoà mình vào thấm đậm tình sông nước. Ca dao Nam Bộ là bộ phận rất trẻ
so với ca dao truyền thống nhưng được giới nghiên cứu quan tâm và đánh giá cao,
không những thể hiện tâm tình con người trong quá trình khai khẩn mà còn chứa đựng
đặc sắc về nghệ thuật, điểm nổi trội văn hoá. Vì thế, có nhiều đề tài nghiên cứu từng
khía cạnh từ cụ thể đến khái quát nhằm khám phá giá trị những sáng tác dân gian, dần
đánh giá đúng thực chất và có cái nhìn trọn vẹn hơn về mảng ca dao của vùng đất mới.
Người viết trong luận văn này đã chọn đề tài: “Công thức ngôn ngữ và biểu
tượng trong ca dao Nam Bộ về lỡ duyên”, là một vấn đề nhỏ nhưng cũng muốn thông
qua việc tìm hiểu để nâng cao kiến thức và có cái nhìn sâu sắc hơn. Công thức ngôn
ngữ và công thức biểu tượng là những ẩn số, tìm ra lời giải đồng nghĩa chúng ta phát
hiện ý nghĩa biểu đạt đằng sau được tác giả dân gian khéo léo cho vào vỏ bọc các công
thức. Những câu ca dao gần gũi, mộc mạc nhưng không có nghĩa là sơ sài, dễ dãi như
phát ngôn hằng ngày. Bằng khả năng ngôn ngữ bình dân, tác giả vừa thể hiện nội dung
tình cảm vừa sáng tạo thế giới nghệ thuật. Vì vậy khi tìm hiểu ca dao, ta không chỉ chú
trọng nội dung là đủ, ở ca dao Nam Bộ cũng nằm trong tổng thể và những câu hát về
lỡ duyên thấm đượm tình cảm con người trong tình cảnh trái ngang của duyên phận
6
được bộc bạch thông qua các hình thức nghệ thuật. Lời than thân trách phận từ đau
khổ đầy uất nghẹn khó mà nói rõ thì công thức ngôn ngữ và biểu tượng như chiếc chìa
khóa mở cánh cửa tâm hồn con người vùng sông nước để thổ lộ nỗi lòng thầm kín. Bài
viết không dừng lại ở ý nghĩa nghiên cứu mà mong muốn góp thêm công trình khẳng
định giá trị ca dao Nam Bộ.
2. Lịch sử vấn đề
Từ lâu, ca dao Nam Bộ đã trở thành đề tài vừa quen vừa lạ trong giới nghiên
cứu, có nhiều công trình trên mọi lĩnh vực khác nhau, mỗi lần đi sâu vào là thấy cái
hay không lặp lại gây hứng thú cho nhiều người quan tâm. Tính đến nay có rất nhiều
công trình xoay quanh khám phá vẻ đẹp những câu hát bình dân mà sâu sắc vô cùng.
Và người viết khi chọn đề tài “Công thức ngôn ngữ và biểu tượng trong ca dao Nam
Bộ về lỡ duyên” đã khảo sát thấy có nhiều công trình đi trước đề cập đến vấn đề này,
từ những bài viết có hệ thống được xuất bản thành sách cho đến những bài nghiên cứu
về khía cạnh nào đó. Nhìn chung liên quan đến đề tài có các công trình sau:
Về công tác sưu tầm ca dao trong cả nước có nhiều công trình tập hợp những
câu ca dao trong cả ba miền, đồng thời còn đưa ra nhiều ý kiến xoay quanh vấn đề
nghiên cứu ca dao như:
* Vũ Ngọc Phan có quyển Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam do NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 1978. Tập hợp cả ba thể loại của văn học dân gian, không chỉ giới
thiệu đến độc giả những câu hát dân ca, những câu tục ngữ đúc kết kinh nghiệm của
ông cha mà còn có những câu ca dao phong phú nội dung thể hiện đầy đủ cung bậc
cảm xúc qua từng đề tài.
* Bùi Mạnh Nhị (chủ biên), Hồ Quốc Hùng, Nguyễn Thị Ngọc Điệp biên soạn
quyển Văn học Việt Nam, Văn học dân gian những tác phẩm chọn lọc – NXB Giáo
dục, Hà Nội, 2000. Đây là quyển sách không chỉ sưu tầm riêng về thể loại ca dao mà
còn bao gồm nhiều thể loại khác của văn học dân gian: thần thoại, truyền thuyết, sử
thi, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười, dân ca, tuồng đồ, chèo.
Sưu tầm ca dao Nam Bộ thì cũng không ít công trình có đóng góp trong lĩnh
vực này, các nhà nghiên cứu cố gắng sưu tầm bổ sung vào kho tàng ca dao cả nước,
nâng số lượng câu ca dao của vùng ngày càng đa dạng.
* Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Bùi Mạnh Nhị sưu tập những câu ca bình
dân hợp thành quyển Ca dao – dân ca Nam Bộ - NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1984.
7
Công trình này có công trong việc sưu tập ca dao Nam Bộ và tập hợp nhiều ý kiến bàn
luận liên quan đến nhiều vấn đề khác nhau về văn học dân gian.
* Khoa ngữ văn trường Đại học Cần Thơ – Văn học dân gian Đồng bằng sông
Cửu Long - NXB Giáo dục, 1977, giới thiệu các thể loại của văn học dân gian ở Đồng
bằng sông Cửu Long, trong đó có ca dao được đặt ở phần II với tiêu đề các thể loại
văn vần, nằm ở tiểu mục thứ 4. Ca dao được trình bày theo các chủ đề: tình yêu đất
nước, lao động sản xuất, đời sống tình cảm, phong tục tập quán và tâm lí xã hội.
* Đỗ Văn Tân (chủ biên) quyển Ca dao Đồng Tháp Mười – NXB Sở văn hóa
thông tin Đồng Tháp, 1984, là kết quả sưu tầm và nghiên cứu của tập thể giáo viên
khoa Ngữ văn trường Cao đẳng Sư phạm Đồng Tháp giới thiệu hơn ngàn đơn vị ca
dao trong vùng Tháp Mười về cảnh trí, sản vật, con người và đời sống tình cảm của
chính con người nơi đây.
Nghiên cứu về văn hóa, văn học dân gian Nam Bộ có một số công trình tiêu
biểu phải kể đến như:
* Bùi Mạnh Nhị – Văn học dân gian những công trình nghiên cứu – NXB Giáo
dục, 1999, tập hợp nhiều bài viết của nhiều tác giả khác nhau về những vấn đề cần bàn
luận của văn học dân gian, một số bài đề cập đến ca dao như Đặng Văn Lung – Những
yếu tố trùng lặp trong ca dao trữ tình, Nguyễn Tấn Phát – Vài nét về nội dung ca dao
– dân ca Nam Bộ,...
* Nguyễn Văn Hầu có quyển Diện mạo văn học dân gian Nam Bộ (gồm 2 tập)
– NXB Trẻ, 2004. Tập 1 đã khái quát về các thể loại văn học dân gian ở Nam Bộ như
truyện cổ tích, tục ngữ, câu đố, ca dao, hò, vè,... bước đầu cho người đọc hình dung
diện mạo của văn học dân gian trong không gian Lục tỉnh.
* Nguyễn Phương Thảo – Văn hóa dân gian Nam Bộ những phát thảo – NXB
Giáo dục, Hà Nội, 1977, là quyển sách có ý nghĩa giới thiệu và giải mã văn hóa dân
gian của một vùng – vùng sông nước Cửu Long và bổ sung vào vốn văn hóa cả nước
những vấn đề cụ thể trong lĩnh vực đời sống tâm linh của con người.
Liên quan đến đề tài này thì có nhiều bài đi sâu vào những vấn đề công thức
ngôn ngữ và biểu tượng trong ca dao nói chung và ca dao Nam Bộ nói riêng. Mỗi bài
viết chỉ hướng đến một biểu hiện nhỏ nhưng rất có giá trị ở mức độ chuyên sâu. Các
tác giả đưa ra từng ý kiến khác nhau làm cơ sở phong phú khi tiếp cận vấn đề, hay có
thể là những gợi ý quan trọng giúp ta phát hiện thêm nhiều giá trị độc đáo. Một số
8
công trình như sau:
* Bùi Mạnh Nhị có hai bài viết: Công thức truyền thống và đặc trưng cấu trúc
của ca dao – dân ca trữ tình trên tạp chí Văn học số 1, 1997 và bài viết Một số đặc
điểm ngôn ngữ của ca dao – dân ca Nam bộ trên tạp chí Ngôn ngữ số 1 – 1984.
* Nguyễn Văn Nở viết về Hình ảnh “Thân em” trong ca dao trữ tình Đồng
bằng sông Cửu Long - Tạp chí ngôn ngữ số 9 – 2000. Bài viết phân tích từ mở đầu
bằng “Thân em” là công thức sử dụng biện pháp so sánh nổi có những biểu hiện cụ thể
như thế nào và còn so sánh hình ảnh sử dụng trong câu ca dao các miền khác cho thấy
hình ảnh trong ca dao Nam Bộ giản dị mang nét đặc thù cho chính nơi khai sinh ra nó.
* Lê Thị Diệu Hà viết về Đặc trưng ngôn ngữ ca dao tình yêu Nam Bộ trên diễn
đàn học tập và nghiên cứu Ngôn ngữ học 2005. Tác giả nêu lên những đặc trưng về
ngôn ngữ được dùng nhiều trong ca dao tình yêu vùng sông nước như hình ảnh con
sông, tên các con nước, các loại ghe xuồng... và phương ngữ được sử dụng để nêu lên
nét điển hình của câu ca.
* Nguyễn Thị Phương Châm với công trình Tìm hiểu đặc trưng ngôn ngữ của
ca dao sưu tầm ở Nam Bộ đã khai thác những đặc trưng tâm hồn, tình cảm con người
Phương Nam qua ngôn ngữ ca dao.
Đến những bài viết bàn về những biểu hiện của công thức biểu tượng trong ca
dao thì có một số công trình:
* Trương Thị Nhàn – Giá trị biểu trưng nghệ thuật của các vật thể nhân tạo
trong ca dao cổ truyền Việt Nam – Tạp chí văn hóa dân gian số 3, 1998, phân loại và
đưa ra thống kê những vật thể nhân tạo trong ca dao đồng thời phân tích những biểu
hiện của nó.
* Nguyễn Thị Ngọc Điệp có hai bài viết: Tiếp cận biểu tượng trầu – cau, bài
thứ hai là Về chức năng của biểu tượng trong cấu trúc của ca dao.
* Trần Văn Nam – Xu hướng lựa chọn cái biểu đạt trong sự hình thành các
biểu trưng nghệ thuật của ca dao Nam Bộ – Tạp chí văn hóa dân gian số 1, 2003.
* Hà Công Tài – Biểu tượng trăng trong thơ ca dân gian – Tạp chí văn hóa số
5-6, 1988 đã phân tích biểu tượng trăng trong ca dao đồng thời khái quát về biểu
tượng, lấy cái cụ thể ngoài đời sống nâng lên thành cái trừu tượng, phán ánh ý niệm
thẩm mỹ của nhân dân.
9
Một số công trình khác mang tính chất lí luận, nhiều nhà nghiên cứu đưa ra
từng phương diện về nghệ thuật vận dụng công thức ngôn ngữ và biểu tượng trong ca
dao. Sau đây là một số bài viết về vấn đề này:
* Nguyễn Xuân kính với quyển Thi pháp ca dao, dành riêng chương 7 bàn về
một số biểu tượng, ông phân loại biểu tượng thành hai nhóm lớn: biểu tượng thế giới
thiên nhiên và biểu tượng thế giới nhân tạo.
* Bùi Công Hùng – Biểu tượng thơ ca trên tạp chí văn học số 1, 1998.
* Hoàng Kim Ngọc biên soạn quyển So sánh và ẩn dụ trong ca dao trữ tình
(dưới góc nhìn ngôn ngữ – văn hóa học) – NXB Khoa học Xã hội, 2009. Đây thực sự
là chuyên khảo đầu tiên với tư cách tiếp cận ngôn ngữ và văn hóa về biện pháp so sánh
và ẩn dụ. Hai biện pháp nghệ thuật được xem như tín hiệu thẩm mỹ trong ca dao trữ
tình của người Việt.
* Bùi Mạnh Nhị – Tiếp cận văn học dân gian địa phương từ đặc trưng văn hóa
dân gian – Tạp chí văn học số 3, 1985. Công trình này đã nêu lên quá trình văn học
dân gian hình thành, tồn tại và phát triển.
* Đoàn Xuân Mỹ có bài viết Ca dao Nam Bộ, một cái nhìn gần – Tạp chí văn
học số 4, 1997. Bài viết về thể thơ, cấu trúc, nhịp điệu của ca dao Nam Bộ trên cơ sở
đã kế thừa từ truyền thống của ca dao dân tộc đồng thời có những sáng tạo riêng mang
tính chất đặc trưng phong cách con người bản địa.
Nhìn chung cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu chi tiết đầy đủ về
“Công thức ngôn ngữ và biểu tượng trong ca dao Nam Bộ về lỡ duyên”. Bên cạnh đó,
có nhiều công trình khác nhau liên quan đến đề tài, mỗi công trình chỉ nghiên cứu từng
đề tài riêng lẻ, có những công trình cùng đề tài nhưng có quan điểm đánh giá khác
nhau làm phong phú thêm vấn đề đang tìm hiểu, chúng ta có nhiều hướng tiếp cận
khác nhau tùy theo quan điểm hay hướng tiếp cận của mỗi cá nhân. Khi thực hiện đề
tài này, người viết hướng đến vấn đề công thức ngôn ngữ và biểu tượng trong ca dao
Nam Bộ về lỡ duyên cụ thể thành hệ thống hoàn chỉnh.
3. Mục đích yêu cầu
Nghiên cứu ca dao Nam Bộ nói chung và đề tài “Công thức ngôn ngữ và biểu
tượng trong ca dao Nam Bộ về lỡ duyên” đòi hỏi người viết hướng đến các nhiệm vụ
cụ thể:
- Trước tiên ta cần khảo sát, thống kê những câu ca dao Nam Bộ về lỡ duyên
10
làm tư liệu chính, những công thức ngôn ngữ và biểu tượng được sử dụng để thổ lộ
tâm tư tình cảm về đề tài này.
- Kế đến, người viết tìm hiểu nguồn gốc hình thành công thức ngôn ngữ và biểu
tượng. Sau đó tìm ra định nghĩa chính xác như định hướng cho việc xác định đúng các
công thức được dùng trong câu ca dao.
- Hướng tiếp theo là phân tích giá trị biểu đạt của công thức ngôn ngữ và biểu
tượng trong ca dao Nam Bộ về lỡ duyên. Từ nội dung thu được, người viết có thể so
sánh với ca dao cổ truyền và đưa ra đánh giá, nhận xét chung về đóng góp của công
thức trong đề tài lỡ duyên trong ca dao.
4. Phạm vi nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài “Công thức ngôn ngữ và biểu tượng trong ca dao Nam Bộ
về lỡ duyên”, người viết cần giới hạn phạm vi tìm hiểu. Đề tài chú trọng đi sâu vào nội
dung công thức ngôn ngữ và biểu tượng khảo sát trong ca dao Nam Bộ về lỡ duyên.
Người viết tập trung làm rõ biểu hiện cụ thể từng công thức, nó có ý nghĩa gì khi vận
dụng vào câu ca bình dân.
Từ phạm vi của đề tài, tài liệu khảo sát theo qui ước sau:
I. Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Bùi Mạnh Nhị – Ca dao – dân ca Nam
Bộ - NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1984.
II. Khoa ngữ văn trường Đại học Cần Thơ – Văn học dân gian Đồng bằng sông
Cửu Long - NXB Giáo dục, 1977.
III. Đỗ Văn Tân (chủ biên) – Ca dao Đồng Tháp Mười – NXB Sở văn hóa
thông tin Đồng Tháp, 1984.
Từ cơ sở những tư liệu trên, người viết sẽ lấy làm tài liệu khảo sát chính và khi
sử dụng ngữ liệu sẽ có chú thích, còn các ngữ liệu lấy từ các tài liệu khác sẽ không có
chú thích. Bởi vì, đề tài mà người viết hướng đến là “Công thức ngôn ngữ và biểu
tượng trong ca dao Nam Bộ về lỡ duyên” nên những câu ca dao Nam Bộ nói chung và
những câu ca Nam Bộ về lỡ duyên nói riêng là dẫn chứng chủ yếu làm rõ vấn đề trong
đề tài này.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được giới hạn trong phạm vi tương đối, yêu cầu tìm hiểu công thức ngôn
ngữ và biểu tượng và đối tượng là những câu ca dao Nam Bộ về lỡ duyên. Tuy đề tài
không rộng nhưng người viết cần chuyên sâu đưa ra nhận định chính xác về giá trị của
11
từng nội dung biểu hiện. Bổ trợ cho quá trình thực hiện đề tài, người viết cần có những
phương pháp nghiên cứu chính xác như: thu thập tài liệu, đọc văn bản chọn lọc những
câu ca dao tiêu biểu làm dẫn chứng trong lập luận. Những phương pháp sử dụng chủ
yếu trong quá trình thực hiện đề tài này: thống kê đầy đủ công thức được sử dụng, sau
đó liệt kê có hệ thống để đảm bảo cho quá trình nghiên cứu theo trình tự khoa học,
phân tích và tổng hợp là hai khâu quan trọng làm sáng tỏ vấn đề, rồi so sánh, đối chiếu
công thức ngôn ngữ và biểu tượng trong ca dao Nam Bộ với ca dao truyền thống,...
Ngoài ra, khi nghiên cứu công thức ngôn ngữ và biểu tượng, người viết còn sử dụng
nhiều thao tác khác nhau khi cần thiết chủ yếu hướng vào mục đích nghiên cứu, vì thế
phương pháp liên ngành sẽ bổ trợ tốt hơn.
12
B. PHẦN NỘI DUNG
13
CHƯƠNG I : KHÁI QUÁT CA DAO NAM BỘ, CÔNG THỨC
NGÔN NGỮ VÀ BIỂU TƯỢNG TRONG CA DAO NAM BỘ VỀ
LỠ DUYÊN
1. Khái niệm ca dao và công thức truyền thống trong ca dao
1.1. Khái niệm ca dao
Ca dao là sản phẩm của những người bình dân. Trong nền Văn học dân gian, ca
dao làm phong phú về mặt thể loại và giá trị biểu hiện, đã trở thành đề tài quen thuộc
với chúng ta. Thế nhưng, ca dao vẫn chưa có khái niệm thống nhất, xoay quanh vấn đề
này vẫn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau:
* Theo Dương Quảng Hàm: “Ca dao (ca: hát, dao: bài hát không có chương
khúc) là bài hát ngắn được lưu hành trong dân gian, thường tả tính tình phong tục của
người bình dân” (Việt Nam văn học sử yếu – NXB Hội nhà văn, 1996) [7; 9].
* Đinh Gia Khánh cho rằng: “Ca dao vốn là thuật ngữ Hán Việt. Theo cách
hiểu thông thường thì ca dao là lời của bài hát dân ca đã bỏ đi những tiếng điệm,
tiếng láy…hoặc ngược lại là những câu thơ có thể “bẻ” thành những làn điệu dân ca”
(Văn học dân gian Việt Nam – NXB Giáo dục, 1998) [9; 436].
* Nguyễn Xuân Kính thì định nghĩa: “Ca dao là những sáng tác văn chương
được phổ biến rộng rãi được lưu truyền qua nhiều thế hệ mang những đặc điểm nhất
định và bền vững về mặt phong cách” (Thi pháp ca dao – NXB KHXH Hà Nội, 1992)
[11; 56].
* Tác giả Huỳnh Minh - Trúc Phương trong quyển Việt Nam văn học bình dân –
NXB Thanh Niên, 2003 cho rằng: “Căn cứ vào nghĩa chữ hán thì: Ca là hát, dao là
bài ngắn không chương khúc. Nói một cách rộng hơn: Ca dao là câu hát hay bài hát
ngắn không thành chương khúc lưu dụng truyền khẩu trong giới trí thức bình dân”
[13; 73].
* Tập thể tác giả của Lịch sử văn học Việt Nam – NXB Giáo dục, 1978: “Ca
dao là những bài hát có hoặc không có chương khúc, sáng tác bằng thể văn vần của
dân tộc (thường là lục bát) để miêu tả, tự sự,ngụ ý và diễn đạt tình cảm” [26; 3].
* Vũ Ngọc Phan định nghĩa: “Ca dao là một loại thơ dân gian có thể ngâm
14
được như các loại thơ khác và có thể xây dựng thành các điệu dân ca” (Tục ngữ ca
dao Việt Nam – NXB KHXH, 1978) [22; 42].
* Nguyễn Văn Đạm – Từ điển tường giải và liên tưởng tiếng việt – NXB Văn
hóa thông tin Hà Nội, 1999: “Ca dao thể loại văn học dân gian thể hiện bằng các câu
vần lụt bát” [2; 96].
* Mã Giang Lân, Lê Chí Quế: “Ca dao là những bài có hoặc không có chương
khúc, sáng tác bằng thể văn vần dân tộc (thường là lục bát) để miêu tả tự sự, ngụ ý và
diễn đạt tình cảm”.
Tuy khái niệm này chưa có sự thống nhất nhưng nhìn chung các nhà nghiên cứu
đưa ra quan điểm có nét tương đồng. Ta có thể hiểu ca dao là bài hát bộc lộ tâm tư,
tình cảm của nhân dân lao động, do tập thể sáng tác và được lưu truyền từ đời này
sang đời khác bằng con đường truyền miệng.
1.2. Khái niệm công thức truyền thống trong ca dao
Những công thức được vận dụng trong sáng tác dân gian mang tính chất bền
vững và ổn định được gọi là công thức truyền thống, ghi dấu ấn sâu đậm khi người
bình dân muốn cất nên lời ca thì nghĩ đến những công thức này ngay. Tuy công thức
truyền thống rất quen thuộc với những ai tiếp cận ca dao nhưng có ít công trình nghiên
cứu chuyên sâu, cứ cho là nó quá gần gũi nên chưa quan tâm nhiều đến. Để làm sáng
tỏ thế nào là công thức truyền thống thì người viết tham khảo ý kiến từ công trình của
Bùi Mạnh Nhị – Công thức truyền thống và đặc trưng cấu trúc của ca dao – dân ca
trữ tình trên tạp chí Văn học số 1, 1997. Trong đó đã nêu ra một số nhà nghiên cứu
trên thế giới đã nghiên cứu về công thức truyền thống như A.Đauy, G.pooikert,
O.Khoonnsaphen,
Ia.Grim,
A.N.Aphanaxép,
P.I.Buxlaep,
A.N.Vêxêlôpxki,
A.T.KhrôLenkô….
Theo A.Đauy: “Về thực chất, cần phải đưa vào khái niệm công thức tất cả
những gì thường được lặp lại, công thức bao hàm khái niệm về cái tiêu biểu, điển hình
đối với thể loại”. Công thức truyền thống là những kiểu mẫu tương đối ổn định, điển
hình khác nhau về hình thái, dung lượng, nội dung, ý nghĩa. Công thức có thể là một
từ, một nhóm từ, dòng thơ hoặc nhóm dòng thơ. Có công thức thời gian, không gian,
cốt truyện, tình huống, nhân vật, thiên nhiên, có cả công thức mẫu đề, biểu tượng…
Dấu hiệu chung của công thức truyền thống là sự lặp lại, tiêu biểu, điển hình cả
nội dung lẫn hình thức. Nhân dân sáng tác theo truyền thống và cảm thụ cũng theo một
15
truyền thống có bề dày lịch sử, văn hóa, xã hội và được thử thách. Trong ca dao nó
cũng nằm trong tổng thể văn hóa dân gian, những thực thể nội dung, những điển hình
nghệ thuật đã được truyền thống chọn lọc, khái quát gần hiện thực, mà đây là hiện
thực của thế giới văn hóa dân gian, của truyền thống văn học dân gian.
Những công thức này không bất biến mà linh hoạt, đổi mới trong từng sáng tác
cụ thể. Tùy ngữ cảnh mà công thức biểu hiện nét nghĩa khác nhau, như khi nói về vẻ
đẹp hài hòa đôi trai gái thì có công thức “trai hiền gái lịch”, “gái đảm trai tài”, “gái sắc
trai tài”, “trai khôn gái khéo”. Công thức “mưa nắng” chỉ sự lao động vất vả và có thể
biến đổi “năm nắng mười mưa”, có khi “một nắng hai sương”. Trong những bài ca dao
công thức được lựa chọn, kết hợp theo nhiều hướng khác, phụ thuộc nhiều vào cảm
xúc người sáng tác khi vận dụng, công thức chỉ có chức năng thiết kế văn bản nên nó
là bộ phận, là nhân tố cấu trúc trong bài ca.
Trong ca dao một công thức được sử dụng sáng tác nhiều bài ca khác nhau và
vượt ra phạm vi nội dung cụ thể, duy nhất đem đến nét sinh động, sâu sắc của những
quan hệ ngữ nghĩa như công thức “trầu - cau”
Miếng trầu ăn một trả mười
Ăn sao cho được một người như em.
Miếng trầu ăn nặng bằng chì,
Ăn rồi em biết lấy gì đền ơn?
Dân gian thường nói: “miếng trầu là đầu câu chuyện”, ngoài mục đích đãi khách theo
phong tục của người xưa, nó còn thể hiện nghĩa tình trong giao tiếp. Ngoài ra, miếng
trầu thể hiện tình yêu đôi lứa, cho hôn nhân. Nghĩa này xuất phát từ câu chuyện cổ tích
“Sự tích trầu cau” về ba người trong nhà họ Cao. Chính vì thế, khi vận dụng công thức
“trầu – cau” vào câu truyện vừa thể hiện phong tục cổ truyền vừa mượn hình ảnh để
bày tỏ tình cảm hết sức kín đáo không gây khó chịu cho người nghe, mời ăn trầu theo
thông lệ và thông qua đó dọ ý người thương
Bên anh dư đất trồng cau
Cho em xin miếng trồng trầu một bên
Bao giờ trầu nọ bén lên
Cau kia có trái lập nên cửa nhà [I; 156]
Có trầu có cau như chuyện duyên nợ sẽ thành, lời nói xuất phát từ người con trai hay
người con gái đều không quan trọng nhờ mượn hình ảnh ẩn dụ rất ý nhị. Ngoài thể
16
hiện tình cảm con người với nhau, thông qua biểu tượng đẹp để nói về mình, thể hiện
bản thân
Trầu ăn là nghĩa
Thuốc xỉa là tình
Cảm ơn phụ mẫu sinh mình dễ thương
Công thức “trầu - cau” cho ta biết tục ăn trầu, mời trầu, dâng trầu của nhân dân.
Còn công thức “cây đa” xuất pháp từ tục thờ Thành Hoàng ở làng xã, là biểu tượng
cho sự linh thiêng, bền vững. Và dân gian lấy một ý để nói về sự thủy chung chờ đợi
như cây đa cố thụ ngàn năm
Cây đa cũ bến đò xưa
Bộ hành có nghĩa nắng mưa cũng chờ
Tìm hiểu công thức ta hiểu thêm nhiều tập tục của dân ta, những câu ca dao hợp
lại như cuốn sách văn hóa lưu giữ nét đẹp của dân tộc, góp phần tuyên truyền cho thế
hệ sau này và bảo tồn giá trị của cha ông để lại từ ngàn xưa.
Ta thấy công thức truyền thống thường chứa đựng nền văn hóa dân tộc mà khi
nghiên cứu ta cần chú ý đến văn hóa học, dân tộc học và sự hình thành của chúng. Từ
những công thức truyền thống gắn liền với văn hóa dân tộc mà những bài ca dao ra đời
với nhiều ý nghĩa độc đáo thể hiện sự phong phú trong đời sống tinh thần con người
Việt Nam. Công thức là cầu nối giữa truyền thống và bài ca. Mặt khác công thức là
yếu tố của truyền thống, nó không là sở hữu riêng của bất kì văn hóa nào, trở thành tài
sản chung cho mọi người cùng thưởng thức cùng gìn giữ.
Trong hệ thống công thức truyền thống, công thức mẫu đề có vai trò quan
trọng. Mỗi công thức mẫu đề sẽ tập hợp lại các công thức chi tiết của kiểu loại khác về
dung lượng, như công thức biểu tượng hoa thì có nhiều công thức chi tiết: hoa hồng,
hoa đào, hoa mất nhụy, hoa tàn, … các công thức chi tiết sẽ được xuất hiện trong từng
bài ca dao cụ thể theo ý diễn đạt.
Mẫu đề truyền thống là một chỉnh thể thống nhất, được xem như văn cảnh cụ
thể, trực tiếp. Cấu trúc của bài là sự vận động từ công thức truyền thống này tới công
thức truyền thống khác trên cơ sở quy định chặt chẽ của mẫu đề, chẳng hạn như mẫu
đề “mười thương”
Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
17
Ba thương má lún đồng tiền
Bốn thương răng lánh hạt huyền kém thua
Năm thương cổ yếm đeo bùa
Sáu thương nón thượng quai lụa dịu dàng
Bảy thương nét ở khôn ngoan
Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh
Chín thương cô ở một mình
Mười thương con mắt cô tình với ai
Đây là một trong nhiều bài ca vận dụng công thức “mười thương”, liệt kê nét
đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Đến ca dao vùng đất mới cũng có bài ca
theo mẫu đề này
Một thương em giỏi bán buôn
Hai thương mái tóc cài gương trên đầu
Ba thương cặp mắt bồ câu
Bốn thương môi mỏng, má bầu xinh xinh
Năm thương giọng nói hữu tình
Sáu thương trán rộng, thượng đình em cao
Bảy thương vóc liễu má đào
Tám thương da trắng hồng hào dễ ưa
Chín thương sóng mũi dọc dừa
Mười thương em đẹp mà chưa có chồng [II; 432]
Nhìn chung các bài ca không khác xa mấy, nội dung được triển khai từ một
công thức có sẵn. Hình ảnh ở mỗi bài tuy là khác nhau nhưng đều tả nét đẹp người con
gái từ hình thể đến tính cách. Tùy theo quan điểm của từng tác giả mà sắp xếp theo trật
tự, có thể chọn ngoại hình “tóc đuôi gà” lên đầu làm duyên buổi đầu gặp mặt, cũng có
thể đưa “giỏi bán buôn” đứng đầu trong các nết vì xem trọng tính cách là yếu tố quan
trọng cần nêu lên trước tiên.
Tóm lại, công thức truyền thống trong ca dao là yếu tố rất quan trọng đưa
chúng ta tiếp cận cấu trúc bài ca dao. Qua công thức truyền thống gợi mở, định hướng
người đọc khám phá nét đẹp của những câu hát dân gian, nét truyền thống điển hình,
tiêu biểu của văn hóa dân tộc. Đưa bài ca dao không chỉ sâu sắc nội dung, ý nghĩa mà
độc đáo về nghệ thuật, nâng tầm giá trị sáng tác của tác giả dân gian.
18
2. Khái niệm công thức ngôn ngữ và biểu tượng trong ca dao Nam Bộ
về lỡ duyên
2.1. Khái niệm về ca dao Nam Bộ
Ca dao là tiếng nói tâm tình của người dân lao động, qua những câu ca mộc
mạc thể hiện những suy nghĩ của bản thân. Ca dao được tiếp nhận với nhiều khía cạnh
từ sưu tầm, nghiên cứu, thưởng thức. Đặc biệt, nhiều công trình và nhiều nhà nghiên
cứu đưa ra khái niệm cho ca dao nhưng tới nay vẫn chưa thống nhất như đã đề cập ở
phần khái niệm ca dao.
Chính bản thân ca dao nói chung trong cả nước còn chưa có định nghĩa chung,
vì thế việc lí giải ca dao Nam Bộ chỉ dừng ở mức độ tương đối, theo Bùi Mạnh Nhị
trong bài viết Tiếp cận Văn học dân gian ở địa phương từ đặc trưng văn học dân gian
đưa ra ý kiến “Những hiện tượng văn học dân gian nãy nở, lưu truyền ở một địa
phương nhất định do nhân dân địa phương đó sáng tạo ra và phản ánh những đặc thù
của địa phương đó” [20; 118]. Trong ca dao Việt Nam, những câu ca xuất phát từ
vùng đất Nam Bộ, do những lưu dân thừa kế từ ca dao truyền thống rồi sáng tạo mang
nét riêng được gọi tên là ca dao Nam Bộ - xuất hiện tương đối muộn. Một vùng đất
mới khẩn hoang được miêu tả
Muỗi kêu như sáo thổi
Đỉa lội tợ bánh canh
Cỏ mọc thành tinh
Rắn đồng biết gáy [III; 28]
Từ bàn tay con người cần cù, chịu khó cải tạo thành vùng đất trù phú. Ngoài ra
còn nhờ phù sa bồi đắp cho đất đai càng ngày càng màu mỡ, trồng gì tốt đó. Biết được
ưu thế của địa phương nên nhân dân rất tự hào được trời ban cho địa hình sông ngòi
dày đặc, chính vì thế mà ca dao ở xứ này luôn chứa đựng hình ảnh sông nước, coi nó
như người bạn thân thuộc
Nhà Bè nước chảy trong ngần
Buồm nâu, buồm trắng chạy gần, chạy xa
Thon thon hai mái chèo hoa
Lướt qua lướt lại như là gấm thiêu [I; 145]
19
Nét khác biệt với vùng khác, vùng chiêm trũng tạo dáng vẻ riêng trong câu hát,
gắn liền với nét đặc thù tôm cá, lúa gạo, cây lành trái ngọt quanh năm
Một vùng Đồng Tháp phì nhiêu
Dồi dào lúa gạo, lại nhiều cá tôm [III; 28]
Sản vật phong phú, người sống ở đây không lo cạn kiệt vì nó quá dồi dào mà
dân lại thưa thớt.
Điểm khác thứ hai phải nói về ngôn ngữ. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị như chính
con người bộc trực, thẳng tính
Anh về em chẳng cho về
Phải bỏ chữ thương, chữ nhớ giữa đàng cho em [I; 173]
Lời nói đã thổ lộ tâm trạng, người nghe không cần suy nghĩ hay cảm thấy khó
hiểu. Câu nói của người con gái với người thương, mạnh dạn và thẳng thắn. Ngôn ngữ
trong ca dao Nam Bộ đã biểu hiện tính cách con người vừa chan chứa tình nghĩa vừa
thể hiện giọng điệu, cách nói năng, từ ngữ … của địa phương mình.
Song ca dao Nam Bộ thống nhất ca dao cổ truyền về nguồn cội xuất phát từ
truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam, mang đặc điểm chung của ca dao cả nước.
Những người đi khai phá vùng đất hoang sơ đã có sẵn những bài ca dao làm chất liệu
sáng tạo ra nhiều câu hát nơi mới đến. Ca dao Nam Bộ có các chủ đề về tình yêu quê
hương – đất nước, về tình cảm gia đình, về tình yêu đôi lứa, và về các mối quan hệ
khác. Trong đó chủ đề tình yêu đôi lứa luôn được quan tâm, cái tình của đôi trai gái
Nam Bộ được tả lại hết sức chân thực, đủ cung bậc: có buổi đầu e thẹn mới quen nhau,
bày tỏ nỗi lòng thầm kín
Anh thương em ruột thắt gan bào,
Biết em có thương lại chút nào hay không?[I; 169]
Có khi là lời cô gái trao trước cho người thương, sự mạnh bạo của phụ nữ trong
tình yêu, tìm kiếm hạnh phúc
Anh thương em, nói thiệt em nhờ
Anh đừng nói gạt, em chờ hết duyên [I; 169]
Cảm giác nhớ nhung khi xa cách hay tình yêu từ một phía mà chưa xác định
được tình cảm của đối phương. Tâm trạng thấp thỏm mong chờ một người như
Nguyễn Bính đã từng so sánh
20
- Xem thêm -