Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Công tác xã hội trong phát triển nông thôn ở việt nam hiện nay...

Tài liệu Công tác xã hội trong phát triển nông thôn ở việt nam hiện nay

.PDF
86
401
143

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ HỒNG HẠNH CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : Công tác xã hội Mã số : 60 90 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS PHẠM HỮU NGHỊ HÀ NỘI - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội về “Công tác xã hội trong phát triển nông thôn ở Việt Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Phạm Hữu Nghị. Những kết quả trong luận văn này chưa được ai công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước Học viện Khoa học xã hội về sự cam đoan này. Hà Nội, ngày tháng năm 2016 Tác giả Lê Thị Hồng Hạnh MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN .................................................................................. 12 1.1. Các khái niệm chủ yếu được sử dụng trong đề tài ........................................... 12 1.2. Nhu cầu, quan điểm về công tác xã hội trong phát triển nông thôn ................ 17 1.3. Nguyên tắc, nội dung, kỹ năng, kỹ thuật và tiến trình của công tác xã hội trong phát triển nông thôn ................................................................................................. 21 1.4. Thể chế về công tác xã hội trong phát triển nông thôn ..................................... 31 1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội trong phát triển nông thôn ............ 35 Chương 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................................. 39 2.1. Thực trạng công tác xã hội trong việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2015 ở Việt Nam ............................ 39 2.2 Thực trạng vận dụng công tác xã hội trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2015 tại tỉnh An Giang ............................... 47 2.3. Những khó khăn, thách thức trong việc thực hiện công tác xã hội trong phát triển nông thôn hiện nay ........................................................................................... 58 Chương 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ...................... 61 3.1. Định hướng thực hiện công tác xã hội trong phát triển nông thôn ................... 61 3.2. Các giải pháp thực hiện công tác xã hội trong phát triển nông thôn ................ 63 KẾT LUẬN ............................................................................................................. 71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 74 PHỤ LỤC ................................................................................................................. 81 DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG SỐ LIỆU VÀ HÌNH ẢNH Sơ đồ 1.1 Tiến trình thực hiện công tác xã hội trong phát triển nông thôn Hình 2.1 Bản đồ hành chính tỉnh An Giang MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là một quốc gia có nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Tính đến năm 2011, Việt Nam có khoảng gần 70% dân số là nông dân (chiếm 69,4% dân số) với xấp xỉ 32 triệu người trong độ tuổi lao động (chiếm 71,5% lực lượng lao động xã hội) [24, tr.29]. Mặc dù trong những năm gần đây tỷ lệ dân số là nông dân ở Việt Nam có giảm nhưng vẫn chiếm chủ yếu trong cơ cấu dân số. Theo thống kê đến ngày 01/4/2014, nông thôn Việt Nam có tỷ lệ dân số chiếm 66,92% dân số của cả nước [25]. Vì vậy, phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn ở Việt Nam có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước nói chung và việc cải thiện điều kiện sống về kinh tế, xã hội cho những cư dân vùng nông thôn nói riêng. Nhận biết được tầm quan trọng đó, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn nhằm “cởi trói và thúc đẩy” sự phát triển kinh tế, xã hội nông thôn. Chính sách “tam nông” được cụ thể hóa trong Nghị quyết 26NQ/TƯ của Ban chấp hành Trung ương Đảng, ban hành ngày 05/8/2008 là nền tảng quan trọng để phát triển nông nghiệp, nông thôn. Sau những đổi mới mạnh mẽ, hiện nay “xã nông thôn mới” của Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn về mặt kinh tế cũng như cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, phát triển nông thôn ở Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn và thách thức, chẳng hạn như tình trạng cơ sở hạ tầng thấp kém; nghèo đói; không đầy đủ các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục; nhiều nông hộ vẫn còn chưa có nước sạch sinh hoạt, nhà tắm và nhà xí hợp vệ sinh; môi trường bị ô nhiễm; đạo đức bị băng hoại và xuất hiện nhiều tệ nạn xã hội…[5], [43]. Những khó khăn, thách thức trên đã tác động đến hiệu quả của nhiều chính sách phát triển nông thôn, cản trở việc thực hiện quyền con người và kìm hãm vị thế kinh tế, xã hội của cư dân vùng nông thôn, làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội, thậm chí là cả xung đột xã hội. Ngày nay, với sự ra đời và phát triển của nghề công tác xã hội, những khó khăn, thách thức trong quá trình phát triển nông thôn ở Việt Nam đã trở thành vấn đề và đối tượng của công tác xã hội. Đánh giá một cách cụ thể thì công tác xã hội có vai trò quan trọng trong quá trình đô thị hóa ở nông thôn, nhằm phối 1 hợp với các chuyên gia phát triển kinh tế và các nhà làm công tác qui hoạch nông thôn để đáp ứng nhu cầu về nhà ở, việc làm cho người nghèo, người yếu thế và giải quyết các vấn đề xã hội trong nền kinh tế hiện đại [43]. Tuy nhiên, về mặt khoa học, công tác xã hội trong phát triển nông thôn vẫn còn là một lĩnh vực khoa học khá mới mẻ, hệ thống cơ sở lý luận vẫn chưa được định hình cụ thể mà mới chỉ được thể hiện trong một số bài giảng của các trường đại học có đào tạo ngành phát triển nông thôn. Còn trong thực tiễn, công tác xã hội cũng chưa được quan tâm nghiên cứu và vận dụng hiệu quả. Vậy bản chất của vấn đề là ở đâu? Cần có những cơ sở gì để công tác xã hội trong phát triển nông thôn phát huy được vai trò của mình? Và hiện nay, công tác xã hội có được vận dụng trong quá trình phát triển nông thôn hay không? Đây cũng là vấn đề cần thiết mà thực tiễn đào tạo và thực hành công tác xã hội trong phát triển nông thôn ở Việt Nam đang đặt ra. Từ những trình bày trên, có thể kết luận rằng, thực tiễn đào tạo và thực hành công tác xã hội trong phát triển nông thôn ở Việt Nam đang đặt ra yêu cầu về nghiên cứu một cách cụ thể, có hệ thống vấn đề công tác xã hội trong phát triển nông thôn trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tế nhằm hỗ trợ cho công tác đào tạo nhân viên công tác xã hội, phối hợp với chuyên gia phát triển nông thôn thúc đẩy giải quyết các vấn đề xã hội tại các vùng nông thôn. Vì vậy, đề tài “Công tác xã hội trong phát triển nông thôn ở Việt Nam hiện nay” có ý nghĩa quan trọng về lý luận và thực tiễn, nhất là trong giai đoạn thực hiện các chính sách phát triển nông thôn mới, bền vững với tôn chỉ “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” và hội nhập quốc tế của Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài 2.1 Tình hình nghiên cứu ngoài nước Hướng nghiên cứu về nông nghiệp, nông dân và phát triển nông thôn: Các nhà nghiên cứu thực tiễn trên thế giới đã đúc kết rằng việc phát triển và tăng trưởng khu vực nông thôn sẽ giúp xóa đói giảm nghèo không chỉ ở khu vực nông thôn, mà còn ở cả khu vực thành thị, trong khi đó tăng trưởng ở khu vực thành thị không đủ đảm bảo cho việc xóa đói giảm nghèo ở khu vực nông thôn [60]. Chính vì vậy, các nghiên cứu về phát triển nông nghiệp, nông thôn 2 trên thế giới đã được quan tâm từ rất sớm, đặc biệt là ở các quốc gia phát triển. Bằng chứng cho thấy, ngày nay Mỹ, Nhật và các quốc gia Châu Âu có nền nông nghiệp và nông thôn phát triển gấp nhiều lần các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Hiện nay, vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân ở các quốc gia đang phát triển cũng ngày càng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Tác giả Frans Elltis khi nghiên cứu về “Chính sách nông nghiệp trong các nước đang phát triển” đã nêu lên mô hình thành công, thất bại trong việc phát triển nông nghiệp, nông thôn và giải quyết vấn đề nông dân [63]. Cũng đề cập đến mô hình phát triển nông thôn, đặc biệt là phát triển nông thôn mới ở các quốc gia xã hội chủ nghĩa, dịch giả Cù Ngọc Hưởng đã giới thiệu khái niệm, bối cảnh, nội hàm, ý nghĩa, mục tiêu, tiêu chuẩn đánh giá quá trình xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa, lý thuyết, nguyên tắc, phương pháp và sự đảm bảo thực hiện kế hoạch xây dựng nông thôn mới [23]. Đây là những nghiên cứu có giá trị tham khảo rất cao cho Việt Nam trong việc giải quyết những vấn đề của chính sách phát triển nông thôn cũng như kinh nghiệm trong quá trình thực hiện xây dựng nông thôn mới Hướng tiếp cận về công tác xã hội trong phát triển nông thôn: Song hành cùng với các giải pháp phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, nhiều quốc gia trên thế giới cũng chú ý tới phương pháp tiếp cận và thực hiện xây dựng nông thôn cũng như cách thức giải quyết các vấn đề xã hội ở khu vực nông thôn. Mặc dù chưa chính thức nhưng công tác xã hội trong phát triển nông thôn đã được thực hiện như một hướng tiếp cận trong việc phát triển toàn diện vùng nông thôn. Điều này được minh chứng qua sự ra đời của hoạt động công tác xã hội nông thôn vào năm 1908 tại Mỹ [30]. Và kinh nghiệm phát triển cộng đồng của công tác xã hội được bắt đầu lan rộng ở hầu hết các thuộc địa của Anh tại châu Âu và Châu Phi từ những năm 1940. Năm 1950, Liên hợp quốc đã công nhận khái niệm phát triển cộng đồng và khuyến khích các quốc gia sử dụng phát triển cộng đồng như một công cụ thực hiện các chương trình phát triển quốc gia, trong đó phát triển cộng đồng chủ yếu là phát triển nông thôn và các cộng đồng nông thôn (dân cư nông thôn chiếm 80 - 90% 3 ở các nước). Cho đến nay, các nghiên cứu về thực hành công tác xã hội trong phát triển nông thôn đã được thực hiện khá phong phú, điển hình là nghiên cứu của Kyamak Kabadaki về “Exploration of Social Work Practice, Models for Rural Development in Uganda”. Trong nghiên cứu của mình, tác giả đã đánh giá sự đóng góp của công tác xã hội trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân nông thôn ở Uganda cũng như xem xét các mô hình thực hành công tác xã hội nhằm giải quyết vấn đề, nhu cầu và tạo điều kiện để phát triển nông thôn [65]. Từ yêu cầu thực tiễn, vào thập kỷ 60, môn tổ chức cộng đồng - một phương pháp của công tác xã hội được giảng dạy ở đại học [54, tr.10 - 11]. Hiện nay, công tác xã hội trong phát triển nông thôn trên thế giới đã được xem là một ngành khoa học. Các giáo trình đào tạo cử nhân và thạc sĩ ngành công tác xã hội trong phát triển nông thôn đã được chú trọng tại các trường: The Tata Institute of Social Sciences (TISS), Ấn Độ; Thames International College, Nepal… nhưng trong chương trình đào tạo của các trường này, công tác xã hội trong phát triển nông thôn không có một giáo trình riêng mà bao gồm nhiều học phần chuyên sâu khác nhau. Những vấn đề được các tác giả đề cập nhiều nhất trong công tác xã hội phát triển nông thôn là: lịch sự hình thành, khái niệm, vai trò của nhân viên công tác xã hội nông thôn, vị trí và vai trò của công tác xã hội đối với cộng đồng nông thôn, các kỹ năng thực hành, mục tiêu của công tác xã hội trong phát triển nông thôn, các dịch vụ xã hội nông thôn, công tác xã hội cộng đồng ở khu vực nông thôn, mô hình thực hành công tác xã hội…[65], [69], [64], [68]. Đây là những thành tựu và kinh nghiệm cần được nghiên cứu để tham khảo, học hỏi trong đào tạo nhân viên công tác xã hội cũng như thực hành công tác xã hội trong phát triển nông thôn ở Việt Nam. 2.2 Tình hình nghiên cứu trong nước Hướng nghiên cứu lý luận và thực tiễn về phát triển nông thôn: Phát triển nông thôn là một ngành khoa học. Chính vì vậy nghiên cứu về lý luận và thực hành về phát triển nông thôn ở Việt Nam được thực hiện khá nhiều. Về mặt lý luận các tác giả thường đề cập đến: khái niệm nông thôn; phát triển bền vững; phát triển nông thôn; ý nghĩa và tầm quan trọng của phát triển 4 nông thôn; các chỉ số đo lường; phát triển kinh tế nông thôn; phát triển cơ sở hạ tầng, dịch vụ xã hội và môi trường nông thôn; vai trò của các tổ chức và Nhà nước trong phát triển nông thôn, phương pháp nghiên cứu phát triển nông thôn; quy hoạch nông thôn và đặc biệt là những khó khăn mà nông dân gặp phải; các mô hình phát triển nông thôn… [5], [37], [59], [48], [33]. Điểm nổi bật nhất trong lý luận về phát triển nông thôn là phương pháp tiếp cận toàn diện trong phát triển nông thôn và phương pháp tiếp cận phát triển nông thôn có sự tham gia của cộng đồng hướng đến sự phát triển bền vững. Điều này cho thấy, phương pháp tiếp cận của phát triển nông thôn có mối quan hệ chặt chẽ với tôn chỉ thực hành của phát triển cộng đồng, một phương pháp của ngành công tác xã hội. Về mặt thực tiễn, các tác giả thường đi sâu tìm hiểu các hoạt động phát triển kinh tế nông thôn như xúc tiến thương mại, thu hút đầu tư và phát triển sản phẩm nông nghiệp nông thôn [53]; những kết quả bước đầu trong nghiên cứu về làng nghề truyền thống [62]; các vấn đề trong phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, thủ công nghiệp, cơ sở hạ tầng nông thôn, môi trường, khí hậu và những khó khăn, thách thức trong phát triển nông thôn [67], [1]; đặc biệt là những hạn chế của các chính sách đến sự phát triển nông nghiệp, nông thôn như chính sách đất đai [31]; các vấn đề liên quan đến đất, chợ và nghèo đói [70]; thực trạng nông thôn nước ta ở khía cạnh; vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông thôn, sự phát triển của các ngành, các lĩnh vực, những thành tựu, khó khăn, thách thức cũng như thực trạng nông nghiệp nông thôn của nước ta qua các thời kỳ [3], [47], [49], [9]. Riêng những nghiên cứu về xây dựng nông thôn mới, một chương trình phát triển nông thôn toàn diện nhất trong giai đoạn từ 2010 đến 2020 được triển khai, thực hiện khá phổ biến do tính hiện thời và thực tiễn. Những vấn đề mấu chốt trong thực hiện phát triển nông thôn mới đã được tìm hiểu như thực trạng triển khai các tiêu chí xây dựng nông thôn mới ở từng địa bàn cụ thể (kết quả và hạn chế về kinh tế, xã hội, văn hóa, đời sống, cơ sở hạ tầng…) [61], [21], [46]. Những nghiên cứu trên đã làm tiền đề cho việc đưa ra các giải pháp hữu ích nhằm giải quyết các vấn đề ở nông thôn và các mô hình phát triển nông thôn mới ở Việt Nam [50], [56]. Tuy nhiên, các nghiên 5 cứu thực tiễn về phát triển nông thôn lại chưa đề cập hoạt động của công tác xã hội trong lĩnh vực này. Hướng nghiên cứu lý luận và thực tiễn về công tác xã hội trong phát triển nông thôn: Tính đến thời điểm hiện nay, vấn đề liên quan đến công tác xã hội, dịch vụ công tác xã hội, quản lý công tác xã hội và các phương pháp trong công tác xã hội đã được quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu riêng biệt về công tác xã hội trong phát triển nông thôn còn rất ít ỏi. Xét trên khía cạnh thực tiễn thì phong trào xây dựng nông thôn lấy cộng đồng làm trọng tâm đã được thực hiện từ thập kỷ 60 và 70 khi phát triển cộng đồng được mở rộng ở các nước. Hiện nay, Việt Nam cũng có một số công trình nghiên cứu đề cập sự tham gia của người dân trong phát triển nông thôn, hiệu quả sử dụng các công cụ, kỹ thuật của phát triển cộng đồng vào phát triển nông thôn. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu nào về công tác xã hội hay phát triển cộng đồng trong phát triển nông thôn. Xét trên khía cạnh đào tạo thì phát triển cộng đồng - một phương pháp của công tác xã hội được giới thiệu tại Việt Nam vào giữa thập kỷ 50 thông qua trường tiểu học cộng đồng ở Bún, Lái Thiêu, sau đó mở rộng đào tạo ở một số trường cao đẳng và sư phạm. Giáo trình giảng dạy môn học này chủ yếu là du nhập từ các quốc gia phát triển hơn. Trong những năm gần đây, giáo trình về phát triển cộng đồng đã được quan tâm xây dựng dựa trên bối cảnh phát triển ở Việt Nam như của các tác giả Tô Duy Hợp [18]; Nguyễn Hữu Nhân [38]; Nguyễn Thị Oanh [42]…. Đặc biệt là tác giả Trương Văn Tuyển đã biên soạn giáo trình “Phát triển cộng đồng, lý luận và ứng dụng trong phát triển nông thôn”. Trong công trình này, tác giả đã đề cập đến nhu cầu, lịch sử và diễn tiến của phát triển cộng đồng, khái niệm, mục tiêu và nguyên lý, tiến trình phát triển cộng đồng cũng như nhu cầu, mục tiêu, khái niệm, các nguyên lý phát triển nông thôn, nghèo đói và các kỹ năng làm việc với cộng đồng nông thôn. Điểm nổi bật trong giáo trình này là làm rõ được vai trò và mối liên hệ chặt chẽ giữa phát triển cộng đồng và phát triển nông thôn [54]. Trong đó, phát triển cộng đồng cũng là một trong ba phương pháp chính của phát triển nông thôn. Trong một nghiên cứu khác của tác giả Trần Thị Thu 6 Hương, phương pháp phát triển cộng đồng trong công tác xã hội cũng được nhấn mạnh trong quá trình phát triển nông thôn, tức là tiếp cận phát triển nông thôn theo hướng từ dưới lên [22]. Tuy nhiên các tài liệu trên còn chưa đề cập đến nguyên tắc, tiến trình thực hiện phát triển cộng đồng trong phát triển nông thôn. Dù vậy, tài liệu này vẫn được coi là tiền đề cơ bản về lý luận cho lĩnh vực công tác xã hội trong phát triển nông thôn hiện nay. Khoảng những năm 2012, học phần công tác xã hội trong phát triển nông thôn được chính thức đề cập trong đào tạo cử nhân ngành phát triển nông thôn của một số trường đại học như trường Đại học Nông Lâm Huế, Đại học An Giang, Đại học Nông nghiệp Hà Nội. Song trên thực tế, phần lớn các giáo trình, bài giảng trên chỉ tập trung vào lịch sử hình thành, vai trò và tiến trình thực hiện công tác xã hội trong phát triển nông thôn cũng như các vấn đề xã hội, môi trường cần quan tâm, giải quyết trong quá trình hoạch định, thực hiện các chính sách, chương trình phát triển nông thôn mới. Như vậy, xét trên cả góc độ lý luận và thực tiễn, công tác xã hội trong phát triển nông thôn mới chỉ được thể hiện riêng rẽ trong các bài giảng của một số trường đại học. Nói một cách cụ thể, chưa có một giáo trình toàn diện, chuyên sâu nào về vấn đề công tác xã hội trong phát triển nông thôn. Còn xét trên khía cạnh thực tiễn, công tác xã hội trong phát triển nông thôn cũng ít được tìm hiểu và nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về công tác xã hội trong phát triển nông thôn và thực trạng công tác xã hội trong phát triển nông thôn, cụ thể là thực trạng công tác xã hội trong chương trình xây dựng nông thôn mới. Qua đó, đề xuất những định hướng và giải pháp thực hiện hiệu quả công tác xã hội trong phát triển nông thôn ở Việt Nam hiện nay. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu tập trung thực hiện 3 nhiệm vụ chính sau: Nhiệm vụ thứ nhất là hệ thống hóa cơ sở lý luận chung về công tác xã hội trong phát triển nông thôn. Đặc biệt là làm rõ các khái niệm, nhu cầu, quan 7 điểm, nguyên tắc, kỹ năng, tiến trình và các yếu tố ảnh hưởng cũng như quan điểm, pháp luật về công tác xã hội trong phát triển nông thôn, trong đó nhấn mạnh đến phương pháp phát triển cộng đồng trong công tác xã hội. Nhiệm vụ thứ hai là đánh giá thực trạng công tác xã hội trong chương trình xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam, một chương trình phát triển nông thôn toàn diện nhất cho đến nay. Với nhiệm vụ này, nghiên cứu tập trung tiến hành phân tích hoạt động công tác xã hội trong xây dựng nông thôn mới tại Việt Nam, đồng thời làm rõ việc vận dụng hay chưa vận dụng tiến trình thực hiện công tác xã hội trong phát triển nông thôn tại tỉnh An Giang, trong đó chú trọng đến tiến trình huy động nguồn lực và công tác giảm nghèo bền vững trong xây dựng nông thôn mới. Nhiệm vụ thứ ba là đề xuất hệ thống định hướng và các giải pháp thực hiện công tác xã hội trong phát triển nông thôn ở Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động công tác xã hội trong phát triển nông thôn, cụ thể là trong chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay. 4.2 Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi về nội dung nghiên cứu: - Về mặt lý luận: Khái niệm, nhu cầu, nguyên tắc, phương pháp, nội dung, tiến trình công tác xã hội trong phát triển nông thôn cũng như pháp luật và các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội trong phát triển nông thôn. - Về mặt thực tiễn: Phát triển nông thôn mang tính toàn diện và liên quan đến nhiều lĩnh vực như công nghiệp nông thôn, cơ sở hạ tầng, nông nghiệp, công nghệ, kinh tế - xã hội, thể chế và môi trường. Trong giai đoạn hiện nay, phát triển nông thôn ở Việt Nam được cụ thể hóa trong chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020, một chương trình phát triển tổng hợp vùng nông thôn một cách toàn diện nhất. Nói cách khác, thực tiễn phát triển nông thôn ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay chính là việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Do đó, về mặt thực tiễn luận văn chỉ tập trung phân tích thực trạng hoạt động công 8 tác xã hội trong chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2015 ở Việt Nam nói chung và tại tỉnh An Giang nói riêng. Phạm vi về thời gian nghiên cứu: Thực tiễn về công tác xã hội trong phát triển nông thôn được nghiên cứu chủ yếu trong giai đoạn 2010- 2015. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Phương pháp luận chung để nghiên cứu nội dung của đề tài là quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về phát triển nông nghiệp, nông thôn; lý thuyết về công tác xã hội nói chung và lý thuyết về công tác xã hội trong phát triển nông thôn mới nói riêng. Đề tài vận dụng các quan điểm tiếp cận cụ thể sau: Tiếp cận hệ thống - cấu trúc: Việc vận dụng thuyết trên nhằm giúp nghiên cứu có cơ sở, hiểu sâu hơn về nguyên tắc, nhu cầu, vai trò cũng như mối liên hệ giữa hai ngành khoa học: công tác xã hội và phát triển nông thôn. Theo khái niệm của công tác xã hội và phát triển nông thôn thì không phải chỉ ưu tiên chú trọng vào một khía cạnh, lĩnh vực nhất định mà là sự tiếp cận hệ thống. Tính hệ thống đó nhấn mạnh đến tất cả các khía cạnh: kinh tế, văn hóa, xã hội, con người và môi trường. Trong đó chú trọng cả các tổ chức, cơ quan “từ trên xuống” và “từ dưới lên” theo tinh thần hợp tác. Tiếp cận nguồn lực: Các tiếp cận này được vận dụng để xem xét đến việc phát huy nguồn lực và sự tham gia của cư dân nông thôn trong quá trình xây dựng nông thôn mới. Theo đó, cư dân nông thôn sẽ là người tự tổ chức và điều hành quá trình phát triển của cộng đồng nông thôn dựa vào nguồn lực vốn có (có năng lực và tự lực). Điều này sẽ giúp cho cư dân nông thôn trở thành những chủ thể thực sự của quá trình phát triển. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu này chủ yếu sử dụng các phương pháp sau đây để tìm hiểu vấn đề nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu, phân tích văn bản tài liệu: Các văn bản tài liệu được thu thập từ các nguồn thích hợp và đáng tin cậy như Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông 9 thôn; Ban chỉ đạo chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới; Tổng cục thống kê; Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang, các ban ngành có liên quan và ủy ban nhân dân các xã. Bên cạnh đó, để phục vụ cho mục đích nghiên cứu của luận văn, đề tài cũng khai thác các tài liệu sẵn có từ các công trình nghiên cứu, các giáo trình và sách chuyên khảo của các tác giả trong và ngoài nước, từ các báo cáo của cơ quan chính phủ về các vấn đề có liên quan đến phát triển nông thôn mới và công tác xã hội trong phát triển nông thôn. Các nguồn tài liệu này được xử lý, tổng hợp, phân tích, hệ thống hóa, khái quát hóa để có cái nhìn tổng quan về lý luận và thực tiễn vận dụng công tác xã hội trong phát triển nông thôn ở nước ta trong giai đoạn xây dựng nông thôn mới 2010 - 2015. Từ đó đưa ra những định hướng và giải pháp thúc đẩy việc vận dụng công tác xã hội trong phát triển nông thôn giai đoạn 2016 - 2020. Phương pháp phỏng vấn sâu và phương pháp chuyên gia. Với phương pháp phỏng vấn sâu, nghiên cứu tiến hành phỏng vấn có chủ đích 15 cán bộ thuộc ban quản lý xây dựng nông thôn mới ở 15 xã tại tỉnh An Giang (chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản từ danh sách các xã thực hiện chương trình nông thôn mới) để tìm hiểu về tiến trình thực hiện các nội dung trong chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và việc vận dụng phương pháp công tác xã hội cộng đồng trong thực hiện các nội dung trên (chi tiết tại phụ lục). Các xã được chọn ngẫu nhiên bao gồm: xã An Phú - huyện Tịnh Biên; xã Thới Sơn - huyện Tịnh Biên; xã Vọng Đông - huyện Thoại Sơn; xã Vọng Thê - huyện Thoại Sơn; Phường Mỹ Bình - TP. Long Xuyên; phường Bình Khánh - TP. Long Xuyên; phường Phú Thọ - thị xã Phú Tân; phường Tân Trung - thị xã Phú Tân; thị trấn Cái Dầu - huyện Châu Phú; xã Bình Thủy huyện Châu Phú; xã Kiến Thành - huyện Chợ Mới; xã Long Kiến - huyện Chợ Mới; xã Vĩnh Ngươm - huyện Châu Đốc; xã Cô Tô - huyện Tri Tôn; xã Cần Đăng - huyện Châu Thành. Còn riêng đối với phương pháp chuyên gia, học viên sử dụng phương pháp này để thu thập các ý kiến từ các nhà chuyên môn trong lĩnh vực phát triển nông thôn, phát triển cộng đồng, công tác xã hội và hoạt động công tác xã hội thực tiễn để làm rõ thêm thực tiễn về công tác xã hội trong phát triển nông thôn ở Việt Nam và ở tỉnh An Giang. 10 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Đóng góp về mặt khoa học Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu tham khảo hữu ích đối với các cơ sở đào tạo, nghiên cứu, thực hành về công tác xã hội, đặc biệt là công tác xã hội trong phát triển nông thôn. 6.2. Đóng góp về mặt thực tiễn Kết quả nghiên cứu là bằng chứng khoa học cho các cơ quan hữu quan trong việc xây dựng chính sách, giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả công tác xã hội trong phát triển nông thôn mới hiện nay (giai đoạn 2016 - 2020). 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài có 3 chương. Chương 1 trình bày một cách ngắn gọn những vấn đề lý luận về công tác xã hội trong phát triển nông thôn. Trên cơ sở đó, chương 2 tập trung phân tích, đánh giá thực trạng công tác xã hội trong chương trình phát triển nông thôn mới ở Việt Nam nói chung và tỉnh An Giang nói riêng. Chương 3 đưa ra các định hướng và giải pháp nhằm thực hiện công tác xã hội trong phát triển nông thôn ở Việt Nam. 11 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN 1.1. Các khái niệm chủ yếu được sử dụng trong đề tài 1.1.1 Khái niệm nông thôn Nông thôn là một thuật ngữ được sử dụng để phân vùng lãnh thổ của các quốc gia. Hiện nay, trên thế giới thuật ngữ nông thôn được định nghĩa theo nhiều quan điểm và tiêu chí khác nhau. Có nhiều cách hiểu về nông thôn được xây dựng dựa trên chỉ tiêu dân số, mật độ dân cư, vùng chủ yếu làm nông nghiệp và thiết chế xã hội. Tuy nhiên cũng có cách hiểu về nông thôn được xây dựng dựa trên chỉ tiêu kết cấu cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất hàng hóa hoặc những quan điểm kết hợp tất cả các tiêu chí trên. Đại diện cho tiêu chí về dân số, mật độ dân cư và nghề nghiệp là quan điểm quản lý của chính phủ Việt Nam. Vào khoảng những năm 1990, khu vực nông thôn được hiểu là địa bàn dân cư có số lượng dân tập trung dưới 4.000 người, mật độ dân cư ít hơn 6.000 người/km2 và tỉ lệ lao động phi nông nghiệp dưới 60%, tức là tỉ lệ lao động nông nghiệp đạt từ 40% trở lên [42]. Khi bàn luận về chương trình xây dựng nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định “vùng/khu vực nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn, được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã” (Điều 1- Thông tư số 54/TT - Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn ngày 21/8/2009) [49]. Cách hiểu trên đúng với thực tế của Việt Nam nhưng mới chú trọng đến vấn đề quản lý và ranh giới giữa đô thị và nông thôn. Đại diện cho chỉ tiêu kết cấu cơ sở hạ tầng hay phát triển sản xuất hàng hóa là quan điểm của các tác giả Mai Thanh Cúc, Trương Văn Tuyển. Theo các tác giả thì nông thôn Việt Nam được hiểu là “vùng sinh sống của tập hợp cư dân, trong đó có nhiều nông dân. Tập hợp cư dân này tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa xã hội và môi trường trong một thể chế chính trị nhất định và chịu ảnh hưởng của các tổ chức khác” [5], [54]. Với cách hiểu này, nông thôn không chỉ được biết đến thông qua ranh giới khu vực mà còn được biết đến thông qua sự tham gia của con người trong các lĩnh vực tạo ra của cải 12 vật chất và tinh thần tại nơi cư trú. Tuy nhiên, các quan điểm trên vẫn chưa thể hiện được trình độ phát triển và mức độ tiếp cận với các dịch vụ xã hội của cư dân nông thôn. Đại diện cho sự kết hợp của nhiều tiêu chí là quan điểm của tác giả Vũ Thị Bình (2006); Hoàng Văn Định và Vũ Đình Thắng (2002), Đỗ Kim Chung (2009). Theo đó nông thôn là vùng khác với đô thị bởi ở đó có cộng đồng chủ yếu là nông dân sinh sống và làm nông nghiệp, có mật độ dân cư thấp hơn; có kết cấu hạ tầng kém phát triển hơn; có mức độ phúc lợi xã hội thua kém hơn; có trình độ dân trí, trình độ tiếp cận thị trường và sản xuất hàng hóa thấp hơn. Nói một cách khác thì nông thôn bao gồm cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường, văn hóa, tài nguyên thiên nhiên, tổ chức và thể chế, công nghệ và hạ tầng cơ sở [2], [8], [7]. Cách tiếp cận này tương đối toàn diện, bởi lẽ các quan điểm xem xét nông thôn với nhiều tiêu chí quan trọng, đặc biệt là bao hàm được nhiều vấn đề của đời sống xã hội ở khu vực nông thôn hiện nay. Tóm lại, nông thôn là thuật ngữ cần được hiểu một cách bao quát với mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội kể cả đặc điểm dân cư, mật độ, hạ tầng, môi trường - tài nguyên thiên nhiên, tính cố kết cộng đồng, phong tục tập quán, tín ngưỡng truyền thống và những đặc trưng riêng biệt của nó. Trên cơ sở quan niệm về nông thôn của các tác giả trước đó, nghiên cứu sử dụng khái niệm nông thôn sau: Nông thôn là khu vực sinh sống trong đơn vị làng xã của chủ yếu cư dân làm nông nghiệp, nơi đây có tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng có sự cách biệt về phát triển đối với khu vực thành thị (có cơ sở hạ tầng kém phát triển, các dịch vụ xã hội hạn chế, trình độ dân trí và khả năng tiếp cận thị trường, sản xuất hàng hóa thấp). Tập hợp cư dân này cùng chia sẻ và chịu ràng buộc bởi những đặc điểm và lợi ích chung như phong tục tập quán, văn hóa, tín ngưỡng, tài nguyên thiên nhiên và môi trường sống. Hiện nay, nông thôn được xây dựng theo một mô hình mới, gọi tắt là nông thôn mới. Nông thôn mới là nông thôn có hạ tầng kinh tế - xã hội văn minh hiện đại, sản xuất phát triển bền vững theo hướng kinh tế hàng hóa, dân trí, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao, an ninh được đảm bảo nhưng vẫn giữ được nét đẹp truyền thống của nông thôn Việt Nam 13 (giá trị văn hóa, môi trường sinh thái) (Nghị quyết số 26 - NQ/TW ngày 5/8/2008 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X). 1.1.2 Khái niệm phát triển Phát triển bao hàm nhiều vấn đề rộng lớn và phức tạp. Điều này có nghĩa là phát triển được hiểu với nhiều ngữ nghĩa khác nhau tùy vào từng lĩnh vực cụ thể như phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, phát triển xã hội, phát triển chính trị hay phát triển nông thôn, phát triển thị trường, phát triển đô thị, phát triển giáo dục, phát triển cộng đồng, phát triển hội nhập, phát triển phụ nữ…. Tuy nhiên, nếu chỉ xem xét phát triển ở một góc độ hay một lĩnh vực thì phát triển đó chỉ là điều kiện cần mà chưa phải là điều kiện đủ cho sự phát triển toàn diện của một xã hội nói chung hay một con người nói riêng. Xét về mặt lịch sử, quan niệm về phát triển được thay đổi theo thời gian. Theo tác giả Bùi Đình Thanh, thuật ngữ phát triển ra đời ở Mỹ với nghĩa là Văn Minh. Đến những năm 30, thuật ngữ phát triển được gắn với kinh tế, và đến những năm 70, phát triển được mở rộng thêm nhiều lĩnh vực khác như phát triển nội sinh, phát triển cộng đồng, phát triển hội nhập, phát triển về sinh thái, phát triển xã hội chủ nghĩa. Cho đến những năm 80, phát triển được hiểu là sự phát triển kinh tế gắn với sự phát triển con người [55]. Theo nghĩa tổng quát nhất, hiện nay thuật ngữ phát triển được hiểu là sự tăng trưởng, đặc biệt là sự tăng trưởng kinh tế cùng với sự biến chất xã hội theo chiều hướng tiến bộ xã hội, nghĩa là theo hướng đúng hơn, tốt hơn và đẹp hơn. Hay nói cách khác, phát triển có thể được hiểu là một quá trình thay đổi liên tục làm tăng trưởng mức sống của con người và phân phối công bằng những thành quả tăng trưởng trong xã hội [dẫn theo 2], [55], [32], [5], [38]. Còn theo nghĩa hẹp thì thuật ngữ phát triển được gắn với từng lĩnh vực cụ thể như phát triển nông nghiệp hoặc nông thôn, văn hóa, kinh tế…. Theo đó phát triển được hiểu là sự tăng trưởng về kinh tế hoặc là hiện đại hóa hay sự nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Dù với nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, thuật ngữ phát triển không chỉ quan tâm đến sự tăng trưởng kinh tế mà còn cần phải đảm bảo nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, tiến bộ xã hội và bền vững về môi trường. Nếu phát triển 14 chỉ chú trọng đến tăng trưởng kinh tế đơn thuần thì mới thể hiện được một phần, một yếu tố chưa đầy đủ của phát triển [5], [2]. Tóm lại, phát triển là tạo điều kiện thỏa mãn nhu cầu sống cho con người, bao gồm thỏa mãn về mức tiêu thụ hàng hóa, về dịch vụ xã hội, về chất lượng cuộc sống, về văn hóa tinh thần, về môi trường sống và các quyền cơ bản khác nhưng không làm tổn hại đến môi trường sinh thái. Phát triển mang tính thời gian và so sánh. 1.1.3. Khái niệm phát triển nông thôn Thuật ngữ phát triển nông thôn được đề cập với nhiều quan điểm khác nhau và thay đổi qua các thời kỳ. Ngân hàng thế giới đã đưa ra định nghĩa (1975) “Phát triển nông thôn là một chiến lược nhằm cải thiện các điều kiện sống về kinh tế và xã hội của một nhóm người cụ thể - người nghèo ở vùng nông thôn. Nó giúp những người nghèo nhất trong những người dân sống ở các vùng nông thôn được hưởng lợi ích từ sự phát triển” [dẫn theo 5]. Đây là quan điểm mà nhiều tổ chức quốc tế đang vận dụng ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, một số quan điểm khác lại cho rằng phát triển nông thôn không chỉ tập trung vào một nhóm người mà là phát triển tất cả các lĩnh vực cho dân cư vùng nông thôn. Theo đó, các tác giả này cho rằng, phát triển nông thôn là phát triển tổng hợp tất cả các vấn đề gắn với đời sống của người dân và môi trường, không gian sống ở khu vực nông thôn (giáo dục, y tế, nhà cửa, dịch vụ công cộng và cơ sở vật chất, năng lực lãnh đạo và quản lý, phát huy giá trị các di sản văn hóa cũng như các vấn đề về kinh tế ngành nói riêng). Đây là một quá trình đa chiều hướng tới hội nhập bền vững trong tất cả các lĩnh vực (kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường). Đồng thời phát triển nông thôn cũng là một quá trình cải thiện có chủ ý, ổn định và bền vững với những thay đổi kinh tế, xã hội, văn hóa, môi trường (hướng tới hiện đại và sự thịnh vượng lâu dài của cả cộng đồng) [20], [54], [5], [2, tr.10]. Hiện nay, phát triển nông thôn phải đảm bảo được sự phát triển bền vững. Điều này có nghĩa là quá trình phát triển kinh tế - xã hội nông thôn phải phù hợp với nhu cầu của con người, đảm bảo sự tồn tại bền vững và sự tiến bộ lâu 15 dài trong nông thôn và cho cả quốc gia. Trong đó nhấn mạnh đến hoạt động phát triển lấy người dân và cộng đồng làm trung tâm [6], [5], [54], [20], [7]. Như vậy, tuy khác nhau về cách định nghĩa, diễn đạt nhưng có thể nhận thấy một số đặc trưng căn bản về phát triển nông thôn như sau: Thứ nhất là phát triển nông thôn là những thay đổi cần thiết ở từng khu vực nông thôn và nó là một quá trình, chiến lược cải thiện; Thứ hai là phát triển nông thôn là sự phát triển tổng hợp của các vấn đề, các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn (tiếp cận toàn diện); Thứ ba là phát triển nông thôn phải có tính bền vững; Thứ năm là phát triển nông thôn phải dựa trên lợi ích và sự tham gia của người dân và cộng đồng nông thôn; sự hợp tác giữa người dân, chính phủ và các tổ chức khác; Thứ sáu là phát triển nông thôn phải hướng đến hội nhập. Từ những khái niệm và phân tích trên, có thể nhận thấy: phát triển nông thôn là quá trình tác động có chủ ý đến tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội ở khu vực nông thôn nhằm tạo điều kiện thỏa mãn nhu cầu và cải thiện vị thế của cư dân nông thôn thông qua việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực có sẵn tại địa phương, góp phần vào sự bền vững và hội nhập của cả khu vực nông thôn và của đất nước. Trong giai đoạn hiện nay, phát triển nông thôn được cụ thể hóa qua các chính sách, phong trào xây dựng nông thôn mới. 1.1.4. Công tác xã hội trong phát triển nông thôn Công tác xã hội là một một ngành khoa học, một nghề chuyên môn được công nhận khắp thế giới, trong đó có Việt Nam. Công tác xã hội theo đuổi mục tiêu vì hạnh phúc cho con người và tiến bộ xã hội. Công tác xã hội ở Việt Nam gắn liền với sự nghiệp đổi mới, sự phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế. Công tác xã hội có ba phương pháp thực hành chính, đó là công tác xã hội cá nhân, công tác xã hội nhóm và công tác xã hội cộng đồng. Với mỗi một phương pháp thực hành, một lĩnh vực thực hiện, công tác xã hội lại có những kỹ năng và kỹ thuật đặc trưng. Trong đó, công tác xã hội với cộng đồng nông thôn và phát triển nông thôn đều dựa trên nguyên lý lấy phát triển con người và 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan