Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Công tác xã hội nhóm về chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với người chưa thành niên...

Tài liệu Công tác xã hội nhóm về chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với người chưa thành niên từ thực tiễn xã hà châu, huyện phú bình, tỉnh thái nguyên

.PDF
88
2077
62

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ HƯỜNG CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM VỀ CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TỪ THỰC TIỄN XÃ HÀ CHÂU, HUYỆN PHÚ BÌNH, TỈNH THÁI NGUYÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI Hà Nội, 2016 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ HƯỜNG CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM VỀ CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TỪ THỰC TIỄN XÃ HÀ CHÂU, HUYỆN PHÚ BÌNH, TỈNH THÁI NGUYÊN Chuyên ngành: Công tác xã hội Mã số: 60 90 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. LÊ THỊ HOÀI THU Hà Nội, 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các kết quả, số liệu nêu trong luận văn là trung thực và xuất phát từ khảo sát thực tế tại địa bàn nghiên cứu. Học viên Nguyễn Thị Hường MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM TRONG CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN .................................................................................................... 13 1.1. Các khái niệm .............................................................................................. 13 1.2. Cơ sở lý luận công tác xã hội nhóm về chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với người chưa thành niên .......................................................................................... 17 1.3. Cơ sở pháp lý công tác xã hội nhóm về chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với người chưa thành niên .......................................................................................... 27 1.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới công tác xã hội nhóm về chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với người chưa thành niên……………………………………...30 Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM VỀ CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TẠI XÃ HÀ CHÂU, HUYỆN PHÚ BÌNH, TỈNH THÁI NGUYÊN ............................ 33 2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu………………………………...…………35 2.2. Thực trạng chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với người chưa thành niên tại xã Hà Châu, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên...................................................... 33 2.3. Thực trạng công tác xã hội nhóm về chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với người chưa thành niên tại xã Hà Châu, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên ................. 50 2.4. Đánh giá chung về thực trạng công tác xã hội nhóm về chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với người chưa thành niên tại xã Hà Châu, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên ......................................................................................................... 55 2.5. Những khó khăn trong công tác xã hội nhóm về chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với người chưa thành niên…………………………………………..65 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM VỀ CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TỪ THỰC TIỄN XÃ HÀ CHÂU, HUYỆN PHÚ BÌNH, TỈNH THÁI NGUYÊN ............................ 62 3.1. Sự cần thiết cần nâng cao hiệu quả công tác xã hội nhóm về chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với người chưa thành niên ....................................................... 62 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xã hội nhóm về chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với người chưa thành niên ................................................ 66 3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác xã hội nhóm về chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với người chưa thành niên tại xã Hà Châu, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên ........................................................................................ 70 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 78 PHỤ LỤC………………………………………………………………… 80 DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN Bảng 1.1. Những biểu hiện dậy thì ở nữ Bảng 1.2. Những biểu hiện dậy thì ở nam Bảng 1.3. Tán thành quan điểm quan hệ tình dục trước hôn nhân Bảng 1.4. Tương quan giới và tán thành quan hệ tình dục trước hôn nhân Bảng 1.5. Tương quan độ tuổi với tán thành quan hệ tình dục trước hôn nhân Bảng 1.6. Quan hệ tình dục lần đầu không thể mang thai Bảng 1.7. Các biện pháp phòng chống bệnh lây truyền qua đường tình dục Bảng 1.8. Mức độ thực hiện hoạt động tham vấn, tư vấn của nhân viên của nhân viên công tác xã hội Bảng 1.9. Mức độ thực hiện các hoạt động biện hộ chính sách đối với việc đảm bảo quyền lợi của người chưa thành niên về chăm sóc sức khỏe sinh sản Bảng 1.10. Mức độ thực hiện hoạt động đánh giá nhu cầu cùng xây dựng kế hoạch trợ giúp người chưa thành niên về chăm sóc sức khỏe sinh sản của nhân viên công tác xã hội DANH MỤC CÁC BIỂU TRONG LUẬN VĂN Biểu 1.1. Tỷ lệ học sinh đã có người yêu và chưa có người yêu Biểu 1.2. Tỷ lệ nghe nói về các biện pháp tránh thai Biểu 1.3. Nguồn cung cấp thông tin về các biện pháp tránh thai Biểu 1.4. Tỷ lệ học sinh lựa chọn các biện pháp tránh thai Biểu 1.5. Nghe nói về các bệnh lây truyền qua đường tình dục MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là nước đông dân, trong đó khoảng một nửa dân số có độ tuổi dưới 25 nên việc giáo dục sức khỏe sinh sản, chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người chưa thành niên là vấn đề quan trọng của toàn xã hội. Lứa tuổi này đặc trưng cho sự phát triển nhanh cả về trí tuệ, thể chất, tâm sinh lý cũng có nhiều biến động khiến cho các em đôi khi bướng bỉnh, nóng nảy và muốn tự làm theo ý mình. Các hormone sinh dục cũng phát triển nên những cảm xúc sinh lý giới tính, tình bạn, tình yêu khác giới cũng mạnh mẽ và quan trọng hơn. Ở lứa tuổi này các em muốn khẳng định mình đã lớn và thoát khỏi sự kiểm soát của cha mẹ dù hành vi còn ngờ nghệch, ứng xử chưa tốt. Những xúc cảm giới tính thôi thúc, chính vì vậy mà hiện tượng yêu sớm ở lứa tuổi chưa thành niên hiện nay diễn ra khá phổ biến và là vấn đề đáng lo ngại. Nhất là khi hiện nay các em rất thoáng trong tình yêu nên tình trạng quan hệ tình dục sớm ở lứa tuổi chưa thành niên không còn lạ lẫm. Sự sốc nổi và thiếu hiểu biết về quan hệ tình dục dẫn đến hậu quả đáng tiếc như tỷ lệ có thai ngoài ý muốn, tỷ lệ phá thai còn khá cao. Hiện tượng sinh con của những “bà mẹ nhí” đang có chiều hướng gia tăng, kéo theo đó là tỷ lệ tảo hôn cũng tăng lên ở các em nữ chưa thành niên. Việc kết hôn và sinh con ở lứa tuổi này kéo theo rất nhiều tác hại cho chính bản thân các em, cho gia đình cũng như cho xã hội. Do cơ thể các em chưa phát triển hoàn thiện nên khi sinh con có thể gây ra tình trạng sinh non, con bị dị dạng, bệnh tật, sức khỏe người mẹ và đứa trẻ yếu kém. Cùng với vấn đề này là sự gia tăng không ngừng của tỷ lệ nhiễm HIV, nguy cơ lây lan các bệnh qua đường tình dục như bệnh giang mai, bệnh lậu … Những nguy cơ đó ảnh hướng lớn tới kinh tế, tâm lí cũng như tương lai sau này của chính các em và của xã hội. Tình hình đó dẫn tới nhu cầu giáo dục giới tính và chăm sóc sức khỏe sinh sản cho lứa tuổi chưa thành niên trở nên vô cùng cấp bách và quan trọng. Nó trở thành nhu cầu không chỉ là của bản thân các em mà cũng chính là nhu cầu của xã hội hiện đại giúp các em có sự hiểu biết và nhận 1 thức rõ ràng hơn về sức khỏe sinh sản và chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người chưa thành niên. Xã Hà Châu là một xã miền núi nằm ở phía tây - nam của huyện Phú Bình với nhiều dân tộc khác nhau cùng sinh sống, trong đó có nhiều dân tộc thiểu số, đặc biệt là dân tộc Mông, Dao. Điều kiện sống còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí chưa cao nên các em nữ trong độ tuổi vị thành niên của xã ít có cơ hội được tiếp cận với các thông tin, kiến thức và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản. Cùng với đó là phong tục tập quán còn lạc hậu, việc tiếp cận với các thông tin về sức khỏe sinh sản không được người dân quan tâm nên con em họ không có cơ hội tiếp nhận các kiến thức này. Sức khỏe sinh sản bao gồm nhiều nội dung, chương trình khác nhau nên cần những cán bộ có chuyên môn, kiến thức hướng dẫn cụ thể trong khi nguồn cán bộ làm phụ trách về vấn đề này của xã còn ít và còn yếu. Tại trường học nơi số người chưa thành niên nhiều thì lại không có cán bộ chuyên môn về lĩnh vực này, trong khi chăm sóc sức khỏe sinh sản là vấn đề nhạy cảm, cần được tư vấn cẩn thận. Với những lý do trên, tôi chọn đề tài “Công tác xã hội nhóm về chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với người chưa thành niên từ thực tiễn xã Hà Châu, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên” làm đề tài luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài 2.1. Tình hình nghiên cứu chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người chưa thành niên trên thế giới Nghiên cứu về sức khỏe sinh sản và chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên (người chưa thành niên) có mặt từ rất sớm trên thế giới nhưng được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau như sức khỏe vị thành niên hay giới tính tình dục vị thành niên. Từ sau hội nghị về dân số và phát triển ICPD tại Cairo (4/1994) định nghĩa chính thức về sức khỏe sinh sản được phổ biến trên thế giới và trở thành vấn đề được quan tâm của toàn xã hội. Hội nghị đã đánh dấu một mốc quan trọng trong sự thay đổi chính sách dân số của các quốc gia và do đó cũng làm thay đổi mục tiêu giáo dục dân số các quốc gia. Tuyên ngôn ICPD đã kêu 2 gọi các nước đặt vai trò chất lượng dân số trong đó có vai trò sức khỏe sinh sản đặc biệt là sức khỏe sinh sản đối với người chưa thành niên. Ở châu Á, chương trình giáo dục dân số quốc gia lần đầu tiên được thực hiện ở các nước Ấn Độ, Philippiness (1969), ở Hàn Quốc (1970), các nhà lập kế hoạch về phát triển và xây dựng chính sách quốc gia ở các nước Châu Á đã ý thức được sự cần thiết làm cho nhân dân hiểu được mối quan hệ nhân quả giữa phát triển dân số và tiến bộ xã hội. Người ta cũng cho nhà trường là cơ quan thích hợp nhất để tiến hành công việc này. Tại châu Mỹ la tinh, chương trình giáo dục dân số bắt đầu từ năm 1967, tại trường đại học tổng hợp Dell Valle ở Colombia. Cũng tại châu Á, khi mới bắt đầu, chương trình giáo dục dân số được coi là bộ phận của kế hoạch hóa gia đình và chỉ có giáo dục giới tính. Có thể khái quát một số xu hướng giáo dục dân số/ sức khỏe sinh sản đã được nhiều nước trên thế giới quan tâm như sau: - Giáo dục dân số/ sức khỏe sinh sản được hầu hết các nước trên thế giới và trong khu vực coi là bộ phận không thể tách rời trong các chính sách và kế hoạch phát triển của mỗi quốc gia. - Các chương trình dân số/ sức khỏe sinh sản đều được tiến hành theo những phương pháp linh hoạt, tùy từng quốc gia, từng nền văn hóa, được phát triển theo hướng không gò bó, cởi mở và tự do trong các mục tiêu của chương trình. Tuy vậy các mục tiêu rất rõ ràng và đều hướng vào cộng đồng mà chủ yếu là làm cho giới trẻ chấp nhận quy mô gia đình nhỏ, có ý thức trách nhiệm về các hành vi sinh sản của mình. - Giáo dục dân số/ sức khỏe sinh sản được coi là cần thiết cho những nước có quy mô dân số lớn, tốc độ phát triển dân số nhanh, đồng thời các nước có quy mô dân số nhỏ nhưng tốc độ gia tăng dân số cao cũng rất coi trọng việc tổ chức các hoạt động giáo dục dân số/ sức khỏe sinh sản. - Trên cơ sở nhận thức về vai trò của giáo dục trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước, nhiều quốc gia đưa những nội dung giáo dục dân số/ 3 sức khỏe sinh sản vào giảng dạy trong nhà trường. Có sự ưu tiên cho giáo dục bậc sơ trung và cao trung. - Giáo dục dân số/ sức khỏe sinh sản được mở rộng ra cộng đồng phù hợp với chiến lược phát triển của quốc gia và được xây dựng cho các cấp, trong đó nhà trường được xác định có vai trò chủ chốt. - Các phương pháp giáo dục dân số/ sức khỏe sinh sản cũng đang cố gắng tìm tòi để xây dựng những phương pháp phù hợp với từng địa phương, từng quốc gia, từng nền văn hóa khác nhau trên cơ sở huy động cộng đồng tham gia trực tiếp và tích cực vào các hoạt động giáo dục dân số/ sức khỏe sinh sản. Các loại hình thường được áp dụng như tổ chức các “đội tuyên truyền viên về dân số/ sức khỏe sinh sản”, các câu lạc bộ “đóng kịch”, “trò chơi sắm vai”, “bắt chước”.. Tính trong khu vực ASEAN thì các nước như Thái Lan, Indonexia, Philippine… là những nước có nhiều kinh nghiệm về giáo dục dân số/ sức khỏe sinh sản cho người chưa thành niên, gần đây cũng đã có những cuộc tiếp xúc, trao đổi kinh nghiệm với các nhà sư phạm Việt Nam. 2.2. Tình hình nghiên cứu chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người chưa thành niên ở Việt Nam “Báo cáo kết quả cuộc thi khảo sát tìm hiểu kiến thức, thái độ và hành vi về sức khỏe sinh sản tuổi vị thành niên” (1999) do Khuất Thu Hồng thực hiện theo yêu cầu của UNFPA và Sở Giáo dục và đào tạo tỉnh Khánh Hòa được thực hiện tại một số trường THCS và THPT. Đối tượng là học sinh và cha mẹ học sinh lớp 8 và lớp 11, giáo viên bộ môn từng tham gia giảng dạy giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản, đại diện ban giám hiệu, giáo viên chủ nhiệm, giáo viên phụ trách Đoàn – Đội của trường. Công cụ khảo sát là bộ bảng hỏi được thiết kế riêng cho các nhóm đối tượng và mẫu được chọn ngẫu nhiên. Tuy cuộc khảo sát có một số hạn chế nhưng kết quả thu được đã cung cấp những thông tin cơ bản về kiến thức, thái độ và thực trạng hành vi liên quan đến sức khỏe sinh sản của một bộ phận học sinh, giáo viên và cha mẹ học sinh của tỉnh Khánh Hòa. 4 Một cuộc điều tra với quy mô lớn được thực hiện tại các tỉnh thành của đất nước về vị thành niên và thành niên với tên gọi “Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam” với 02 giai đoạn, giai đoạn I, từ 2003 đến 2005 ( gọi tắt là SAVY I) và giai đoạn II, tiến hành từ 2008 đến 2010 (gọi tắt là SAVY II). Cuộc điều tra tìm hiểu về 9 nhiều vấn đề khác nhau: giáo dục, lao động, việc làm, tình dục và sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ tâm thần, tai nạn, thương tích và bệnh tật, hành vi, ước muốn, hoài bão...của người chưa thành niên và thanh niên Việt Nam. Cuộc điều tra do Bộ Y tế, Tổng Cục thống kê, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phối hợp tiến hành, các tổ chức quốc tế UNICEF và WHO hỗ trợ về tài chính và kĩ thuật. Kết quả của 2 cuộc điều tra cho phép so sánh sự thay đổi và xu hướng phát triển quan trọng trong kiến thức, thái độ, hành vi, lối sống và điều kiện sống của thanh thiếu niên. SAVY 1 được thực hiện với 7.584 mẫu nghiên cứu là vị thành niên và thanh niên tại 42 tỉnh/thành. Và ở SAVY 2 được tiến hành với 10.044 vị thành niên và thanh niên trong độ tuổi 14-25 tại 63 tỉnh/thành. Qua 02 cuộc điều tra kết quả thu được về việc chăm sóc sức khỏe sinh sản của người chưa thành niên và thanh niên cả nước thu được như sau: Mang thai, nạo phá thai: Vì số lượng nữ chưa có chồng nhưng đã có quan hệ tình dục và đã từng mang thai, nạo thai vào thời điểm điều tra của SAVY 1 và SAVY 2 quá nhỏ nên khó có thể bình luận. Chỉ có thể ghi nhận là không thấy có diễn biến đáng lo ngại hơn ở SAVY 2 so với SAVY 1 trong số nữ chưa chồng. Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ nạo phá thai cao trên nhất thế giới, trong đó 20% là ở lứa tuổi chưa thành niên, trên cả nước có 5% em gái sinh con trước tuổi 18, 15% sinh con trước tuổi 20… Trong Chiến lược Dân số Việt Nam giai đoạn 2001- 2010 có đoạn nhấn mạnh “Việc mang thai ngoài ý muốn và tình trạng nạo phá thai là đáng lo ngại” (Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, 2003). Còn trong Chiến lược quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản giai đoạn 2001-2010 cũng đề ra mục tiêu “Giảm có thai ngoài ý muốn và các tai biến nạo hút thai” (Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, 2003). 5 Hiểu biết về sinh lý thụ thai ở thanh thiếu niên: 71% (nam 37% và nữ 34%) trả lời “Có” với câu nỏi “Liệu một bạn gái có thể mang thai sau lần quan hệ tình dục đầu tiên?” cho thấy điều quan trọng là có đến gần 2/3 thanh thiếu niên đã biết đánh giá cao nguy cơ mang thai sau lần quan hệ tình dục đầu tiên. Số đông thanh thiếu niên (82%) cũng đã biết đến và có niềm tin vào các biện pháp tránh thai. Tuy nhiên, tỷ lệ phần trăm nam nữ thanh niên trả lời đúng câu hỏi về thời điểm dễ có thai trong chu kỳ kinh khá thấp. Ở SAVY 2, chỉ có 23% (7% nam và 18% nữ) trả lời đúng câu hỏi này (thời điểm” giữa 2 kỳ kinh”). Ở SAVY 1, có 33% (11% nam và 22% nữ) trả lời đúng. Điều này có ý nghĩa ở chỗ cần thiết phát triển hơn nữa việc giáo dục thanh thiếu niên về sức khỏe sinh sản và sinh lý thụ thai để biết tự bảo vệ. “Thời điểm dễ có thai trong chu kỳ kinh” là một mảng hiểu biết cần thiết, giúp phụ nữ có thể chủ động tránh thai, là cách để phụ nữ biết tránh thai bằng phương pháp tự nhiên. Tránh thai: Tỷ lệ biết về các biện pháp tránh thai đều rất cao, trung bình từ 4 biện pháp trở lên. Tuy nhiên, sử dụng hiểu biết về tránh thai trong thực tế như thế nào và các biện pháp tránh thai có đáp ứng nhu cầu không mới là điều quan trọng nhất. Bao cao su vẫn là biện pháp hỗ trợ hàng đầu cho nam (72,7%) nhưng viên tránh thai khẩn cấp cho nữ lại có tỷ lệ sử dụng không cao (chỉ 4,5%). Biện pháp tránh thai hiện đại được sử dụng nhiều nhất: BCS vẫn đứng hàng đầu với 42,9%, tiếp theo là dụng cụ tử cung 26,5%, thuốc uống tránh thai 18,8%, xuất tinh ngoài âm đạo 7,7%, tính vòng kinh 2,0%, viên tránh thai khẩn cấp 1,8% (tỷ lệ thấp sử dụng viên tránh thai khẩn cấp có thể đã góp phần làm gia tăng số nạo phá thai ở những người chưa thành niên). Bệnh lây truyền qua đường tình dục: Có thể cho rằng sự hiểu biết về các bệnh lây truyền qua đường tình dục không thay đổi sau 2 lần điều tra. Còn cần nhiều nỗ lực để nâng cao nhận thức trong cộng đồng về các bệnh nói trên. Trên thực tế, điều cần lưu ý các thầy thuốc thực hành là bệnh phụ khoa thường gặp nhất lại chính là viêm âm đạo (do nấm chiếm tỷ lệ cao nhất) và sự dễ tái diễn của bệnh này, có nguyên nhân từ hiểu biết hạn chế về vệ sinh 6 phụ nữ và đời sống tình dục vợ chồng. Cũng cần có chương trình kiểm soát bệnh viêm âm đạo do virut gây u sui (HPV) ở phụ nữ trẻ vì là nguyên nhân dẫn đến ung thư cổ tử cung sau này. Tóm lại, các nghiên cứu trên đã cung cấp cho chúng ta những cái nhìn tổng quát về sức khỏe sinh sản và chăm sóc sức khỏe sinh sản của thanh thiếu niên Việt Nam, chủ yếu đi vào phương pháp và nghiên cứu lý luận. Những con số cụ thể qua các nghiên cứu đã mô tả và có các giải pháp về sức khỏe sinh sản phù hợp với từng đề tài nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên, chưa có nhiều nghiên cứu áp dụng và sử dụng các phương pháp công tác xã hội trong quá trình nghiên cứu để trợ giúp cho các thân chủ một cách cụ thể. Nhất là đối với các em nữ trong độ tuổi chưa thành niên, những đối tượng cần được quan tâm chăm sóc nhiều về sức khỏe sinh sản… Do đó, việc thực hiện một nghiên cứu chuyên sâu về Công tác xã hội với những phương pháp và hoạt động phù hợp để trợ giúp cho các đối tượng là nữ ở độ tuổi chưa thành niên là rất cấp thiết. Đây sẽ là công trình nghiên cứu với phạm vi hẹp, sử dụng các phương pháp công tác xã hội để giúp các em nữ được nâng cao hơn nữa những hiểu biết, kỹ năng trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản cho chính mình và mọi người xung quanh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu lý luận và thực trạng của công tác xã hội nhóm trong chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người chưa thành niên trên cơ sở đó sử dụng những kiến thức, kỹ năng của công tác xã hội đề ra một số biện pháp giúp người chưa thành niên có thêm kiến thức về chăm sóc sức khỏe sinh sản cho bản thân mình và những người xung quanh. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Xây dựng cơ sở lý luận về công tác xã hội nhóm trong việc nâng cao nhận thức về chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người chưa thành niên và các yếu tố ảnh hưởng. 7 - Khảo sát thực trạng chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người chưa thành niên cũng như các hoạt động công tác xã hội với vấn đề này. - Ứng dụng lý thuyết công tác xã hội nhóm vào việc nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi về chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người chưa thành niên tại xã Hà Châu, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên. - Đề xuất một số giải pháp giúp người chưa thành niên có những kiến thức, kỹ năng về chăm sóc sức khỏe sinh sản cho bản thân. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Công tác xã hội nhóm đối với người chưa thành niên về chăm sóc sức khỏe sinh sản. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi thời gian: từ tháng 01/2016 đến tháng 6/2016 Phạm vi không gian: xã Hà Châu, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên Giới hạn nội dung nghiên cứu: sử dụng phương pháp công tác xã hội nhóm trong công tác xã hội để cung cấp thêm những kiến thức về chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người chưa thành niên. 4.3. Khách thể nghiên cứu Nghiên cứu các đối tượng là học sinh độ tuổi từ 14 đến 18 trên địa bàn xã Hà Châu. Các em thường học ở các trường như: Trường THCS Hà Châu đóng trên địa bàn xã và 02 trường THPT đóng trên địa bàn huyện như: trường THPT Phú Bình, THPT Lương Phú. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài nghiên cứu luôn dựa trên lập trường quan điểm, thế giới quan của chủ nghĩa Mac – Lê nin. Đó chính là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử nghĩa là khi nghiên cứu phải nhìn nhận các sự vật, hiện tượng một cách khách quan trong một hệ thống luôn có sự vận động, biến đổi và tác động lẫn nhau. Như vậy, khi nghiên cứu công tác xã hội nhóm đối với người 8 chưa thành niên về chăm sóc sức khỏe sinh sản từ thực tiễn xã Hà Châu ta phải đặt vấn đề trong bối cảnh xã hội hiện nay của xã Hà Châu nói riêng và cả nước nói chung, gắn liền với điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử nhất định. Có như vậy, chúng ta mới có thể đánh giá đúng vấn đề và đưa ra được những giải pháp mang tính hiệu quả. Ngoài ra khi nghiên cứu, đề tài còn kết hợp giữa nghiên cứu lý thuyết với nghiên cứu thực tiễn, giữa nghiên cứu định tính với nghiên cứu định lượng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu 5.2.1. Phương pháp nghiên cứu, phân tích tài liệu Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, hệ thống hóa các tài liệu lý luận về vấn đề nghiên cứu là phương pháp học viên đã sử dụng nhằm thu thập thông tin thứ cấp trên những tài liệu có sẵn. Phương pháp này thực hiện trên cơ sở phân tích và trích dẫn từ những nghiên cứu trước đó, tìm hiểu và nghiên cứu thông tin trên sách, báo, tạp chí, tập san… viết về các vấn đề liên quan đến sức khỏe sinh sản tuổi chưa thành niên. Ngoài ra, ta phải tìm đọc các tài liệu có liên quan để có cơ sở so sánh với kết quả điều tra theo mẫu tiến hành trên địa bàn xã Hà Châu, cũng là cái để so sánh đưa ra nhận định, kết luận mới về hiểu biết chăm sóc sức khỏe sinh sản của người chưa thành niên xã Hà Châu so với mặt bằng chung của quốc gia, thậm chí là với phạm vi quốc tế. Các tài liệu được sử dụng nghiên cứu và vận dụng trong quá trình thực hiện khóa luận này sẽ được đề cập ở phần Tài liệu tham khảo. 5.2.2. Phương pháp nghiên cứu bảng hỏi Bảng hỏi được xây dựng nhằm thu thập thông tin hiểu biết của người chưa thành niên trên địa bàn xã Hà Châu về sức khỏe sinh sản và chăm sóc sức khỏe sinh sản. Việc nghiên cứu bằng bảng hỏi sẽ giúp cho việc thu thập được nhiều thông tin đối với nhiều chủ thể cùng một thời điểm, thông tin thu được cũng dễ dàng hơn. Mặt khác, đây là vấn đề tương đối nhạy cảm với các em (chưa thành 9 niên) do vậy việc nghiên cứu bằng bảng hỏi sẽ giảm bớt được hạn chế này, các em trả lời thông qua bảng hỏi sẽ bớt ngại, ngượng, cũng do vậy mà bảng hỏi không yêu cầu các em nhất thiết phải điền tên của mình. Bảng hỏi được thiết kế dựa trên cơ sở kiến thức về đặc điểm tâm - sinh lý lứa tuổi chưa thành niên, kiến thức sức khỏe sinh sản chưa thành niên và tham khảo tài liệu trắc nghiệm cho lứa tuổi chưa thành niên. Bảng hỏi được phát ra điều tra dưới dạng phiếu hỏi cho 90 mẫu chọn ngẫu nhiên trên danh sách theo dõi của cán bộ làm công tác Dân số của xã. Tổng số phiếu phát ra là 90, thu về là 90 và không có phiếu nào không hợp lệ. Do vậy mà bảng hỏi đã góp phần quan trọng cho việc hoàn thành luận văn này. 5.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu Phỏng vấn sâu là cuộc đối thoại nhằm tìm hiểu thông tin về cuộc sống kinh nghiệm và nhận thức của người cung cấp thông tin qua chính ngôn ngữ của người ấy. Đây là một phương pháp thu thập thông tin dựa trên cơ sở quá trình giao tiếp bằng lời nói có tính đến mục đích đặt ra. Trong cuộc phỏng vấn, người phỏng vấn nêu những câu hỏi linh hoạt theo một chương trình được định sẵn. Ngoài các câu hỏi trong bảng hỏi, học viên tiến hành phỏng vấn sâu với 5 cán bộ ban văn hóa xã, 5 phụ huynh có con em trong độ tuổi chưa thành niên và một số trẻ chưa thành niên khác. Việc sử dụng phương pháp này nhằm hạn chế một số nhược điểm của bảng hỏi, tìm hiểu thêm một số thông tin bên ngoài, khai thác thông tin sâu từ phía người được phỏng vấn, ngoài ra người phỏng vấn có thể giải thích cho người được phỏng vấn về mục đích cuộc phỏng vấn, nội dung các câu hỏi...qua đó nâng cao được tinh thần sẵn sàng trả lời của người được phỏng vấn. 5.2.4. Phương pháp quan sát Phương pháp quan sát là phương pháp thu thập thông tin xã hội sơ cấp về đối tượng nghiên cứu bằng tri giác trực tiếp và ghi chép lại những nhân tố liên quan đến mục đích và đề tài nghiên cứu. 10 Bên cạnh những phương pháp nêu trên, học viên sử dụng phương pháp quan sát nhằm nhận định một cách tổng quan nhất nhận thức của người chưa thành niên về chăm sóc sức khỏe sinh sản trên địa bàn xã, kiểm tra, xác nhận các kết quả thu được từ những phương pháp khác đã sử dụng. 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Vận dụng những phạm trù, khái niệm, phương pháp nghiên cứu và các lý thuyết Công tác xã hội vào việc mô tả, giải thích về vấn đề chăm sóc sức khỏe sinh sản của người chưa thành niên cũng như kiến thức về quá trình và quy luật nhận thức của các em với vấn đề chăm sóc sức khỏe sinh sản. Nghiên cứu nhằm phân tích thực trạng nhận thức và hành vi chăm sóc sức khỏe sinh sản của các em trong độ tuổi chưa thành niên của xã Hà Châu, huyện Phú Bình để từ đó tìm ra mối quan hệ giữa độ tuổi, trình độ học vấn, quan niệm về tình dục…với sự nhận thức và hành vi chăm sóc sức khỏe sinh sản của người chưa thành niên. Qua đó công tác xã hội thực hiện các vai trò trợ giúp các em trong độ tuổi chưa thành niên nâng cao kỹ năng chăm sóc sức khỏe sinh sản. Luận văn cũng bổ sung một số vấn đề lý luận cơ bản về công tác xã hội nhóm về chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người chưa thành niên. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn làm rõ thực trạng chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người chưa thành niên và các yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề này. Nghiên cứu này góp phần chỉ ra thực trạng hoạt động của công tác xã hội cũng như nhu cầu cần sự trợ giúp của người chưa thành niên thông qua phương pháp công tác xã hội nhóm đối với người chưa thành niên từ thực tiễn xã Hà Châu, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả phương pháp công tác xã hội nhóm đối với vấn đề chăm sóc sức khỏe cho người chưa thành niên. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho người làm công tác xã hội, người làm trong lĩnh vực tâm lý, giáo dục. 11 7. Cơ cấu của lận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận nội dung luận văn được chia thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận công tác xã hội nhóm về chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với người chưa thành niên Chương 2: Thực trạng công tác xã hội nhóm về chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với người chưa thành niên từ thực tiễn xã Hà Châu, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác xã hội nhóm về chăm sóc sức khỏe sinh sản từ thực tiễn xã Hà Châu, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên 12 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM TRONG CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN 1.1. Các khái niệm 1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên Bộ Luật Dân sự Việt Nam năm 2015 quy định: “Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi” (Khoản 1, Điều 21). Ở một số cuốn sách viết về tuổi vị thành niên, thì các nhà viết sách lại cho rằng vị thành niên là những người chưa đến tuổi được pháp luật công nhận là công dân với đầy đủ các quyền và nghĩa vụ. Chưa thành niên là giai đoạn đặc biệt của cuộc đời con người. Đây là thời kỳ mà người chưa thành niên chưa được coi là người lớn song cũng không phải là trẻ con. Có nhiều quan điểm khác nhau về tuổi chưa thành niên. Sự phân chia độ tuổi chưa thành niên ở các quốc gia, các chủng tộc và khu vực có khác nhau. Tuy nhiên có một điểm thống nhất là người chưa thành niên nghĩa là người chưa trưởng thành và còn do người lớn giám hộ. Ở Việt Nam, pháp luật Việt Nam quy định từ 18 tuổi trở lên được coi là công dân đã trưởng thành. Nghĩa là khi đó họ không còn là chưa thành niên nữa. Như thế tuổi chưa thành niên ở nước ta thường được xác định trong độ tuổi từ 10 đến trước 18 tuổi và nhìn chung, trong pháp luật và các văn bản luật Việt Nam, có từ “chưa thành niên” mà người ta thường hiểu chung chung là vị thành niên, chỉ những người chưa đủ 18 tuổi. Từ những khái niệm trên theo tôi, người chưa thành niên là người trong độ tuổi từ 10 đến trước 18 tuổi đang ở giai đoạn chuyển tiếp từ ấu thơ sang trưởng thành. Đây là giai đoạn phát triển đặc biệt mạnh mẽ và phức tạp nhất của cuộc đời mỗi con người. Biểu hiện của nó là xảy ra đồng thời một loạt những thay đổi bao gồm: Sự phát triển mạnh mẽ về thể chất, sự biến đổi điều chỉnh tâm lý và các quan hệ xã hội, bước đầu hình thành nhân cách nên nảy sinh nhiều rối nhiễu về tâm lý nhất so với các lứa tuổi khác. 13 1.1.2. Khái niệm chăm sóc sức khỏe sinh sản Trước hết để hiểu được khái niệm chăm sóc sức khỏe sinh sản tôi xin đưa ra khái niệm sức khỏe sinh sản để chúng ta hiểu rõ vấn đề: Trong hệ thống ngôn ngữ truyền thống Việt Nam, chúng ta không thấy đề cập đến khái niệm sức khỏe sinh sản mà thường chúng ta chỉ thấy nói đến sức khỏe, giới tính, tình dục …. Khái niệm sức khỏe sinh sản được du nhập từ các nước phương tây vào Việt Nam mạnh mẽ vào những năm gần đây. Sức khỏe sinh sản là một bộ phận của sức khỏe con người nói chung. Khái niệm về sức khỏe sinh sản được nêu ra một cách chính thức từ Hội nghị quốc tế về dân số và phát triển (Ai Cập) năm 1994, như sau : “Sức khỏe sinh sản là một trạng thái khỏe mạnh hoàn toàn về thể chất, tinh thần và xã hội chứ không chỉ là bệnh tật hay ốm yếu, trong tất cả mọi thứ liên quan đến hệ thống sinh sản, các chức năng và quá trình của nó ở mọi giai đoạn của cuộc đời”(i) . Do đó, sức khỏe sinh sản hàm ý con người có thể có cuộc sống tình dục thỏa mãn, an toàn, có khả năng sinh sản và được tự do quyết định khi nào và thường xuyên như thế nào trong việc này. Điều kiện cuối cùng này ngụ ý nói về quyền của phụ nữ và nam giới được thông tin và tiếp cận các biện pháp kế hoạch hóa gia đình, an toàn, hiệu quả, dễ dàng và thích hợp tùy theo sự lựa chọn của họ cũng như được lựa chọn những biện pháp thích hợp nhằm điều hòa sinh đẻ không trái với pháp luật, quyền được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe thích hợp giúp cho người phụ nữ trải qua thai nghén và sinh đẻ an toàn và tạo cho các cặp vợ chồng những điều kiện tốt nhất để có đứa con khỏe mạnh. Nội dung chính của sức khỏe sinh sản bao gồm: - Làm mẹ an toàn; - Kế hoạch hóa gia đình; - Nạo hút thai; - Bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản; - Các bệnh lây truyền qua đường tình dục; 14 - Giáo dục tình dục; - Phát hiện sớm ung thư vú và đường sinh dục; - Vô sinh; - Sức khỏe sinh sản vị thành niên; - Giáo dục truyền thông về sức khỏe sinh sản - kế hoạch hóa gia đình. Tóm lại, sức khỏe sinh sản là một khái niệm mới, thuộc nội hàm của khái niệm sức khỏe nhưng nó cụ thể và sâu sắc hơn, đặc biệt nó hàm chứa và nhấn mạnh tới một số khía cạnh về sức khỏe - dân số mới xuất hiện ở xã hội hiện đại. Sức khỏe sinh sản không đơn thuần là chuyện sinh sản, truyền giống mà nó còn bao hàm nội dung lớn về tuổi dậy thì, giới tính, bản năng, tính dục và sự hài hòa, an toàn tình dục, về quyền sinh con và không sinh con, quyền tiếp cận các thông tin xã hội về sức khỏe sinh sản và quyền bình đẳng về nghề nghiệp, tuổi, giới, văn hóa, tín ngưỡng và dân tộc trong hưởng lợi các dịch vụ xã hội về sức khỏe sinh sản. Chăm sóc sức khỏe sinh sản là một nội dung quan trọng đang nhận được rất nhiều sự quan tâm của các quốc gia trong lĩnh vực quản lý dân số vì nó có liên quan trực tiếp tới sự phát triển của kinh tế - xã hội các nước và sự vững bền của mỗi quốc gia. Có thể khẳng định rằng, chăm sóc sức khỏe sinh sản là một tổng thể các biện pháp kỹ thuật và dịch vụ góp phần nâng cao sức khỏe và hạnh phúc bằng cách phòng ngừa hậu quả và giải quyết các vấn đề về sức khỏe sinh sản là thực hiện những hành động hướng tới mục tiêu tốt đẹp cho những nội dung của sức khỏe sinh sản đã nêu ở trên. Đó là những kế hoạch, những chính sách có liên quan làm hoàn thiện 10 nội dung chính của sức khỏe sinh sản. 1.1.3. Khái niệm chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với người chưa thành niên Theo như khái niệm và nội dung của sức khỏe sinh sản, thì sức khỏe sinh sản đối với người chưa thành niên là một nội dung của sức khỏe sinh sản. Đây là 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan