Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Công tác xã hội đối với trẻ em lang thang từ thực tiễn thành phố thủ dầu một, tỉ...

Tài liệu Công tác xã hội đối với trẻ em lang thang từ thực tiễn thành phố thủ dầu một, tỉnh bình dương

.PDF
96
1594
104

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THANH TRÚC CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM LANG THANG TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƢƠNG Chuyên ngành:Công tác xã hội Mã số: 60.90.01.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. BÙI THỊ XUÂN MAI HÀ NỘI - 2016 LỜI CẢM ƠN Trong thời gian thực hiện đề tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp, bản thân tôi cũng gặp một số khó khăn nhất định về thời gian, xử lý số liệu mẫu thống kê, kỹ thuật phân tích số liệu, chọn mẫu nghiên cứu v.v... Tuy nhiên, tôi đã được sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình, cũng như sự khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi của thầy cô, bạn bè trong suốt quá trình nghiên cứu. Với tấm lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin bày tỏ lòng cám ơn chân thành đến thầy cô, bạn bè và gia đình đã hỗ trợ tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cám ơn PGS. TS. Bùi Thị Xuân Mai, đã hướng dẫn nghiên cứu đề tài luận văn, giúp đỡ tôi trong quá trình viết và hoàn thành luận văn. Tôi xin chân thành cám ơn các thầy cô công tác tại Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam và Học viện xã hội Châu Á đã tạo điều kiện về thời gian cũng như hỗ trợ các tài liệu học tập cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Cuối cùng, tôi xin gửi lời cám ơn đến Lãnh đạo cơ quan; các bạn đồng nghiệp đã nhiệt tình hỗ trợ tôi trong quá trình học tập, thực hiện điều tra, thu thập thông tin và xử lý số liệu. Dù đã có nhiều cố gắng, song chắc chắn không thể tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy giáo, cô giáo để luận văn của tôi được hoàn chỉnh hơn./. Bình Dương, tháng 6 năm 2016 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM LANG THANG ........................................................................................................11 1.1. Cách tiếp cận và các lý thuyết áp dụng trong nghiên cứu .............................11 1.2. Một số khái niệm công cụ liên quan đến đề tài nghiên cứu ..........................19 1.3. Một số lý luận về công tác xã hội với trẻ em lang thang ...............................29 1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội đối với trẻ em lang thang ...........34 1.5. Tình hình về trẻ em lang thang và Pháp Luật và chính sách Pháp luật Việt Nam có liên quan ......................................................................................................36 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM LANG THANG TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƢƠNG ....................................................................................................................40 2.1. Khái quát về tình hình địa lý, kinh tế, xã hội thành phố Thủ Dầu Một, Bình Dương ........................................................................................................................40 2.2. Tình tình trẻ em lang thang tại Thủ Dầu Một ................................................42 2.3. Thực trạng công tác xã hội đối với trẻ em lang thang tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương ...............................................................................................51 Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHO VIỆC ĐẢM BẢO THỰC HIỆN CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM LANG THANG ....................63 3.1. Định hướng đảm bảo thực hiện công tác xã hội đối với trẻ em lang thang ...63 3.2. Giải pháp đảm bảo thực hiện công tác xã hội đối với trẻ em lang thang ......67 KẾT LUẬN ..............................................................................................................75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................77 PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BVCSTE Bảo vệ chăm sóc trẻ em BVCS&GDTE Bảo vệ chăm sóc và Giáo dục trẻ em CTXH Công tác xã hội LĐTB&XH Lao động Thương binh và Xã hội PVS Phỏng vấn sâu TELT Trẻ em lang thang TP TDM Thành phố Thủ Dầu Một DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 1: Quê quán của trẻ lang thang ....................................................................42 Biểu đồ 2: Người mà trẻ em lang thang hiện đang sống cùng ..................................43 Biểu đồ 3: Độ tuổi của trẻ lang thang .......................................................................44 Biểu đồ 4: Công việc kiếm sống của trẻ ...................................................................45 Biểu đồ 5: Thu nhập mỗi ngày của trẻ em lang thang ..............................................46 Biểu đồ 6: Chổ ở của trẻ lang thang ..........................................................................47 Biểu đồ 7: Mục đích sử dụng tiền hàng tháng của trẻ em lang thang .......................48 Biểu đồ 8: Tình trạng sức khỏe của các em ..............................................................49 Biểu đồ 9: Em từng bị dụ dỗ để thực hiện các việc sau ............................................50 Biểu đồ 10: Lúc em buồn/gặp phải những vấn đề khó khăn trong cuộc sống, em thường chia sẻ với ai? ...............................................................................................52 Biểu đồ 11: Nếu được sự hỗ trợ em cần những hỗ trợ nào .......................................53 Biểu đồ 12: Nếu được tham gia vào nhóm giáo dục kỹ năng sống, thì em chọn nội dung nào ....................................................................................................................59 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quá trình đô thị hóa mạnh mẽ mang lại nhiều bước phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội, nhưng nó cũng nảy sinh các vấn đề xã hội ảnh hưởng đến mọi tầng lớp trong xã hội trong đó có trẻ em. Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là trách nhiệm của mọi gia đình và toàn xã hội. Cùng với sự phát triển của đất nước, nền kinh tế thị trường phát triển. Quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đã đưa con người đến với những tiến bộ về khoa học xã hội, giải quyết được những khó khăn trong cuộc sống, bộ mặt người dân được cải thiện. Tuy nhiên, bên cạnh đó nó cũng có những mặt trái đi đôi với sự phát triển như tình trạng dân di cư từ nông thôn ra thành thị, tệ nạn xã hội, bất bình đẳng xã hội, và đặc biệt là khoảng cách giàu nghèo ngày càng chênh lệch… mà trẻ em là đối tượng phải gánh chịu sự ảnh hưởng nặng nề nhất. Việt Nam là quốc gia đầu tiên trong khu vực và quốc gia thứ hai trên thế giới tham gia ký kết và phê chuẩn Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em, thể hiện sự cam kết mạnh mẽ của nước ta với cộng đồng quốc tế về công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em. Rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này đã được ban hành như: Bộ Luật Lao động, Luật Người khuyết tật, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật Nuôi con nuôi, Luật phòng chống mua bán người, Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2001-2010 và giai đoạn 2011-2020, Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg ngày 25/3/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010-2020… Các văn bản quy phạm pháp luật này tạo thành hệ thống khuôn khổ pháp lý chăm sóc và bảo vệ trẻ em. Hiện nay trẻ em lang thang là hiện tượng xã hội diễn ra khá phổ biến ở những nước nghèo và chậm phát triển, trong đó có Việt Nam. Những năm gần đây hiện tượng trẻ em đi lang thang ở nước ta đã trở thành một vấn đề xã hội khá bức xúc và đáng quan tâm. TELT xuất hiện nhiều chủ yếu ở các tỉnh, thành phố lớn và ngày càng phức tạp cả về số lượng, tính chất cũng như hình thức lang thang của trẻ. Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về TELT thì: năm 1996 cả nước có 14.596 em; năm 1997 có 16.263 em; năm 1998 có 19.024 em; năm 1999 1 có 23.000 em; năm 2000 lên đến khoảng 25.000 em. Vào thời điểm thống kê tháng 2 năm 2003 cả nước còn khoảng 21.000 TELT. Tháng 8 năm 2003 ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em điều tra tại 2 thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh số TELT có mặt tại hai thành phố này có trên 10.000 em. Riêng thành phố Hồ Chí Minh có trên 8 ngàn em và Hà Nội có gần 2000 em (số TELT được thống kê gồm cả trẻ em là người của Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh). Số trẻ em này có tới trên 50% không đi cùng gia đình và khoảng 40% đi cùng gia đình, cùng người thân tạm thời đến thành phố rồi lại về quê hương hoặc di chuyển đi nơi khác. Một số khác đi cùng gia đình (di dân tự do) đến các vùng đô thị. Cùng với Thành phố Hồ Chí Minh và Đồng Nai, Bình Dương là một trong ba vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Đi cùng với sự phát triển về kinh tế, Bình Dương cũng đang phải đối mặt với việc giải quyết các vấn đề xã hội, trong đó có vấn đề trẻ em lang thang cơ nhỡ. Những TELT này chủ yếu đến từ các tỉnh lẻ về thành phố kiếm sống bằng các hình thức như bán vé số, bán hàng rong, lượm ve chai, ăn xin… Với nhiều nguyên nhân và lý do khác nhau, nhóm trẻ em này đã phải rời bỏ gia đình đi lang thang kiếm sống, các em chịu nhiều thiệt thòi và mất đi hầu hết các quyền cơ bản của mình. Bên cạnh đó cũng từ nhóm trẻ em này đã phát sinh nhiều vấn đề nhức nhối trong xã hội như: lạm dụng trẻ em, lao động trẻ em, tệ nạn, mại dâm, trộm cắp, buôn bán ma túy … nếu không được bảo vệ giúp đỡ từ phía gia đình và xã hội các em rất dễ rơi vào hoàn cảnh sa sút, tồi tệ và là nguyên nhân gây ra sự bất ổn trong xã hội. Cho đến nay, đã có nhiều tài liệu viết về thực trạng TELT như chăm sóc trẻ em, kỹ năng làm việc, tiếp cận với trẻ em lang thang của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành nhưng phần lớn chỉ dùng làm tài liệu tập huấn chung cho cấp cơ sở, chứ chưa có có đề tài nào nghiên cứu sâu về các hoạt động CTXH đối với TELT, rất ít các công trình nghiên cứu về hoạt động CTXH với trẻ em lang thang tại các tỉnh thành ở Việt Nam. Tại Bình Dương cũng chưa có một nghiên cứu cụ thể nào về hoạt động này. Từ năm 2011 đến nay, trên địa bàn tỉnh Bình Dương 2 không có những Chương trình cũng như những đề tài nghiên cứu những vấn đề về TELT nhằm đưa ra những giải pháp cụ thể hỗ trợ TELT. Công tác xã hội là một ngành khoa học, một hoạt động chuyên môn bao gồm hệ thống kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ và những quy định chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp khi thực hành loại ngành nghề này. Đối tượng tác động của CTXH là cá nhân, gia đình, nhóm và cộng đồng, đặc biệt là nhóm người yếu thế trong xã hội như trẻ em, phụ nữ, gia đình nghèo, người già, người khuyết tật, những người có hoàn cảnh khó khăn nên khó hòa nhập xã hội và chức năng xã hội bị suy giảm. Hướng trọng tâm của CTXH là tác động đến con người như một tổng thể, tác động đến con người trong môi trường của họ. Với mục đích là hướng đến giúp đỡ cá nhân, gia đình và cộng đồng phục hồi hay nâng cao năng lực để tăng cường chức năng xã hội, tạo ra những thay đổi về vai trò, vị trí của cá nhân, gia đình, cộng đồng từ đó giúp họ hòa nhập xã hội; mặt khác công tác xã hội thúc đẩy các điều kiện xã hội để cá nhân, gia đình tiếp cận được với chính sách, nguồn lực xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu cơ bản nghề CTXH đang được Đảng và Nhà nước chú trọng phát triển.Tuy nhiên, vì là lĩnh vực hoạt động khá mới mẽ ở Việt Nam cả về lý thuyết và thực hành, mặc dù trên thực tế đã có giảng dạy về CTXH với trẻ em trong các trường cao đẳng, đại học và các mô hình chăm sóc trẻ trong cộng đồng nhưng hoạt hỗ trợ của CTXH cho các đối tượng yếu thế vẫn chưa thực sự chuyên nghiệp, trong đó có việc hỗ trợ cho TELT. Với mong muốn tìm hiểu vai trò của CTXH trong việc hỗ trợ cho trẻ em lang thang, hiệu quả hoạt động CTXH hỗ trợ cho các em như thế nào và cần làm gì để hoạt động này hiệu quả hơn nữa, tác giả quyết định chọn đề tài “Công tác xã hội đối với trẻ em lang thang từ thực tiễn thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dƣơng” làm đề tài nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Dương Kim Hồng và Kenichi Ohno (2005) trong nghiên cứu về “Trẻ đường phố Việt Nam, những nguyên nhân truyền thống và những nguyên nhân mới, mối quan hệ giữa các nguyên nhân này trong nền Kinh tế đang phát triển” diễn đàn 3 phát triển Việt Nam tháng 1-2005. Tác giả đã đưa ra nhiều nguyên nhân khác nhau đưa đến tình trạng trẻ em đường phố, bao gồm nguyên nhân truyền thống: trẻ mồ côi, trẻ có cha mẹ li dị và những nguyên nhân mới như về kinh tế. Trong bài viết này, các tác giả đã điểm lại định nghĩa và phân loại trẻ đường phố các nghiên cứu trước đây. Tình hình trẻ đường phố ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh cũng được so sánh trong điều kiện thời gian thay đổi. Bài viết cũng nêu lên một cách phân loại trẻ đường phố mới dựa trên tiêu chí nguyên nhân và hoàn cảnh. Trong đó, nguyên nhân được phân thành gia đình tan vỡ, vấn đề nhận thức, và di cư kinh tế. Hoàn cảnh được phân thành những đảm bảo hiện tại và đầu tư cho tương lai. Bài viết cũng chỉ ra rằng những trẻ lang thang do nguyên nhân gia đình không hạnh phúc là nhóm trẻ khó hỗ trợ nhất trong khi đó thì nhóm trẻ di cư kinh tế lại luôn mong muốn được đi học và có một cuộc sống tốt hơn, những can thiệp trợ giúp trẻ cũng cần phải điều chỉnh sao cho phù hợp với nhu cầu của từng nhóm trẻ. Tác giả Vũ Dũng trong đề tài điều tra “Nghiên cứu sự thích ứng xã hội của các nhóm xã hội yếu thế ở nước ta hiện nay 2011-2012” (năm 2012) cũng đã chỉ ra rằng: Đa số trẻ em lang thang trong mẫu khảo sát cho thấy cuộc sống của các em phụ thuộc vào sự giúp đỡ của gia đình, người thân và các tổ chức nhân đạo, cũng như phụ thuộc vào sự may rủi trong cuộc sống; đa số các em thiếu niềm tin vào bản thân, nghị lực và ý chí trong các quyết định của cuộc sống. Khi các em chưa tự tin thì sự thích ứng với cuộc sống cũng gặp rất nhiều khó khăn. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng có sự khác biệt khá rõ giữa các nhóm trẻ có đi làm và nhóm trẻ không đi làm, giữa trẻ em đường phố và nhóm trẻ sống cùng gia đình, sống trong các tổ chức nhân đạo. Các em có đi làm, các em không được đi học và các em sống ở đường phố tự tin vào khả năng của mình nhiều hơn cả suy nghĩ về hiện tại và tương lai. Những khó khăn của cuộc sống hàng ngày, những hiểm họa mà các em phải đối mặt giúp các em vững vàng hơn, cứng rắn hơn trong cuộc sống. Trong bài viết“Việc làm và trẻ lang thang tại thành phố Hồ Chí Minh”, Tác giả Lê Thị Mỹ Hiền (năm 2009) đã khái quát chung tình hình trẻ lang thang tại thành phố Hồ Chí Minh, liệt kê một số công việc và và đặc điểm các công việc mà 4 TELT thường làm để kiếm sống. Bài viết cũng đã mô tả sơ lược các hoạt động của mộ số cơ sở hỗ trợ dạy nghề và việc làm cho trẻ trong đó tập trung vào mô hình đơn vị việc làm – xã hội của dự án Tương Lai (Hội Bảo trợ trẻ em Thành phố Hồ Chí Minh). Qua đó nêu ra những thuận lợi và khó khăn trong việc đào tạo và giải quyết việc làm cho trẻ ở những cơ sở xã hội nói chung, đưa ra một số giải pháp để khắc phục những khó khăn đó như: chú trọng mở rộng các mô hình hỗ trợ dạy nghề, việc làm cho trẻ lang thang; sử dụng các phương pháp của CTXH vào việc hỗ trợ cho các em,… Tác giả Phạm Xuân Thắng trong đề tài “Đánh giá mô hình can thiệp với trẻ em lang thang nhìn từ góc độ Quản lý ca” (năm 2014), (Nghiên cứu tại Tổ chức trẻ em Rồng Xanh) đã nhấn mạnh ý nghĩa của hoạt động Công tác xã hội chuyên nghiệp, cho thấy được vai trò quan trọng các chương trình, dịch vụ xã hội chuyên nghiệp trong việc góp phần giúp đỡ, hỗ trợ người yếu thế, cụ thể là nhóm đối tượng TELT. Từ việc áp dụng mô hình quản lý ca với nhóm thân chủ TELT; Đề tài đã tập trung phân tích hiệu quả của quy trình quản lý ca với nhóm thân chủ TELT tại Quỹ trẻ em Rồng Xanh, từ đó nhìn nhận thực trạng CTXH đối với TELT. Tuy nhiên tác giả chưa tìm ra được giải pháp nào để nâng cao hoạt động CTXH đối với TELT tại cơ sở. Ngoài các nghiên cứu trên còn có một số đề tài và chương trình hành động khác như: Tác giả Đỗ Ngọc Phương (1995)“Trẻ em lang thang – một số vấn đề xã hội cần được quan tâm”; Chương trình hành động Quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2001- 2010; Bộ Lao động -Thương binh xã hội – Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn định hướng và giải pháp; Chỉ thị 06-98-CT/TTG ngày 23/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác bảo vệ trẻ em, ngăn ngừa và giải quyết tình trạng TELT, trẻ em bị lạm dụng sức lao động. Các nghiên cứu trước đây chủ yếu đi sâu tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến việc trẻ rời bỏ gia đình để đi lang thang; lý giải lý do vì sao các em không nhận được sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ, gia đình như những trẻ em khác; nêu ra những nguy cơ, rủi ro mà các em có thể đối mặt. Tuy nhiên, lại chưa có nhiều nghiên cứu về vai 5 trò của hoạt động CTXH với TELT. Vấn đề được đặt ra là CTXH có vai trò gì trong việc giúp đỡ cho TELT, và những giải pháp nào cho việc phát triển CTXH trong việc hỗ trợ cho TELT. Đề tài “Công tác xã hội đối với trẻ em lang thang từ thực tiễn thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dƣơng” sẽ phân tích và đưa ra những giải pháp nhằm giảm thiểu thực trạng TELT không nơi nương tựa; kết nối các em với các tổ chức công tác xã hội để giúp các em có cuộc sống đầy đủ, ổn định; bảo vệ và chăm sóc các em; hướng tới mục tiêu tạo cơ hội phát triển bình đẳng và toàn diện cho mọi trẻ em. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu và đánh giá đúng thực trạng CTXH đối với TELT tại Tp Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động CTXH đối với TELT trong giai đoạn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện những mục đích nghiên cứu đề ra, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu một số cơ sở lý luận về trẻ em, trẻ em lang thang, công tác xã hội và công tác xã hội đối với trẻ em lang thang. - Tìm hiểu thực trạng CTXH đối với TELT từ thực tiễn tại Tp Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. - Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến thực trạng CTXH với TELT tại Tp Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. - Đề xuất giải pháp góp phần đảm bảo hoạt động CTXH đối với TELT tại Tp Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Công tác xã hội với trẻ em lang thang tại thành phố Thủ Dầu Một, Tỉnh Bình Dương 6 4.2 . Phạm vi nghiên cứu *Nội dung: - Thực trạng CTXH đối với TELT từ thực tiễn các trung tâm bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh Bình Dương. - Nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng trẻ em lang thang . - Giải pháp đảm bảo hoạt động CTXH đối với TELT tại cộng đồng và các trung tâm bảo trợ xã hội trên địa bàn Tp Thủ Dầu Một, Tỉnh Bình Dương. *Không gian và thời gian: - Không gian nghiên cứu: Chủ yếu ở phường Chánh Nghĩa, Phú Cường và Phú Lợi thuộc thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương trong giai đoạn 20112016. - Thời gian khảo sát: từ tháng 2/2016 – 6/2016. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Thông qua nghiên cứu, thu thập, xử lý, khái quát hóa những thông tin, những nghiên cứu thuộc các vấn đề liên quan đến đề tài theo Chủ nghĩa Duy vật biện chứng; hay theo hướng mặt cắt dọc hoặc cắt ngang. Từ đó phân tích đánh giá thực trạng, tổng hợp nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho vấn đề nghiên cứu: Công tác xã hội đối với trẻ em lang thang. 5.2. Phương pháp nghiên cứu 5.2.1 Phương pháp nghiên cứu định lượng Công cụ thu thập thông tin chủ yếu được thực hiện là bảng hỏi cấu trúc. Số đơn vị mẫu là 120 TELT độ tuổi khoảng (10 – 16 tuổi). Đề tài chọn phương pháp chọn mẫu chỉ tiêu, phi xác xuất (60 nam và 60 nữ). Về địa điểm lấy mẫu: TELT tại các phường Chánh Nghĩa, Phú Cường, Phú Lợi và vùng ven của 3 địa bàn này tại thành phố Thủ Dầu Một. (các phường này là phường trung tâm của thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Ở đây dân cư buôn bán đông đúc, cơ sở hạ tầng phát triển cộng với đời sống và thu nhập của người dân cao nên đây là nơi tập trung nhiều TELT). 7 5.2.2 Phương pháp nghiên cứu định tính Trong quá trình nghiên cứu để có được các đơn vị mẫu phỏng vấn sâu, tác giả đã thực hiện như sau: Tổng số đơn vị mẫu là 20 bao gồm: Trẻ em lang thang, Cán bộ quản lý, Nhân viên công tác xã hội, Cộng tác viên tại ấp/khu phố. Đối với các đơn vị mẫu TELT: Tác giả đã cùng tham gia một số hoạt động tại các công viên để có thời gian quan sát và tham gia hoạt động nhóm cùng các TELT ở đây. Trong quá trình chơi cùng trẻ và nói chuyện tác giả có cơ hội tiếp cận trẻ cũng như tạo được sự gần gũi với trẻ để trẻ có thể thoải mái chia sẻ những câu chuyện cũng như suy nghĩ của mình. Đối với đơn vị mẫu là cán bộ quản lý, nhân viên xã hội và cộng tác viên ở cộng đồng làm công tác chăm sóc và bảo vệ trẻ em: trong thời gian thu thập dữ liệu tác giả đã tham gia một số khóa tập huấn và các hội thảo có sự tham gia chia sẻ của các chuyên gia và nhân viên xã hội đang công tác trong các cơ sở xã hội có trẻ lang thang. Nội dung phỏng vấn được ghi chép lại và sử dụng để đối chiếu với kết quả đã thu được từ phương pháp nghiên cứu định lượng. 5.2.3 Phương pháp phân tích tư liệu sẵn có Đề tài thu thập những thông tin sẵn có từ các công trình nghiên cứu khoa học đã được xuất bản hoặc đăng tải trên các tạp chí khoa học, báo chí, mạng internet, các báo cáo tổng hợp liên quan tới TELT, công tác xã hội với TELT. Từ đó phân tích và ứng dụng những thông tin phù hợp vào trong nghiên cứu đề tài. Dựa trên những tài liệu liên quan mà Tác giả đã thu thập được từ các phương tiện thông tin đại chúng: báo in, báo mạng, các diễn đàn, mạng xã hội, báo cáo chuyên đề, sách tham khảo, kỷ yếu... để có cái nhìn rõ nét về vấn đề nghiên cứu cũng như để làm cơ sở lý luận cho đề tài. Các tư liệu thu thập được đều được sắp xếp, phân tích và hệ thống hóa trong đề tài. 5.2.4 Phương pháp xử lý dữ liệu Các thông tin dữ liệu thu thập được sẽ được xếp thành các chủ đề xoay quanh đề tài, làm cơ sở lý luận cho đề tài. Các thông tin định lượng sẽ được xử lý bằng 8 phần mềm SPSS. Các thông tin định tính sẽ được tiến hành gỡ băng, mã hóa và được trình bày thành văn bản chi tiết, thông tin thu thập được sẽ được lọc ra, sử dụng theo chủ đề dưới dạng các trích dẫn, được phân tích vào các nội dung nghiên cứu của đề tài, sử dụng cùng với các thông tin định lượng để làm rõ hoặc chứng minh thêm các luận điểm được trình bày trong bài viết. 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của Luận văn 6.1 Ý nghĩa lý luận Trước tiên, đề tài nghiên cứu chỉ ra việc vận dụng những kiến thức chuyên ngành CTXH: Công tác xã hội với cá nhân, nhóm (CTXH với TELT), công tác xã hội trong lĩnh vực gia đình và trẻ em, công tác xã hội trong trường học (với trẻ, với giáo viên dạy trẻ, với phụ huynh, với người quản lý). Thứ hai, Đề tài “Công tác xã hội đối với trẻ em lang thang từ thực tiễn thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dƣơng” góp phần làm phong phú thêm lý luận và thực hành của môn học CTXH với nhóm dễ bị tổn thương, môn CTXH với TELT... Kết quả của đề tài cũng sẽ góp phần nâng cao nhận thức cho các cơ quan chức năng (trong công tác với gia đình và trẻ em), các cơ sở xã hội, nhân viên xã hội, nhân viên tâm lý trong việc ứng dụng của ngành CTXH đối với đối tượng TELT. Bên cạnh, đề tài sẽ là tài liệu tham khảo cho những sinh viên chuyên ngành CTXH và tâm lý trong việc tìm hiểu và làm việc trực tiếp với TELT. Những kết quả thu được trên cơ sở nghiên cứu thực nghiệm sẽ góp phần làm phong phú thêm nguồn dữ liệu tham khảo, bổ sung hệ thống kiến thức chuyên ngành CTXH trong lĩnh vực gia đình và trẻ em. 6.2 Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể nhận thấy rõ vai trò của ngành CTXH trong xã hội hiện nay. Là cơ sở để các cơ quan, ban ngành, đoàn thể có những văn bản chỉ đạo phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả công tác; đồng thời hỗ trợ các cơ quan nhà nước, các đoàn thể xã hội, tổ chức quần chúng và các tổ chức quốc tế ngày càng quan tâm trong việc cải tiến chính sách, giải quyết vấn đề lao động trẻ em tại Việt 9 Nam nói chung, tại tỉnh Bình Dương nói riêng; đồng thời có thể mở rộng mức độ nghiên cứu thực trạng TELT trên phạm vi và cấp độ lớn hơn. Từ nghiên cứu thực trạng trên qua các phương pháp cần thiết trong nghiên cứu thực nghiệm TELT kiếm sống tại Bình Dương, giúp người học sử dụng nhuần nhuyễn hơn các lý thuyết về CTXH, cũng cố thêm các lý luận khoa học và các học thuyết về an sinh xã hội trong nghiên cứu của mình. Góp phần cung cấp tư liệu tham khảo trong đào tạo, tập huấn hay các nghiên cứu tiếp theo ở các địa bàn, địa phương khác. Từ đề tài này, mọi người thấy được thực trạng khó khăn trong lao động của TELT kiếm sống, những rủi ro mà các em có thể gặp phải trong cuộc sống thường nhật, nhìn nhận được tính cấp thiết về lao động trẻ em và qua đó có cái nhìn tích cực khi xem xét thực trạng này. Nghiên cứu góp phần cung cấp thông tin với địa phương và các tổ chức xã hội, đề xuất các phương án cũng như khuyến nghị để giảm thiểu thực trạng trên; đồng thời đưa ra các giải phải tích cực hơn, để có các chính sách hỗ trợ giúp các em có cuộc sống tốt hơn và hòa nhập cộng đồng. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Các phụ lục, Luận văn có các chương sau đây: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác xã hội đối với trẻ em lang thang. Chương 2: Công tác xã hội đối với trẻ em lang thang từ thực tiễn thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Chương 3: Định hướng và giải pháp cho việc đảm bảo thực hiện công tác xã hội đối với trẻ em lang thang. 10 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM LANG THANG 1.1. Cách tiếp cận và các lý thuyết áp dụng trong nghiên cứu 1.1.1. Cách tiếp cận hệ thống và Lý thuyết hệ thống sinh thái Đề tài luận văn này áp dụng cách tiếp cận và lý thuyết hệ thống làm cơ sở lý luận cho quá trình nghiên cứu. Cách tiếp cận về môi trường hệ thống được sử dụng trong đề tài nhằm nổi bật sự tương tác giữa con người và môi trường xã hội và vật lý. Cách tiếp cận này cho phép chúng ta giải thích được hành vi của con người khi đặt con người trong môi trường sống hiện tại của họ. Môi trường được nói đến ở đây là môi trường xã hội. Hệ thống là một tập hợp các phần tử khác nhau, giữa chúng có mối liên hệ và tác động qua lại theo một quy luật nhất định tạo thành một chỉnh thể, có khả năng thực hiện những chức năng cụ thể. Mỗi hệ thống bất kỳ nào đều có các thành tố: hành vi, cấu trúc, văn hóa và diễn biến của hệ thống. Sinh thái được hiểu là những liên hệ, tác động, ảnh hưởng giữa các thành tố cùng tồn tại trong một môi trường sống. Những mối liên hệ này có tính hai chiều và phụ thuộc vào nhau. Để hiểu một yếu tố nào đó trong môi trường, chúng ta phải tìm hiểu cả hệ thống môi trường xung quanh họ, vì vậy bất cứ việc can thiệp hoặc giúp đỡ một cá nhân của một tổ chức nào đó đều liên quan và ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống đó. Lý thuyết hệ thống sinh thái cho rằng, một hệ thống, vừa bao gồm các tiểu hệ thống nhỏ trong nó đồng thời nó cũng là một tiểu hệ thống nằm trong một hệ thống rộng lớn hơn. Hệ thống càng phức tạp thì tổng hợp các tiểu hệ thống và các thành tố càng đa dạng. Giữa các thành tố có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau. Sự thay đổi, biến động của mỗi thành tố trong một hệ thống đều ảnh hưởng, tác động đến các thành tố khác và ngược lại. Bởi những liên hệ đó mà tập hợp các tiểu hệ thống và thành tố tạo thành một sự toàn vẹn, thống nhất. 11 Trên cơ sở lý thuyết hệ thống sinh thái, chúng tôi nhận thấy tại các trung tâm bảo trợ xã hội nói chung; trên địa bàn tỉnh Bình Dương nói riêng là từng hệ thống, bao gồm các tiểu hệ thống: Nhân sự (cán bộ lãnh đạo, nhân viên CTXH, người giáo dục, người chăm sóc, trẻ em lang thang, cộng tác viên chăm sóc sức khỏe của khu phố/phường/ấp), chính sách, đối tác, cơ sở vật chất, tài chính… Mặt khác, Trung tâm bảo trợ xã hội cũng là một tiểu hệ thống nằm trong hệ thống lớn nhằm hỗ trợ cho TELT của tỉnh. Ngoài ra, các trung tâm này còn nằm trong hệ thống kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Dương. Trong quá trình làm việc của nhân viên CTXH với TELT, lý thuyết hệ thống sinh thái giúp họ nhìn nhận một cách tổng thể các tác động ảnh hưởng đến trẻ. Vì bản thân trẻ cũng là một hệ thống do đó khi có vấn đề nảy sinh với trẻ cần phân tích thấu đáo sự tương tác qua lại giữa TELT với hệ thống sinh thái - môi trường xã hội, đặt vấn đề của trẻ trong mối tương tác này để tìm hiểu được nguyên nhân góc rễ, từ đó có hướng giải quyết phù hợp. Các hệ thống thường có sự tương hỗ lẫn nhau. Khi vấn đề của trẻ chưa được giải quyết tốt có thể là do sự xung đột giữa các hệ thống hay rào cản nào đó khiến việc tiếp cận các hệ thống hỗ trợ trẻ chưa được đảm bảo. Việc áp dụng thuyết hệ thống sinh thái sẽ giúp nhân viên CTXH: - Sử dụng và phát huy tối đa khả năng của trẻ trong sự tương tác với các hệ thống khác để giải quyết vấn đề. - Xây dựng mối quan hệ mới giữa trẻ, gia đình trẻ với các hệ thống trợ giúp trong xã hội. - Giúp tăng cường khả năng tương tác giữa trẻ, gia đình trẻ và các hệ thống. - Cải tạo mối quan hệ tương tác giữa các thành viên trong cùng hệ thống. Cụ thể là phá bỏ những hệ thống đóng trong cùng một gia đình. - Giúp phát triển và thay đổi hệ thống chính sách xã hội một cách phù hợp. - Cung cấp trợ giúp thực tế khác khi cần thiết. Để hiểu một yếu tố nào đó trong môi trường, ta phải nghiên cứu cả hệ thống môi trường xung quanh họ. Vì vậy, bất cứ việc can thiệp hoặc giúp đỡ một cá nhân 12 của một tổ chức nào đó đều liên quan và ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống đó. Lý thuyết hệ thống sinh thái có ảnh hưởng rất nhiều đến các phương thức thực hiện trong công tác xã hội như tư vấn, xử lý ca, tư vấn nhóm, tổ chức và phát triển cộng đồng. Theo thuyết này con người có 3 loại hệ thống thỏa mãn cuộc sống như: + Các hệ thống phi chính thức: Gia đình, bạn bè, người đưa thư hay đồng nghiệp… + Các hệ thống chính thức: các nhóm cộng đồng, các tổ chức công đoàn. + Các hệ thống xã hội: như trường học, bệnh viện, cơ quan. Vậy nhiệm vụ của CTXH theo thuyết này là: Tạo dựng mối liên hệ mới giữa cá nhân, nhóm và các hệ thống hỗ trợ; giúp họ điều chỉnh các hành vi, thực hiện sự tương tác mới với các hệ thống nguồn lực khác; giúp điều chỉnh hoặc phát triển các hệ thống chính sách xã hội, an sinh xã hội sao cho phù hợp và giúp thân chủ tiếp cận được với các chính sách đó. Áp dụng lý thuyết để biết được các thành tố tác động và nguyên nhân dẫn đến trẻ lang thang. Từ đó nhân viên xã hội có thể tác động lên các hệ thống như gia đình, trường học, tổ chức xã hội để giảm tình trạng trẻ em bỏ nhà đi lang thang, lao động sớm. Trong bất kì một lĩnh vực của CTXH chúng ta có thể kết hợp nhiều lý thuyết vào để thực hành hoặc giải quyết trường hợp. Vai trò của nhân viên công tác xã hội khi làm việc với TELT là: + Nhận biết được các nhu cầu của trẻ đứng trên quan điểm phát triển để từ đó giải quyết các vấn đề của trẻ. + Hiểu biết sâu, rộng về sự hiểu biết, nhận thức và thế giới nội tâm của trẻ đối với vấn đề đang gặp phải. + Nhân viên xã hội là người có thể giúp các em chia sẻ những khó khăn, những mong muốn của trẻ: Người nhân viên xã hội nên trang bị cho mình những kỹ năng về sinh hoạt cộng đồng, biết tổ chức những cuộc vui chơi dã ngoại cho các em, giúp các em khoay khỏa một phần nào của cuộc sống. Tạo sự thân mật gần gũi với các em như người thân, biết lắng nghe những tâm tư nguyện vọng và tôn trọng những ý kiến của các em để các em biết rằng các em vẫn còn có người để chia sẻ, xã hội còn có những tấm lòng quan tâm đến các em. 13 + Nhân viên xã hội là cầu nối giúp các em tiếp cận được với những nguồn lực xung quanh như gia đình, nhà trường, các tổ chức xã hội… Theo đó, nguy cơ trẻ em lao động sớm, bỏ nhà đi lang thang phải đối diện sớm với các tệ nạn xã hội là điều khó tránh khỏi. Nhiều em khi được hỏi đều trả lời không hiểu biết gì về ma túy, HIV. Nhiều em thường xuyên bị lạm dụng tình dục, đặc biệt số này hầu hết tập trung vào các em lao động trên đường phố hoặc làm ở cơ sở tư nhân; hay giúp việc gia đình. Đối với trẻ làm việc tại các cơ sở tư nhân, rất ít trẻ được chủ đối xử tốt. Vậy nên trẻ mới cần được yêu thương, được chăm sóc, được sống trong gia đình có bố và có mẹ. Yêu thương là một hành động tác động lớn đến quá trình phát triển tâm sinh lý của trẻ. Và khi được yêu thương thì trẻ sẽ không có những biểu hiện tiêu cực như: muốn bỏ nhà đi, chán nản. Nhu cầu về học tập, vui chơi, giải trí đối với các em cũng chưa được đáp ứng. Các em bỏ nhà đi lang thang chủ yếu là đi kiếm sống do gia đình khó khăn về mặt kinh tế, gia đình có vấn đề, bố mẹ li hôn hoặc các em gặp những khó khăn khi tham gia các hoạt động ngoài xã hội; một bộ phận là chán học, ham chơi, nghiện game,... Một trong những mong muốn của các em trẻ lang thang là mong muốn được hỗ trợ học nghề. Các em mong muốn được đi học nghề để có thể tìm được việc làm với thu nhập ổn định, để có thể nuôi sống được bản thân và phụ giúp gia đình; điều này phản ảnh được một thực tế là các em vẫn muốn có một nghề ổn định để có cơ hội phát triển: TELT mong muốn nhận được sự tôn trọng từ người lớn, bạn bè cùng trang lứa. Tuy nhiên trên thực tế trẻ vẫn bị đối xử hà khắc, khinh miệt từ mọi người xung quanh, làm cho trẻ mất tự tin và trở nên hung hăng hơn. Đó là những nhu cầu cơ bản và thiết thực của các em, nhu cầu mà đáng ra đứa trẻ nào cũng phải được hưởng mà các em lại không hề được đáp ứng, đó chính là nhiệm vụ mà người làm công tác xã hội cần phải làm. Để làm được điều đó, nhân viên công tác xã hội phải nhận biết được những nguyên nhân gây nên vấn đề của trẻ để tìm cách giải quyết phù hợp. Như vậy sự thiếu quan tâm trong gia đình lại là vấn đề đẩy trẻ đến tình trạng trẻ phải rời gia đình đi lang thang và phải tham gia lao động sớm để kiếm sống? Trẻ em là lứa tuổi đang trong quá trình phát triển mạnh về mặt thể xác cũng như tâm sinh lý, đây là 14 lứa tuổi dễ bị tổn thương và cần được yêu thương chăm sóc. Điều đó đồng nghĩa với việc khi không được bố mẹ hay các thành viên trong gia đình dành sự quan tâm chăm sóc thì trẻ dễ bị chán nản và dẫn đến những suy nghĩ tiêu cực. Theo nghiên cứu của bác sỹ Nguyễn Hữu Cầu (Đặc điểm tâm lý của trẻ em côi cút ở Quảng Ninh) cho thấy là “Trong sự phát triển nhân cách của trẻ, yếu tố tình cảm vô cùng quan trọng… sự thiếu hụt tình cảm sẽ dẫn tới sự phát triển lệch lạc nhân cách…”. Điều đó cho thấy rõ một điều rằng nếu không nhận được sự quan tâm đầy đủ từ phía gia đình thì trẻ rất dễ bị hư hỏng và dẫn tới suy nghĩ là bỏ nhà đi kiếm sống. Khi ra xã hội với tâm trạng chán nản như vậy thì trẻ rất dễ bị nhiễm các thói hư tật xấu và sẵn sàng làm việc gì miễn là có tiền, các em còn nhỏ nhưng đã phải nghĩ cách để mưu sinh, nhu cầu sinh tồn được đặt lên hàng đầu; chính vì thế nhiều TELT rơi vào các tệ nạn như ma túy, mại dâm, móc túi, đánh nhau… Các em ra khỏi nhà đi kiếm sống do cảm thấy bị ngột ngạt và chán nản về mặt tinh thần nghiêm trọng nên muốn ra ngoài để tìm cảm giác thoải mái và tự do. Bên cạnh đó còn nhiều nguyên nhân khác như do gia đình tan vỡ làm cho con cái bị hoang mang và lo sợ, điều đó dẫn đến tình trạng muốn thoát ra khỏi gia đình để tự do vì do bố mẹ không sống với nhau nữa. Trong giai đoạn này trẻ thường có suy nghĩ là bố mẹ bỏ nhau thì mình đi “bụi” cho họ biết. Bên cạnh những nguyên nhân chính như vừa đề cập ở trên, còn có hàng loạt các nguyên nhân khác tác động đến việc trẻ em: Do cha mẹ mất sớm trẻ phải tự bươn chải kiếm sống để nuôi thân, do ý thích muốn tự khẳng định mình, do bị đánh đập đối xử tàn tệ… nên bạn bè xấu dễ rủ rê lôi kéo trẻ. Trẻ khó có đủ khả năng để chống chọi lại với những tệ nạn xã hội, thói hư tật xấu đang rình rập xung quanh cuộc sống của mình. 1.1.2. Lý thuyết nhu cầu Nhu cầu là cái gì đó được cho là cần thiết, đặc biệt khi nó được cho là thiết yếu cho sự sinh tồn của một con người, một tổ chức hay bất kỳ thứ gì khác. Nhà tâm lý học người Mỹ Abraham Maslow [10, tr.103] được xem là cha đẻ của lý thuyết nhu cầu. Theo ông, hành vi của con người bắt nguồn từ nhu cầu của họ. Nhu cầu tự nhiên của con người được chia thành các thang bậc khác nhau theo thứ tự 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan