Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Công tác xã hội đối với người nghèo trong giảm nghèo bền vững từ thực tiễn tỉnh ...

Tài liệu Công tác xã hội đối với người nghèo trong giảm nghèo bền vững từ thực tiễn tỉnh hà giang

.PDF
104
1145
84

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN HỮU ĐIỆP CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHÈO TRONG GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH HÀ GIANG Chuyên ngành: Công tác xã hội Mã số: 60. 90. 01. 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN NGỌC TOẢN HÀ NỘI, 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn cao học về đề tài “Công tác xã hội đối với người nghèo trong giảm nghèo bền vững từ thực tiễn tỉnh Hà Giang” là công trình do chính tôi thực hiện. Mọi số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và được trích dẫn tài liệu đã công bố và cập nhật chính xác. Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày 14 tháng 8 năm 2016 TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Hữu Điệp MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHÈO TRONG GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG ..................................... 10 1.1. Lý luận về người nghèo ............................................................................. 10 1.2. Lý luận về công tác xã hội đối với người nghèo........................................ 16 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội đối với người nghèo ............... 28 1.4. Văn bản pháp lý liên quan đến công tác xã hội đối với người nghèo........ 30 Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHÈO TRONG GIẢM NGHÈO BỀN VỮNGTRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG .......... 36 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Hà Giang ..................................... 36 2.2. Thực trạng hoạt động công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững ở tỉnh Hà Giang ........................................................................................................... 38 2.3. Thực trạng yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững ................................................................................................................... 52 Chương 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHÈO TRONG GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG ....................... 59 3.1. Định hướng giảm nghèo bền vững của Hà Giang đến năm 2020 .............. 59 3.2. Giải pháp tăng cường và phát triển công tác xã hội đối với người nghèo . 60 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 73 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 75 PHỤ LỤC .................................................................................................................... 77 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TT 1 2 3 Từ viết tắt Từ đầy đủ 4 ABCD 5 6 MTQG MTTQ Mục tiêu quốc gia Mặt trân tổ quốc Participatory Rural Appraisal (Là phương 7 PRA pháp đánh giá nhanh nông thôn có người dân tham gia trong phát triển cộng đồng) DTTS Dân tộc thiểu số BHYT CTXH Bảo hiểm y tế Công tác xã hội Là phương pháp nghiên cứu phát triển dựa vào nội lực của cộng đồng DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Một số chỉ tiêu về huy động vốn cho giảm nghèo ......................... 42 Bảng 2.2: Hỗ trợ tín dụng cho sản xuất của hộ nghèo .................................... 43 Bảng 2.3: Tổng hợp số liệu hỗ trợ về Giáo dục .............................................. 47 Bảng 2.4: Số liệu hỗ trợ y tế cho người nghèo của tỉnh Hà Giang ................. 49 Bảng 2.5: Một số yếu tố thuộc về bản thân người nghèo ............................... 53 Bảng 2.6: Một số yếu tố thuộc về cán bộ làm CTXH ..................................... 54 Bảng 2.7: Một số yếu tố thuộc về cán bộ lãnh đạo địa phương .................... 55 Bảng 2.8: Một số yếu tố thuộc về phong tục tập quán ................................... 56 Bảng 2.9: Một số yếu tố thuộc về tài chính cho giảm nghèo ........................ 57 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Giảm nghèo là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng và Nhà nước nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, địa bàn và giữa các dân tộc, nhóm dân cư, là một trong những nội dung quan trọng để thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính sách giảm nghèo đã và đang được hoàn thiện, mang tính hệ thống, hỗ trợ hiệu quả và toàn diện đối với người nghèo. Thông qua thực hiện đồng bộ hệ thống chính sách giảm nghèo, Việt Nam đã đạt được một bước tiến ấn tượng trong công tác giảm nghèo những năm vừa qua. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước đã giảm từ 58% (năm 1993) xuống còn 14,2% (năm 2010) và dưới 4,5% (năm 2015)... Cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các huyện nghèo, xã nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được tăng cường, đời sống người dân không ngừng được cải thiện cả về sinh kế và tiếp cận các dịch vụ xã hội. Thành tựu giảm nghèo của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế vinh danh, được Liên Hiệp Quốc đánh giá là một trong các nước có thành tích giảm nghèo ấn tượng nhất trong thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ. Trong quá trình triển khai thực hiện chính sách, chương trình giảm nghèo giai đoạn 2011-2015, công tác xã hội đã trở thành một trong những công cụ giúp người nghèo giảm nghèo bền vững. Công tác giảm nghèo trên cả nước nói chung, trên địa bàn tỉnh Hà Giang nói riêng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo giảm khá nhanh, đạt được mục tiêu đã đề ra. Tuy nhiên, giảm nghèo còn chưa bền vững, tái nghèo cao; một số chính sách hỗ trợ người nghèo còn thực hiện chưa hiệu quả; một bộ phận người nghèo còn có thái độ trông chờ, ỷ lại; cơ chế phân cấp, trao quyền cho người dân chưa được thực hiện tốt; nguồn lực cho giảm nghèo còn thấp, chủ yếu dựa vào ngân sách… Điều này do nhiều nguyên nhân khác nhau 1 nhưng một nguyên nhân quan trọng là chúng ta chưa có một đội ngũ nhân viên công tác xã hội (CTXH) chuyên nghiệp, những cán bộ làm công tác giảm nghèo đa phần lại kiêm nhiệm và thiếu các kiến thức, phương pháp và kỹ năng CTXH trong việc hỗ trợ cho người nghèo. Trong thời gian tới, việc thay đổi cách tiếp cận giải quyết vấn đề nghèo từ đơn chiều sang đa chiều, đòi hỏi cần phải phát huy vai trò của CTXH cũng như tăng cường các hoạt động CTXH chuyên nghiệp trong trợ giúp người nghèo thoát nghèo bền vững nhằm phát huy tối đa hiệu quả nguồn lực, sự phối kết hợp của các cơ quan, ban ngành cũng như sự tham gia tích cực của người dân trong toàn bộ quá trình xây dựng, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát các chính sách, chương trình, dự án giảm nghèo. Vì vậy, đề tài luận văn “Công tác xã hội đối với người nghèo trong giảm nghèo bền vững từ thực tiễn tỉnh Hà Giang” là cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Ở Việt Nam trong những năm qua cũng có rất nhiều công trình và đề tài khoa học nghiên cứu về vấn đề nghèo và giảm nghèo như: Trần Tiến Khai & Nguyễn Ngọc Danh (2012), với “Quan hệ giữa sinh kế và tình trạng nghèo ở nông thôn Việt Nam”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, Mã số: CS-2012-02 đã khẳng định: Tình trạng nghèo không chỉ được đo lường bằng chi tiêu hay thu nhập, mà còn bằng các chỉ báo về mức sống chỉ ra phúc lợi kinh tế - xã hội mà hộ gia đình có được. Nghiên cứu đã nhằm đến việc khám phá các quan hệ qua lại giữa tình trạng nghèo về tiền và các đặc trưng kinh tế - xã hội khác của hộ gia đình ở nông thôn Việt Nam dựa trên cách tiếp cận sinh kế và tìm kiếm các chỉ báo kinh tế - xã hội phù hợp cho đo lường nghèo đa chiều. Kết quả nghiên cứu xác nhận rằng có tối thiểu 10 chiều đo lường cho tình trạng nghèo đa chiều và đại diện cho bốn nhóm tài sản sinh kế. Một số biến định lượng và phân loại được trích ra và sử dụng như là các chỉ báo phù hợp cho đo lường 2 nghèo đa chiều. Phân loại hộ dựa trên tình trạng nghèo đa chiều tỏ ra có hiệu quả thống kê tốt hơn khi tính đồng nhất trong từng nhóm được cải thiện rõ ràng so với phân loại hộ dựa trên chi tiêu bình quân đầu người. Nguyễn Đức Nhật và nhóm chuyên gia (2013) đã có công trình “Nghiên cứu mô hình giảm nghèo của các đối tác quốc tế ở Việt Nam”, Báo cáo trong khuôn khổ dự án “Hỗ trợ thực hiện Nghị quyết 80/NQ-CP về định hướng giảm nghèo bền vững (2011-2020) và Chương trình mục tiêu quốc gia về Giảm nghèo bền vững (2012-2015)”, do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Tổ chức UNDP, Tổ chức Iris Aid đã tài trợ. Kết quả nghiên cứu đã khẳng định: tình trạng đói nghèo ở mỗi vùng miền có đặc tính khác nhau và cần các phương pháp tiếp cận khác nhau; trong thực thi cần chú trọng tính tự chủ của địa phương, sự tham gia của người dân và lựa chọn đối tác triển khai phù hợp. Quá trình phân tích chỉ ra rằng, mô hình của các tổ chức quốc tế thành công hơn bởi họ tuân thủ các nguyên tắc của lý thuyết kinh tế, xây dựng động lực tham gia của các bên và trao quyền tự quyết cho người dân. Các mô hình quốc tế cũng triển khai theo hướng nhỏ, chậm chắc và chú trọng về nâng cao năng lực so với các chương trình đại trà nhanh và thiếu kiểm tra đánh giá của nhà nước. Phạm Thái Hưng và cộng sự (2010) có bài “Nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam Thực trạng và thách thức tại các xã đặc biệt khó khăn thuộc Chương trình 135-II”, Hà Nội. Nghiên cứu này đã khai thác các khía cạnh quan trọng về mức sống của đồng bào các dân tộc thiểu số (DTTS); mô tả một cách toàn diện về tình trạng nghèo và vấn đề mức sống của nhóm DTTS ở các xã đặc biệt khó khăn. Mô tả này tập trung ở khía cạnh nghèo về thu nhập và các khía cạnh phi tiền tệ của vấn đề mức sống kinh tế (như: tiếp cận giáo dục, dịch vụ y tế và phát huy tính chủ động,...). Đồng thời nghiên cứu về các yếu tố quyết định chênh lệch thu nhập giữa nhóm đa số và nhóm DTTS khác bằng cách phân tích chênh lệch thu nhập: một là khác biệt về các 3 đặc điểm và nguồn lực giữa các nhóm dân tộc, hai là sự khác biệt về thu nhập từ các đặc điểm và nguồn lực, ba là đã tìm hiểu đồng bào các DTTS nghèo được hỗ trợ từ những chính sách và chương trình hiện tại như thế nào. Sau những phân tích đó tác giả đã có những kiến nghị cho các chính sách và chương trình trong tương lai nhằm đưa ra những hỗ trợ hiệu quả hơn cho việc nâng cao mức sống đối với nhóm DTTS. Chương trình Chia Sẻ - SIDA (2009), báo cáo “Các nhân tố hỗ trợ và cản trở hộ nghèo tiếp cận các nguồn vốn sinh kế để giảm nghèo bền vững” trong khuôn khổ thực hiện các dự án nâng cao năng lực phát triển cộng đồng đã xác định những nhân tố thuận lợi và cản trở hộ nghèo tiếp cận các nguồn lực để giảm nghèo bền vững. Theo đó, 5 nguồn vốn sinh kế đã được phân tích bao gồm: nguồn vốn con người; nguồn vốn vật chất; nguồn vốn tài chính; nguồn vốn xã hội; nguồn vốn tự nhiên. Nghiên cứu cũng chỉ rõ: sự đóng góp các nguồn vốn sinh kế vào trong quá trình giảm nghèo đối với các nguồn vốn có sự khác nhau. Vì vậy, cần có cách điều chỉnh khác nhau trong việc tác động các nguồn vốn sinh kế vào mục tiêu giảm nghèo. Xét trong ngắn hạn, nguồn vốn tài chính và một phần nguồn vốn con người có tác động tích cực trong quá trình giảm nghèo. Việc hỗ trợ gia tăng nguồn vốn tài chính từ các kênh khác nhau sẽ làm tăng nguồn vốn sản xuất kinh doanh của hộ. Và điều này mang lại kết quả giảm nghèo trong ngắn hạn. Bên cạnh đó, việc hỗ trợ gia tăng nguồn vốn con người từ việc đào tạo tập huấn ngắn hạn cũng có tác động nhanh chóng. Xét về trung hạn, sự gia tăng nguồn vốn con người trên khía cạnh giáo dục, cơ sở hạ tầng sẽ mang lại kết quả giảm nghèo về trung hạn, ít nhất là trong thời hạn từ 3 - 5 năm. Ví dụ, việc xây dựng đường giao thông hay cầu cống chỉ mang lại hiệu quả tốt cho giảm nghèo khi mà sản xuất của họ đã phát triển đến mức có thể tiếp cận với thị trường để gia tăng thu nhập. Hoặc là việc đào tạo chỉ có tác dụng tốt khi người dân được đào tạo đã có quá trình tích lũy kiến thức để có thể phát huy trong đời sống và sản xuất. 4 Viện Khoa học xã hội Việt Nam - VASS: “Giảm nghèo tại Việt Nam: Thành tựu và Thách thức”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội - 2011. Báo cáo đã chỉ ra những thành tựu trong giảm nghèo của Việt Nam trong giai đoạn qua là rất tốt, nhưng không đồng đều và chưa bền vững; Công tác giảm nghèo trong bối cảnh kinh tế mới trong giai đoạn sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới và những thách thức đi kèm trong giai đoạn tới. Báo cáo cũng đã bước đầu chỉ ra phương pháp đo lường nghèo ở Việt nam trong giai đoạn tới cần có sự thay đổi theo hướng người nghèo cần tiếp cận được với các dịch vụ xã hội cơ bản. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2015), “Đề án tổng thể chuyển đổi phương pháp tiếp cận đo lường nghèo từ đơn chiều dựa và thu nhập sang đa chiều áp dụng trong giai đoạn 2016 - 2020”. Đề án đã chỉ ra rằng, nghèo đói thường được xác định bằng thu nhập hoặc chi tiêu và chuẩn nghèo được xác định bằng tiền. Cách xác định này đã bộc lộ những hạn chế như: một số nhu cầu cơ bản của con người không thể quy ra tiền (như tham gia xã hội, an ninh, vị thế xã hội, v.v...) hoặc không thể mua được bằng tiền (tiếp cận giao thông, thị trường và các loại cơ sở hạ tầng khác, an ninh, môi trường, một số dịch vụ y tế, giáo dục công v.v...); có những trường hợp hộ gia đình có tiền nhưng không chi tiêu vào việc đáp ứng những nhu cầu tối thiểu. Điều này cho thấy việc áp dụng duy nhất tiêu chí thu nhập để xác định hộ nghèo đã dẫn đến sự phân loại đối tượng, đánh giá mức độ và nguyên nhân nghèo chưa chính xác vì chưa phản ánh đầy đủ nhu cầu cơ bản, cũng như mức độ tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Chính sách giảm nghèo được xây dựng dựa trên cơ sở sự thiếu hụt thu nhập của hộ để chi trả dịch vụ. Như vậy chưa tính đến các yếu tố không tiếp cận được là do dịch vụ không có sẵn hoặc không phù hợp hoặc do chính người dân từ chối sử dụng. Từ đó chỉ ra cần thay đổi và áp dụng phương pháp xác định nghèo đa chiều. 5 Ngoài ra còn nhiều công trình khoa học, đề tài nghiên cứu của nhiều tác giả khác, mỗi tác giả nghiên cứu ở những góc độ khác nhau của vấn đề đói nghèo và giảm nghèo trong phạm vi cả nước và ở mỗi địa phương, như: Tập thể tác giả, “Nghèo đói và xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam”, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội - 2001; Đinh Đức Thuận và nhóm nghiên cứu Trường Đại học Lâm nghiệp, “Lâm nghiệp, giảm nghèo và sinh kế nông thôn ở Việt Nam”, năm 2005; Nguyễn Trọng Xuân, “Quân đội nhân dân Việt Nam thực hiện nhiệm vụ giúp dân xoá đói giảm nghèo”, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội - 2008; Nguyễn Thị Hằng, “Vấn đề xoá đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay”, Nxb. Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh – 1997; Oxfam, “Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số điển hình ở Việt Nam” Hà Nội 2013; Viện Khoa học xã hội Việt Nam – VASS, “Giảm nghèo tại Việt Nam: Thành tựu và Thách thức”, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội – 2011, Ngân hàng thế giới tại Việt Nam, “Báo cáo đánh giá nghèo Việt Nam 2012”, Hà Nội - 2012; Luận văn Thạc sĩ của Phạm Ngọc Dũng, “Giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Hà Giang”, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, năm 2015. Tuy nhiên chưa có nghiên cứu về công tác xã hội đối với người nghèo trong giảm nghèo bền vững. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác xã hội đối với người nghèo trong giảm nghèo bền vững qua thực tiễn tỉnh Hà Giang từ đó đề xuất quan điểm, giải pháp tăng cường và phát triển công tác xã hội trong thực hiện giảm nghèo bền vững ở tỉnh Hà Giang, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người nghèo để giảm nghèo bền vững. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa cơ sở lý luận về người nghèo, giảm nghèo bền vững công tác xã hội đối với người nghèo. 6 - Tổng hợp, phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động công tác xã hội trong việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững. - Đề xuất giải pháp tăng cường và phát triển công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững tại tỉnh Hà Giang trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Hoạt động công tác xã hội đối với người nghèo trong giảm nghèo bền vững ở tỉnh Hà Giang. 4.2. Khách thể nghiên cứu - Người nghèo trên địa bàn tỉnh Hà Giang. - Cán bộ làm công tác giảm nghèo, công tác xã hội tại Hà Giang. 4.3. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu các hoạt động CTXH đối với người nghèo, cụ thể là các hoạt động về: hoạt động tuyên truyền vận động; hoạt động kết nối nguồn lực; hỗ trợ về tư vấn, tham vấn; hỗ trợ tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản; hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết việc làm; các yếu tố ảnh hưởng đến CTXH đối với người nghèo. - Thời gian nghiên cứu: từ tháng 12 năm 2015 đến tháng 6 năm 2016. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Phương pháp luận Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác giảm nghèo bền vững. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu kết hợp giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác - xít như: 7 - Phương pháp phân tích tổng hợp: Nghiên cứu và phân tích các tài liệu, các công trình nghiên cứu đã được công bố về giảm nghèo cũng như công tác xã hội. - Phương pháp nghiên cứu các văn bản, tài liệu liên quan: Các tài liệu, báo cáo đánh giá kết quả thực hiện các chính sách, Chương trình MTQG giảm nghèo giai đoạn 2011-2015; các báo kết quả thực hiện Đề án 32. - Phương pháp, thảo luận phỏng vấn sâu đối với cán bộ và hộ nghèo: Học viên tiến hành thảo luận, phỏng vấn sâu với 02 nhóm hộ nghèo và cán bộ làm công tác giảm nghèo tại Bắc Quang, Quản Bạ (mỗi nhóm 15 hộ nghèo và 4 cán bộ) về kết quả thực hiện của một số hoạt động trợ giúp người nghèo. - Phương pháp điều tra xã hội học bằng bảng hỏi: Là phương pháp được thực hiện với nhiều người theo một bảng hỏi in sẵn với 2 dạng câu hỏi chính là: câu hỏi đóng và câu hỏi mở. Người được hỏi trả lời ý kiến của mình bằng cách đánh dấu vào các ô tương ứng hoặc trả lời câu hỏi theo một quy ước mặc định sẵn. Học viên lựa chọn ngẫu nhiên 100 hộ nghèo trên 2 huyện Bắc Quang, Quản Bạ; 20 cán bộ làm công tác giảm nghèo cấp tỉnh, huyện, xã. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Nghiên cứu về công tác xã hội đối với người nghèo trong giảm nghèo bền vững từ thực tiễn tỉnh Hà Giang có ý nghĩa khoa học quan trọng. Các kết quả nghiên cứu trong đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho hoạt động đào tạo CTXH đối với người nghèo, ngoài ra còn có ý nghĩa tham khảo cho những ai đang nghiên cứu, quan tâm về lĩnh vực này 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Phân tích thực trạng các hoạt động công tác xã hội trong hỗ trợ người nghèo giảm nghèo bền vững tại Hà Giang cho thấy vai trò của công tác xã hội có đóng góp rất quan trọng trong việc đánh giá hiện trạng nghèo, triển khai thực hiện các chế độ, chính sách và giải pháp đối với người nghèo. Trên cơ sở 8 đó, đề xuất các giải pháp phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Giang trong việc tổ chức thực hiện chính sách, chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016- 2020. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, nội dung của luận văn còn được chia thành 3 chương sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về công tác xã hội đối với người nghèo trong giảm nghèo bền vững Chương 2: Thực trạng công tác xã hội đối với người nghèo trong giảm nghèo bền vững ở tỉnh Hà Giang Chương 3: Giải pháp nâng tăng cường và phát triển công tác xã hội đối người nghèo trong giảm nghèo bền vững từ thực tiễn tỉnh Hà Giang 9 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHÈO TRONG GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG 1.1. Lý luận về người nghèo 1.1.1. Một số khái niệm 1.1.1.1. Khái niệm nghèo Nghèo là một hiện tượng kinh tế xã hội không chỉ tồn tại ở các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển, mà nó còn tồn tại ngay tại các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Tuỳ thuộc vào điều kiện của mỗi quốc gia mà tính chất, mức độ nghèo của từng quốc gia có khác nhau. Các quốc gia thường xác định nghèo bằng mức thu nhập tối thiểu, đó là mức thu nhập mà hộ gia đình có thể mua sắm vật dụng cơ bản phục vụ nhu cầu thiết yếu theo mức giá hiện hành. Mặc dù vậy, vẫn còn các khái niệm khác nhau. Cụ thể như: Năm 1995, Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại Copenhagen (Đan Mạch) cho rằng người nghèo là những người có thu nhập dưới 1 USD mỗi ngày. Đây là khoản tiền đủ để mua nhu yếu phẩm thiết yếu. Ngoài ra, cũng có quan niệm nghèo có tính triết lý hơn như coi nghèo là sự thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng hoặc nghèo “sự thiếu hụt, hay là sự bất lực trong việc tiếp cận đến một mức sống mà xã hội chấp nhận” (Ngân hàng thế giới, 2001). Hội nghị bàn về xoá đói giảm nghèo do Ủy ban kinh tế xã hội khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (ESCAP) tổ chức tại Băng Cốc Thái Lan tháng 9/1993 cho rằng: Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận, tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của các địa phương. Đây là một trong những định nghĩa chung nhất về nghèo, có tính chất hướng dẫn về phương pháp đánh giá, nhận diện những nét chính phổ biến về nghèo. 10 Ngân hàng Thế giới (WB) cho rằng nghèo là một khái niệm đa chiều vượt khỏi phạm vi túng thiếu về vật chất. Nghèo không chỉ gồm các chỉ số dựa trên thu nhập mà còn bao gồm các vấn đề liên quan đến năng lực như dinh dưỡng, sức khoẻ, giáo dục, khả năng dễ bị tổn thương, không có quyền phát ngôn và không có quyền lực. Nghèo đa chiều không chỉ là thiếu ăn, thiếu uống, hoặc thiếu các điều kiện sống, sinh hoạt khác, mà nghèo còn do các rào cản về xã hội và các tác nhân khác ngăn chặn những cá nhân hoặc cộng đồng tiếp cận với các nguồn lực, thông tin và dịch vụ, nghèo về chất lượng công việc và đe dọa từ hành vi bạo lực. Nghèo không chỉ được đo lường bằng thu nhập, chi tiêu mà còn bởi khả năng tiếp cận một cách đồng thời đến lương thực, nhà ở, giáo dục, chăm sóc sức khỏe và các mức sống xã hội khác, ngay cả các chỉ báo phi vật chất. Nói cách khác, nghèo được phản ánh bằng sự thiếu hụt phúc lợi xã hội ở các khía cạnh khác nhau và có thể được một bộ các chỉ báo đại diện. Tổng hòa các chỉ báo này phản ánh chất lượng cuộc sống. Hiện nay, các tổ chức quốc tế đã áp dụng khái niệm nghèo đa chiều và xây dựng các chỉ số đo lường nghèo đa chiều. Các chỉ số đa chiều phổ biến nhất là Chỉ số nghèo con người (Human Poverty Index - HPI) do Anand và Sen đề xuất (1997), Chỉ số phát triển con người (Human Development Index - HDI) được Liên Hiệp Quốc sử dụng, và Chỉ số nghèo đa chiều (Multidimensional Poverty Index - MPI) do Đại học Oxford và UNDP áp dụng dựa trên phương pháp luận của Alkire và Foster (2007). Ở Việt Nam, nghèo được hiểu thống nhất là tình trạng một bộ phận dân cư chưa bảo đảm các điều kiện thoả mãn những nhu cầu tối thiểu. Cụ thể là có mức sống thấp hơn mức sống của cộng đồng. 1.1.1.2. Khái nhiệm chuẩn nghèo Để đo lường nghèo hay xác định được người nghèo, phải đo lường được tất cả các khía cạnh thiếu hụt hay sự không thỏa mãn tất cả các nhu cầu 11 cơ bản. Ví dụ, nhu cầu ăn (dinh dưỡng, lương thực, thực phẩm,…), nhu cầu về mặc (đẹp, ấm,…), nhu cầu về ở (diện tích, chất lượng nhà ở),.. Trên thực tế, do có sự tương quan khá chặt chẽ giữa mức thu nhập với mức độ tiêu dùng hay thỏa mãn những nhu cầu của con người; xu hướng chung là thu nhập càng cao thì tiêu dùng càng cao. Tiêu dùng này được hiểu là mức độ thỏa mãn các nhu cầu cơ bản càng cao. Vì vậy, chuẩn nghèo (tuyệt đối) thường được xác định trên cơ sở một mức thu nhập hay chi tiêu, mà với mức thu nhập hay chi tiêu đó có thể đảm bảo thoả mãn được những nhu cầu cơ bản phù hợp trình độ phát triển kinh tế xã hội của quốc gia và được gọi là chuẩn nghèo quốc gia. Chuẩn nghèo quốc gia quy định và áp dụng thống nhất trên phạm vi toàn quốc và dùng để xác định hộ nghèo, người nghèo. Chuẩn nghèo không cố định mà thay đổi tùy thuộc vào sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Ở Việt Nam, từ năm 2015 trở về trước, hộ nghèo trên xác định là hộ gia đình có mức thu nhập (bình quân đầu người) thấp hơn hoặc bằng chuẩn nghèo. Giai đoạn 2016-2020, người nghèo, hộ nghèo được xác định dựa trên cả tiêu chí về thu nhập và mức độ tiếp cận các dịch vụ xã hội. Cụ thể: Chuẩn nghèo theo Quyết định số 09 2011 QĐ-TTg ngày 30 01 2011 của Thủ tướng Chính phủ áp dụng cho giai đoạn 2011-2015 là: - Thành thị: Từ 500.000 đồng người tháng trở xuống. - Nông thôn: Từ 400.000 đồng người tháng trở xuống. Chuẩn nghèo theo Quyết định số 59 2015 QĐ-TTg ngày 19 11 2015 về việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020 là: - Hộ nghèo khu vực nông thôn là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau: (1) Có thu nhập bình quân đầu người tháng từ đủ 700.000 đồng trở xuống; (2) Có thu nhập bình quân đầu người tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên. 12 - Hộ nghèo khu vực thành thị là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau: (1) Có thu nhập bình quân đầu người tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống; (2) Có thu nhập bình quân đầu người tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên. Các dịch vụ xã hội cơ bản bao gồm 5 dịch vụ: y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, thông tin. Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản gồm 10 chỉ số: tiếp cận các dịch vụ y tế; bảo hiểm y tế; trình độ giáo dục của người lớn; tình trạng đi học của trẻ em; chất lượng nhà ở; diện tích nhà ở bình quân đầu người; nguồn nước sinh hoạt; hố xí nhà tiêu hợp vệ sinh; sử dụng dịch vụ viễn thông; tài sản phục vụ tiếp cận thông tin. 1.1.1.3. Khái niệm hộ nghèo, người nghèo - Người nghèo là những người thuộc hộ nghèo. - Hộ nghèo là hộ gia đình có mức thu nhập bình quân đầu người thấp hơn chuẩn nghèo. Các nghiên cứu chỉ ra hộ nghèo thường thiếu đất canh tác, thiếu vốn, rơi vào hoàn cảnh nợ nần, nhà cửa và đồ dùng tạm bợ, thiếu kinh nghiệm làm việc, thiếu kiến thức, con cái bỏ học sớm, mù chữ, đau ốm… 1.1.1.4. Khái niệm giảm nghèo và giảm nghèo bền vững - Giảm nghèo được hiểu là giảm tỷ lệ hộ nghèo hay giảm số hộ nghèo trên một địa bàn, hay giảm mức độ nghèo của một cộng đồng, hoặc giảm khoảng cách nghèo của cộng đồng dân cư. Bản chất giảm nghèo là cải thiện hay nâng cao mức độ thỏa mãn các nhu cầu cơ bản và đích là hộ nghèo thoát nghèo, có nghĩa là thỏa mãn các nhu cầu cơ bản ở mức độ cao. - Giảm nghèo bền vững là sự bảo đảm hay duy trì kết quả giảm nghèo một cách lâu dài, bền vững hay nói cách khác giảm nghèo bền vững là tình trạng đạt được mức thỏa mãn những nhu cầu cơ bản mức thu nhập cao hơn mức chuẩn và duy trì được mức thỏa mãn những nhu cầu cơ bản mức thu nhập trên mức chuẩn đó ngay cả khi gặp phải các cú sốc hay rủi ro; giảm nghèo bền 13 vững có thể được hiểu với nghĩa đơn giản là thoát nghèo bền vững, hay không bị tái nghèo. 1.1.2. Đặc điểm của người nghèo 1.1.2.1. Về đặc điểm kinh tế Đại bộ phận người nghèo, hộ nghèo chủ yếu sống ở nông thôn và chủ yếu tham gia vào hoạt động nông nghiệp; không có vốn hay rất ít vốn, thu nhập mà họ nhận được là từ lao động tự tạo việc làm; nếu là những người ở thành thị thì tập trung ở khu vực phi chính thức; thu nhập thấp, trình độ văn hóa thấp; thiếu việc làm hoặc việc làm không ổn định, bấp bênh do trình độ học vấn thấp; khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội thấp, đặc biệt là người nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào sống ở các vùng miền núi, bãi ngang ven biển và hải đảo. 1.1.2.2. Đặc điểm đời sống tâm lý Do khó khăn, thiếu thốn về kinh tế, người nghèo thường mặt cảm, tự ti do hoàn cảnh, số phận của mình, sống thụ động trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ từ các chính sách giảm nghèo trong đó có chính sách cho không của nhà nước, điều kiện sống của người nghèo luôn thấp hơn mặt bằng chung của cộng đồng nơi mình sinh sống. Đối với người nghèo họ luôn trong tình trạng thiếu hụt các nhu cầu xã hội cơ bản từ những nhu cầu thiết yếu nhất, do đó họ gặp rất nhiều nguy cơ trong cuộc sống, phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức trong cuộc sống do phải bảo đảm chi phí đắt đỏ cho các dịch vụ y tế, nhà ở, giáo dục, đi lại và sinh hoạt tối thiểu. Do mặc cảm với cuộc sống nên một số người nghèo ngại giao tiếp và tham gia vào các hoạt động tập thể của cộng đồng, không mạnh dạn tham gia đề xuất ý kiến, cho rằng lời nói của mình không có trọng lượng, không được cộng đồng chấp nhận không dám đấu tranh, không dám bộc lộ bản thân. Bên cạnh đó có một số nhỏ người nghèo vẫn còn tư tưởng buông xuôi, ngại thay đổi, phó mặc cho số phận và chưa thực sự quyết tâm vươn lên để thoát nghèo bền vững. 14 1.1.3. Nhu cầu của người nghèo - Nhu cầu có việc làm, thu nhập ổn định: Phần lớn lao động là người nghèo sống ở nông thôn có công việc không ổn định, thu nhập thấp. Do vậy, họ luôn mong muốn có được công việc, thu nhập ổn định. Có công việc, có thu nhập họ mới có thể trang trải cuộc sống, mới đảm bảo các nhu cầu như ăn, ở, mặc, học tập, chăm sóc sức khỏe cho bản thân và gia đình… - Nhu cầu được học tập: Đây là một trong những nhu cầu quan trọng của người nghèo. Ngoài nhu cầu về học tập phổ thông, người nghèo còn có nhu cầu được đào tạo nghề, trang bị kiến thức, kỹ năng, kỹ thuật sản xuất nhất là sản xuất nông nghiệp. - Nhu cầu được tiếp cận thông tin: Do những hạn chế về thu nhập thấp, thường sống ở vùng sâu, vùng xa nên người nghèo thường thiếu thông tin. Chính vì vậy, họ cũng có nhu cầu được tiếp cận các thông tin về các loại hình thiên tai, hiểm họa tự nhiên, thảm họa, biến đổi khí hậu; thông tin, kiến thức và kỹ năng sản xuất, chăm sóc sức khỏe; thông tin về kinh tế, chính trị, xã hội; thông tin về chính sách, pháp luật, thủ tục hành chính và các loại hồ sơ giấy tờ cần thiết để được nhận hỗ trợ, bảo trợ từ Nhà nước và các tổ chức xã hội…; nhu cầu hỗ trợ các phương tiện thông tin như sách, báo, đài radio… - Nhu cầu được chăm sóc y tế: Đây là nhu cầu có thể nói là rất cần thiết và được đa số người nghèo quan tâm. Bởi đa số họ, do sống trong điều kiện thiếu thốn về vật chất nên dễ ốm đau, bệnh tật, hơn nữa lại thu nhập thấp nên khi mắc bệnh lại không có tiền để chi trả chi phí khám chữa bệnh. - Nhu cầu được sống trong môi trường an toàn, vệ sinh: phần lớn người nghèo sống trong tình trạng thiếu thốn mọi mặt cơ sở vật chất thiết yếu cho cuộc sống. Chính vì vậy, họ đều mong muốn được sống, sinh hoạt và sản xuất trong một môi trường an toàn, đảm bảo những nhu cầu căn bản như nhà ở, điện, nước sạch và thức ăn hợp vệ sinh để có thể đảm bảo cho sức khỏe, có khả năng tái sản xuất sức lao động, tránh bị bệnh tật. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan