Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về từ thực tiễn tỉnh lào cai...

Tài liệu Công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về từ thực tiễn tỉnh lào cai

.DOCX
96
405
100

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN TƢỜNG LONG CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NẠN NHÂN BỊ MUA BÁN TRỞ VỀ TỪ THỰC TIỄN TỈNH LÀO CAI Chuyên ngành: Công tác xã hội Mã số: 60900101 LUẬN VĂN THẠC SỸ CÔNG TÁC XÃ HỘI NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS: Phạm Hữu Nghị HÀ NỘI, 2016 LỜI CAM ĐOAN Luận văn tốt nghiệp được hoàn thành với với sự cố gắng, nỗ lực học tập, nghiên cứu, tìm hiểu một cách nghiêm túc của bản thân. Trong quá trình nghiên cứu tôi có sử dụng các tài liệu có liên quan và được trích dẫn đã ghi trong luận văn. Tôi cam kết những nội dung trong luận văn là đúng sự thật không sao chép của ai, tôi chịu trách nhiệm về những nội dung đã viết trong luận văn. Hà Nội, tháng 6 năm 2016 Học viên Nguyễn Tường Long MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NẠN NHÂN BỊ MUA BÁN TRỞ VỀ........................................................................ 11 1.1.Khái niệm, đặc điểm và nhu cầu của nạn nhân bị mua bán trở về.......................... 11 1.2. Nhu cầu, khái niệm công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về .............. 15 1.3. Nguyên tắc, phương pháp công tác xã hội đối với người bị mua bán trở về ......... 18 1.4. Thể chế về công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về............................ 21 1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về trên địa bàn tỉnh Lào Cai............................................................................................... 25 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG NẠN NHÂN BỊ MUA BÁN TRỞ VỀ VÀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NẠN NHÂN BỊ MUA BÁN TRỞ VỀ TỪ THỰC TIỄN TỈNH LÀO CAI................................................................................................ 27 2.1. Thực trạng nạn mua bán người tại tỉnh Lào Cai .................................................... 27 2.2. Thực trạng tiếp nhận hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về tại tỉnh Lào Cai ............. 43 2.3. Vận dụng phương pháp công tác xã hội cá nhân trong việc hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về............................................................................................................... 57 Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NẠN NHÂN BỊ MUA BÁN TRỞ VỀ.............................. 60 3.1.về.............................................................................................................................. Định hướng bảo đảm thực hiện công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở 64 trở về trên địa bàn tỉnh LUẬN Lào Cai .......................................................................................... 60 KẾT VÀ KIẾN NGHỊ 3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện công tác xã hội với nạn nhân mua bán .................................................................................... 75đốiDANH MỤCbị TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................... 77 LỤC ..................................................................................................................... 80 PHỤ DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BCA: Bộ Công an BLĐTBXH: Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội BNG: Bộ Ngoại giao BQP: Bộ Quốc phòng BTC: Bộ Tài chính CTXH: Công tác xã hội COMMIT: Sáng kiến phối hợp cấp Bộ trưởng về phòng chống buôn bán người IOM: Tổ chức Di cư Quốc tế ILO: Tổ chức Lao động Quốc tế NV CTXH: Nhân viên Công tác xã hội PALS: Tổ chức Vòng tay Thái Bình-Pacifik Links TNXH: Tệ nạn xã hội UBND: Ủy ban nhân dân UNODC: Cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm Liên Hợp Quốc UNIAP: Liên minh Châu Âu phòng chống buôn bán người MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Mua bán người đã và đang trở thành vấn đề bức xúc mang tính toàn cầu, có xu hướng gia tăng ở mọi quốc gia trên thế giới. Nạn buôn người mang đến niềm bất hạnh cho mỗi nạn nhân, gia đình và toàn xã hội. Nạn nhân bị mua bán người trở về chịu sự tổn thương cả về thể chất lẫn tinh thần, gặp khó khăn trong việc tái hòa nhập cộng đồng, trở thành gánh nặng ngân sách của Nhà nước, tác động xấu đến trật tự an ninh, xã hội. Theo Báo cáo tổng kết chương trình hành động phòng chống mua bán người của Chính phủ Việt Nam giai đoạn 2011 đến tháng 6/2015, toàn quốc phát hiện 2.090 vụ buôn bán người, lừa bán 4.226 người dưới nhiều hình thức môi giới hôn nhân, lao động, du lịch, đẻ thuê, mua bán trẻ sơ sinh, tăng 380 vụ và tăng 501 nạn nhân bị mua bán so với giai đoạn 2005-2010. Tính riêng năm 2015, toàn quốc phát hiện xảy ra 407 vụ với 655 đối tượng, lừa bán 1.000 nạn nhân. “Nạn nhân của mua bán người chủ yếu là trẻ em và phụ nữ từ 12 đến 35 tuổi, trong đó trẻ sơ sinh cũng đã bị bắt cóc và bán cho mục đích vô nhân đạo, một số ít là nam giới trong độ tuổi từ 13 – 16. Nạn nhân phần lớn xuất thân từ vùng nông thôn, nghèo, cuộc sống khó khăn, những gia đình bất hòa, bạo lực, tệ nạn xã hội, thiếu thông tin về âm mưu thủ đoạn, tác hại của nạn mua bán người. Một số ít nam, nữ sống buông thả, đua đòi ăn chơi nên bị sa vào cạm bẫy của tội phạm mua mua bán người. Số nạn nhân khi trở về cuộc sống gặp rất nhiều khó khăn về vật chất, thiếu vốn, thiếu kiến thức, tổn thương tâm lý, sức khỏe, gặp phải sự kỳ thị của gia đình, cộng đồng xã hội. Sống trong mặc cảm tự ty, tiêu cực một số nạn nhân đã trở thành tội phạm lừa bán chính con, cháu, người thân trong gia đình, hàng xóm. Biết bao nhiêu người trong số đó đã sa vào tệ nạn xã hội” (Báo cáo tổng kết 5 năm 20112015 của UBND tỉnh Lào Cai). Công tác tiếp nhận và hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về là một trong những nhiệm vụ của chính sách an sinh xã hội, làm tốt công tác tiếp nhận, hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về sẽ góp phần bảo đảm thực hiện an sinh xã hội bền vững. Hỗ trợ nạn nhân mang tính toàn diện, liên quan tới nhiều vấn đề như sức khỏe tâm thần và thể chất, giáo dục, tâm lý xã hội, pháp lý, hành chính, hồi phục, học nghề, việc làm, thu nhập và tái hòa nhập cộng đồng. 1 Lào Cai là một tỉnh trọng điểm của nạn mua bán người, trong 5 năm gần đây tình trạng nạn nhân bị mua bán và số lượng người được nghi là mua bán ngày càng tăng lên. Xuất phát từ thực tiễn nạn mua bán người, công tác tiếp nhận, hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về tại tỉnh Lào Cai trong 5 năm qua còn nhiều khoảng trống cả về cơ chế chính sách và quá trình tổ chức thực hiện, thiếu đội ngũ nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp, chưa mang lại hiệu quả như mong đợi, bản thân em rất trăn trở, suy nghĩ làm thế nào để kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi nạn mua bán người, hỗ trợ nạn nhân có hiệu quả. Do đó em quyết tâm theo học lớp công tác xã hội và lựa chọn đề tài “Công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về từ thực tiễn tỉnh Lào Cai” làm luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2.1. Trên thế giới Buôn bán người đứng thứ ba trong nhóm tội phạm, mang lại lợi nhuận cao nhất thế giới sau buôn lậu ma túy và vũ khí. Việc buôn bán người mang lại 150 tỷ USD lợi nhuận bất hợp pháp hàng năm. Diễn biến nạn buôn bán người ở từng quốc gia, từng khu vực là rất khác nhau như: Thái Lan, Lào, Campuchia, Myanma, Malaysia, Nhật Bản, Bỉ, Hà Lan, Đức, Thổ Nhĩ Kỳ và Mỹ [4, tr. 9]. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài báo phản ánh thực trạng, nhiều chương trình hành động phòng chống buôn bán người được đưa ra. Theo báo cáo của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), hơn 21 triệu người lao động đã bị lừa bán và bị cưỡng bức lao động. Báo cáo toàn cầu về nạn buôn người của Cơ quan phòng chống ma tuý và tội phạm Liên hợp quốc (UNODC) cho thấy, không một quốc gia nào “miễn dịch” với nạn buôn bán người. Có ít nhất 152 quốc gia là điểm xuất phát và 124 quốc gia là đích đến của nạn buôn người với hơn 510 luồng buôn người trên khắp thế giới [34, tr.1,2]. Trong cuốn Cẩm nang pháp luật quốc tế và quốc gia về phòng, chống buôn bán người của Bộ Tư Pháp xuất bản năm 2010 có viết “Buôn bán người được xếp vào loại tội ác chống lại con người, bởi nó xâm phạm nghiêm trọng tới quyền con người, trong đó có những quyền cơ bản nhất như quyền tự do đi lại, quyền được bảo vệ an toàn tính mạng, sức khỏe, quyền lao động” [4, tr. 10]. Bắt đầu từ năm 2013, Liên hợp quốc lấy ngày 30/7 hàng năm là ngày Thế giới phòng chống buôn bán người. Phát biểu về vấn đề này, Tổng thư ký Liên Hợp 2 Quốc Ban Ki-moon trong thông điệp cho ngày thế giới phòng chống buôn bán người kêu gọi ủng hộ cho Quỹ Tín thác Tình Nguyện Liên Hợp Quốc Hỗ trợ cho Nạn nhân bị Buôn bán: Một thể chế làm việc mới phối hợp với các tổ chức phi chính phủ trên toàn cầu nhằm hỗ trợ nạn nhân của vấn nạn này, cung cấp nơi ở, các dịch vụ y tế cơ bản, đào tạo nghề và trường học, cũng như hỗ trợ về mặt tâm lý, pháp lý và kinh tế. Ông kêu gọi: "Chúng ta cũng phải hỗ trợ một cách có ý nghĩa cho những người khó khăn, bao gồm sự bảo vệ, tiếp cận pháp lý và cứu trợ. Tôi hoan nghênh các nhà hảo tâm đã tài trợ cho Quỹ Tín thác Tình Nguyện Liên Hợp Quốc Hỗ trợ cho Nạn nhân bị Buôn bán để giúp đỡ cho hàng nghìn nạn nhân. Nhân dịp này, tôi cũng kêu gọi sự đóng góp to lớn hơn nữa để trợ giúp hàng triệu nạn nhân khác của vấn nạn này để họ có thể bước tiếp trong cuộc sống của mình" [Ban Ki-moon (2012) Hội nghị thường niên -Thụy Sỹ]. Trong bài báo gần đây nhất, Human Trafficking Is More Than Sex Trafficking and Prostitution: Implications for social work (Mua bán người, hơn cả mại dâm và buôn bán tình dục: Những ảnh hưởng của nó tới Công tác xã hội) năm 2012, đã đề cập tới một vấn đề mới trong buôn bán người: Không chỉ là bóc lột tình dục mà còn để bóc lột sức lao động và ăn cắp nội tạng. Nhóm tác giả nhận định rằng chủ đề này đã không được thảo luận rộng rãi trong công tác xã hội và nhấn mạnh tới nhiệm vụ công tác xã hội (CTXH) thúc đẩy nhân quyền và công bằng kinh tế và xã hội. Nhóm tác giả cũng nêu ra các phương thức để liên kết giữa phòng chống mại dâm và phòng chống buôn bán người nói chung, từ đó gợi một mô hình cho lĩnh vực CTXH trợ giúp nạn nhân bị buôn bán [35, tr. 9]. Chính phủ các nước Commit với nghiên cứu Hậu Buôn bán người trải nghiệm và thách thức của nạn nhân bị buôn bán trong quá trình tái hòa nhập khu vực Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng đã đưa ra những thách thức trong quá trình tái hòa nhập, những vấn đề trong việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ tái hòa nhập của các nạn nhân bị buôn bán ở 6 nước thuộc tiểu vùng sông Mê Kông. Nghiên cứu được thực hiện trong khuôn khổ sáng kiến về tái hòa nhập cấp khu vực, thuộc khung đề xuất dự án 5 (PPC5) nhằm đánh giá tính hiệu quả của quá trình và cơ cấu tái hòa nhập trong khu vực. Nghiên cứu được thực hiện dựa trên các cuộc phỏng vấn sâu với 252 nạn nhân bị buôn bán, qua đó đã làm sáng tỏ những điểm mạnh và điểm yếu tồn tại trong cơ chế và quá trình tái hòa nhập, qua đó tác động mạnh mẽ 3 đến những nhà hoạch định chính sách và những người làm công tác hỗ trợ nạn nhân bị buôn bán [19,tr.5]. 2.2. Tại Việt Nam Cuốn sách Tìm hiểu các chuẩn mực quốc tế và pháp luật của một số nước về phòng, chống buôn bán người được Vụ pháp luật Hình sự- Hành chính viết năm 2010 đã mô tả rất rõ những thông tin cần thiết liên quan đến pháp luật quốc tế và kinh nghiệm lập pháp của các nước về phòng, chống buôn bán người. Nhóm tác giả cho rằng: “Tội phạm buôn bán người, đặc biệt là buôn bán phụ nữ, trẻ em đang là một vấn nạn nhức nhối, diễn biến phức tạp và có xu hướng gia tăng ở quy mô toàn cầu. Cùng với ma túy và vũ khí, nạn nhân bị buôn bán đã trở thành một loại hàng hóa đem lại lợi nhuận cao trong thị trường của bọn tội phạm.”[5, tr 9] Trong tài liệu “Công tác xã hội với nạn nhân mua bán người” do Th.s Nguyễn Hiệp Thương chủ biên được viết dưới góc nhìn của công tác xã hội, tài liệu đã đưa ra cái nhìn khái quát về các vấn đề của nạn nhân bị mua bán gặp phải và quy trình hỗ trợ nạn nhân bằng các phương pháp công tác xã hội. Tác giả cho rằng: “Mua bán người luôn được hiểu như là một hệ quả của nghèo đói do đại đa số những phụ nữ và trẻ em bị buôn bán đều xuất phát từ các vùng nông thôn và từ các gia đình nông dân nghèo. Cha mẹ thông thường có trình độ học vấn thấp, giáo dục gia đình kém. Nhiều gia đình còn gặp phải các vấn đề như rượu chè, bạo lực, tàn tật, cha mẹ đơn thân, ly dị hoặc có cuộc sống không hạnh phúc. [27, tr. 14] Qua cái nhìn của tác giả đã cho ta thấy rằng cốt lõi nguyên nhân gốc rễ của buôn bán người đó chính là sự nghèo khổ. Cuốn sách “Cẩm nang pháp luật quốc tế và quốc gia về phòng, chống buôn bán người” do Vụ Pháp luật Hình sự- Hành chính, Bộ Tư pháp tổ chức biên soạn đã khái quát những nội dung cơ bản về các văn kiện pháp luật, các chính sách xã hội quốc tế và Việt Nam về buôn bán người giúp những người làm công tác với nạn nhân và mọi người có được sự hiểu biết và kiến thức cơ bản về vấn đề buôn bán người [4, tr. 5-6]. Nghiên cứu “Công tác xã hội đối với phụ nữ, trẻ em bị mua bán trở về từ thực tiễn Ngôi nhà Bình yên” của tác giả Đỗ Thị Minh Nhâm đã đi sâu vào nghiên cứu một mô hình cung cấp dịch vụ hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về. Đề tài tìm hiểu các dịch vụ hỗ trợ tại chính Ngôi nhà Bình Yên, cho thấy các thuận lợi và cả 4 những thách thức trong quá trình trực tiếp hỗ trợ nạn nhân bị mua bán từ đó có những biện pháp để nâng cao hiệu quả cho hoạt động hỗ trợ nạn nhân bị mua bán được chuyên nghiệp hơn [21, tr.10]. Tác giả Lê Thị Qúy với cuốn sách “Ngăn ngừa nạn buôn bán phụ nữ ở Việt Nam” đã mô tả khá chi tiết về thực trạng buôn bán phụ nữ qua biên giới ở Việt Nam những năm 1990 của thế kỷ XX cũng như những ứng phó của Chính phủ nước ta về vấn đề này [25, tr12]. 2.3.Tại Lào Cai Trong Chương trình hành động phòng chống mua bán người giai đoạn 20052010 Đề án “Tiếp nhận, hỗ trợ nạn nhân là phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nước ngoài trở về giai đoạn 2007-2010 trên địa bàn tỉnh Lào Cai” do UBND tỉnh Lào Cai phê duyệt tháng 2 năm 2007, đã đề cập tới việc nâng cao nhận thức và hành động trong các cấp, các ngành, đoàn thể và toàn xã hội về công tác phòng chống buôn bán phụ nữ, trẻ em nói chung và công tác tiếp nhận, hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho những nạn nhân bị buôn bán từ nước ngoài trở về nhằm tạo việc làm, ổn định cuộc sống bền vững cho các nạn nhân, đồng thời ngăn chặn và hạn chế tình trạng phụ nữ và trẻ em bị buôn bán tại Lào Cai [32, tr. 1-6]. Dự án “Hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về tái hòa nhập cộng đồng tại địa bàn tỉnh Lào Cai” do Tổ chức Vòng tay Thái Bình - Pacifik Linh (PALS) của Mỹ tài trợ được thực hiện từ tháng 04/2010 nhằm hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng toàn diện, bền vững cho nạn nhân bị buôn bán tại Lào Cai. Dự án gồm có các hoạt động chính: Hỗ trợ xây dựng chính sách của tỉnh về tiếp nhận hỗ trợ nạn nhân. Truyền thông nâng cao năng lực tiếp nhận thông tin của cộng đồng, hỗ trợ nạn nhân tại Nhà Nhân Ái. Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác hỗ trợ phụ nữ, trẻ em tại ngôi Nhà Nhân Ái, Chi cục phòng chống TNXH, trung tâm Công tác xã hội và cán bộ hỗ trợ, tiếp nhận nạn nhân [33, tr. 1]. Tóm lại các nghiên cứu về buôn bán người, hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về mới chỉ dừng lại dưới góc độ pháp luật, xã hội. Các nghiên cứu mới chỉ tìm hiểu về thực trạng, nguyên nhân, những khó khăn thách thức với các nạn nhân bị mua bán trở về. Rất ít nghiên cứu đề cập đến một mô hình tiếp nhận, hỗ trợ toàn diện, đồng bộ, khoa học mang lại hiệu quả toàn diện, bền vững có tính thực tiễn cao. 5 Nghiên cứu “Công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về từ thực tiễn tỉnh Lào Cai” là một đề tài còn mới mẻ, không trùng lặp ai và rất cấp thiết. Tại Lào Cai chưa có nghiên cứu nào về vấn đề này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nhằm làm sáng tỏ vấn đề lý luận và thực tiễn công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về từ thực tiễn tỉnh Lào Cai. Phát hiện những thiếu sót, lỗ hổng trong chính sách và công tác xã hội đối với nạn nhân của mua bán người, nhằm đề xuất các giải pháp phù hợp, toàn diện và chuyên nghiệp nhất. 3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa cơ sở lí luận về nạn nhân bị mua bán và công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về - Đánh giá đúng thực trạng mua bán người và công tác hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về tại tỉnh Lào Cai trong 5 năm gần đây. - Nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng đến công tác hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về - Định hướng và cách thức vận dụng công tác xã hội cá nhân trong việc tiếp nhận, hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về một cách có hiệu quả. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Phạm vi nghiên cứu - Thời gian nghiên cứu: 06 tháng, từ tháng 01/2016 đến tháng 06/2016 - Thời hạn nghiên cứu: Từ năm 2011-2015. - Không gian nghiên cứu: Nhà Nhân Ái, Trung tâm Công tác xã hội tỉnh Lào Cai; một số xã phường trong tỉnh Lào Cai. - Nội dung nghiên cứu: Công tác xã hội cá nhân đối với nạn nhân vị mua bán trở về. 4.2. Đối tượng nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về từ thực tiễn tỉnh Lào Cai - Khách thể nghiên cứu: + Những nạn nhân bị mua bán trở về đang tạm trú tại nhà Nhân Ái, trung tâm Công tác xã hội tỉnh Lào Cai, nạn nhân đã trở về gia đình, cộng đồng. 6 + Các cá nhân đơn vị trong việc thực hiện công tác hỗ trợ cho nạn nhân bị mua bán trở về như: Cán bộ Chi cục Phòng, chống tệ nạn xã hội tỉnh Lào Cai; Nhân viên công tác xã hội tại nhà Nhân Ái và trung tâm Công tác xã hội tỉnh Lào Cai. + Gia đình có nạn nhân bị mua bán trở về + Cán bộ, đoàn thể ở địa phương nơi có nạn nhân bị mua bán trở về. + Các cơ chế chính sách và dịch vụ hỗ trợ nạn nhân tại tỉnh Lào Cai 5. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở phương pháp luận - Nghiên cứu một cách có hệ thống và có tính lịch sử, - Dựa trên Quan điểm duy vật biện chứng - Sử dụng thuyết nhu cầu của A.Maslow; lý thuyết về tái hòa nhập cộng đồng; - Nghiên cứu hệ thống luật: Hiến pháp, luật, nghị định, thông tư liên quan tới mua bán người và hỗ trợ nạn nhân của mua bán người. 5.2. Phương pháp nghiên cứu 5.2.1. Phương pháp phân tích tài -liệu Mục đích: Hệ thống, khái quát những vấn đề lý luận liên quan đến nạn mua bán người, hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về - Nội dung: Tiến hành thu thập các thông tin (tài liệu, báo cáo khoa học, báo cáo đánh giá, tổng kết, công trình nghiên cứu…) có liên quan đến cơ sở lý luận của đề tài - Cách tiến hành: Đọc các tài liệu và nghiên cứu, phân tích số liệu, lượng giá, sau đó hệ thống hóa thành cơ sở lý luận của đề tài. - Kết quả: Qua việc thu thập và tham khảo các tài liệu liên quan, hệ thống hóa được các nội dung nghiên cứu tại chương 1 về cơ sở lý luận của đề tài. 5.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu - Mục đích: Nhằm thu thập được các thông tin sâu, chi tiết về nguyên nhân cũng như tác hại của nạn buôn bán người với các cá nhân, gia đình và xã hội. Những chính sách, dịch vụ mà nạn nhân đã nhận được, tính phù hợp hay chưa phù hợp. Những vấn đề kỳ thị và tự kỳ thị của nạn nhân phải đối mặt khi trở về. - Nội dung: Đặt những câu hỏi cho cá nhân. Khuyến khích họ chia sẻ thông tin về các vấn đề của mình. 7 - Cách tiến +hành: Số lượng đơn vị phỏng vấn: 20 người. + Cách tiến hành: Sau khi đã lựa chọn, tiến hành phỏng vấn và ghi chép lại những thông tin thu thập được (trên cơ sở sự đồng ý của người được phỏng vấn) dưới các hình thức: ghi âm, chụp ảnh, ghi chép nhanh bằng sổ tay cá nhân,... - Kết quả: Những thông tin thu thập được tổng hợp và phân tích cho thấy các quan điểm cá nhân về nạn mua bán người, công tác hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về được sinh động và xác thực hơn. 5.2.3. Phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi - Mục đích: Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi được sử dụng nhằm thu thập các ý kiến, đánh giá của nạn nhân về vấn đề mình gặp phải và cảm nhận của họ khi tạm trú tại cơ sở hỗ trợ nạn nhân bị buôn bán (Nhà Nhân Ái). - Cách tiến hành: + Thiết kế phiếu phỏng vấn, tham khảo ý kiến chuyên gia và các nhà quản lý + Tập huấn cho nhân viên công tác xã hội về cách phỏng vấn và ghi chép + Số lượng mẫu: 50 mẫu + Cách chọn mẫu: Chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống - Kết quả: Sau khi xử lý các số liệu thu được từ bảng hỏi và khái quát, phân tích về thực trạng công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về từ thực tiễn tỉnh Lào Cai. 5.2.4. Phương pháp xử lý thông tin bằng thống kê toán học - Mục đích: Phương pháp này được sử dụng nhằm tổng hợp và xử lý những thông tin đã thu thập được từ dạng tổng thể sang những thông tin cá biệt phù hợp với nội dung nghiên cứu của đề tài. - Nội dung: Số liệu thu được sau điều tra chính thức được xử lý bằng chương trình Microsoft Excel. - Cách tiến hành: Mã hóa các thông tin và tiến hành tính toán. - Kết quả: Phân tích chủ yếu các dữ liệu dưới 2 dạng là: tỷ lệ phần trăm và điểm số trung bình cho các câu hỏi. Qua các con số có thể giúp đánh giá về vấn đề nghiên cứu 5.3. Câu hỏi nghiên cứu - Thực trạng nạn mua bán người ở tỉnh Lào Cai đang diễn ra như thế nào? 8 - Công tác hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về tỉnh Lào Cai những năm gần đây đã đạt được những kết quả như thế nào và còn những khó khăn, thiếu sót gì? - Làm thế nào để nâng cao hiệu quả của công tác hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về tại tỉnh Lào Cai? - Việc áp dụng phương pháp công tác xã hội cá nhân vào hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về từ thực tiễn tỉnh Lào Cai đem lại hiểu quả như thế nào? 5.4 Giả thuyết nghiên cứu - Thực trạng mua bán người tại tỉnh Lào Cai đang diễn biến phức tạp, với xu hướng ngày càng tăng, nguy cơ gây bất ổn định an ninh chính trị, trật tự xã hội. - Công tác hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về tại Lào Cai đã đáp ứng được nhu cầu của các nạn nhân bị mua bán trở về, đồng thời đã góp phần đẩy mạnh công tác phòng, chống mua bán người, giúp ổn định xã hội. Tuy nhiên, công tác tiếp nhận và hỗ trợ nạn nhân vẫn còn bộc lộ một số thiếu sót về cơ chế chính sách, các dịch vụ hỗ trợ và đội ngũ nhân viên CTXH - Cần có những định hướng và giải pháp tổng thể cũng như các giải pháp đặc thù của CTXH, trong đó tập trung vào giải pháp đổi mới thể chế, để nâng cao hơn nữa chất lượng công tác hỗ trợ nạn nhân bị buôn bán trở về tại tỉnh Lào Cai - Phương pháp công tác xã hội cá nhân áp dụng trong việc hỗ trợ nạn nhân tương đối chuyên nghiệp và đem lại hiệu quả cao. 5.5. Những khó khăn của nghiên cứu Tiếp cận nạn nhân có sự khác nhau giữa các cơ sở hỗ trợ và địa phương theo đặc điểm và nhu cầu, sự cá biệt hóa nạn nhân chưa được tôn trọng. Khó khăn trong việc tiếp cận nạn nhân, sự mặc cảm, tự ty, không hợp tác của một số nạn nhân, sự từ chối của chính người thân nạn nhân trong gia đình, cộng đồng. Sự khác biệt ngôn ngữ đồng bào dân tộc thiểu số. 5.6. Vấn đề đạo đức nghiên cứu Được thực hiện một cách nghiêm túc trong suốt quá trình nghiên cứu, trong khi phỏng vấn nạn nhân và các nhân viên công tác xã hội bảo đảm tính tự nguyện, không ép buộc, bảo mật thông tin cá nhân. 9 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu “Công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về từ thực tiễn tỉnh Lào Cai”; là tài liệu tham khảo hữu ích đối với công tác nghiên cứu và đào tạo về công tác xã hội tại các cơ sở có đào tạo về công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của đề tài, có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan, đơn vị làm việc về lĩnh vực tiếp nhận hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về như Chi cục Phòng chống TNXH, Sở Lao động TBXH, Biên phòng, công an, Hội liên hiệp phụ nữ, các Trung tâm công tác xã hội, cơ sở tiếp nhận và hỗ trợ nạn nhân… 7. Cơ cấu của luận văn Kết cấu của đề tài có các phần Mở đầu, Nội dung, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục; trong đó, phần nội dung gồm có 3 chương Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận về công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về Chƣơng 2. Thực trạng nạn nhân bị mua bán trở về và công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về từ thực tiễn tỉnh Lào Cai Chƣơng 3. Định hướng và giải pháp bảo đảm thực hiện công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về. 10 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NẠN NHÂN BỊ MUA BÁN TRỞ VỀ 1.1. Khái niệm, đặc điểm và nhu cầu của nạn nhân bị mua bán trở về Trong phạm vi của nghiên cứu này các khái niệm được sử dụng liên quan đến định nghĩa phổ biến trong các văn kiện của luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên Hợp Quốc về phòng chống buôn bán người hay Nghị định thư Palermo và luật pháp Việt Nam hoặc các nghị đinh về Phòng, chống mua bán người. Các thuật ngữ “mua bán” và “buôn bán” được sử dụng song song với ý nghĩa tương đồng do các văn bản luật trên thế giới và trong nước chưa có quy định thống nhất về vấn đề này 1.1.1. Khái niệm buôn bán người, nạn nhân bị buôn bán, nạn nhân bị mua bán trở về Tại Điều 3, Nghị định thư của Liên Hợp Quốc về phòng, chống và trừng phạt 1.1.1.1. niệm buôn việc buôn Khái bán người (đặcbán biệtngười là phụ nữ và trẻ em) quy định: a) "Buôn bán người" có nghĩa là việc mua bán, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp và nhận người nhằm mục đích bóc lột bằng cách sử dụng hay đe doạ sử dụng vũ lực hay bằng các hình thức ép buộc, bắt cóc, gian lận, lừa gạt, hay lạm dụng quyền lực hoặc vị thế dễ bị tổn thương hay bằng việc đưa hay nhận tiền hay lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của một người đang kiểm soát những người khác. Hành vi bóc lột sẽ bao gồm, ít nhất, việc bóc lột mại dâm những người khác hay những hình thức bóc lột tình dục khác, các hình thức lao động hay phục vụ cưỡng bức, nô lệ hay những hình thức tương tự nô lệ, khổ sai hoặc lấy các bộ phận cơ thể; b) Việc một nạn nhân của việc buôn bán người chấp nhận sự bóc lột có chủ ý được nêu tại Khoản a trên đây sẽ không được tính đến nếu bất kỳ một cách thức nào nêu trong khoản a đã sử dụng; c) Việc mua, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hay nhận một đứa trẻ nhằm mục đích bóc lột sẽ bị coi là "buôn bán người" ngay cả khi việc này được thực hiện không cần dùng đến bất kỳ cách thức nào được nói đến trong khoản (a) điều này; d) "Trẻ em" có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi ”.[18, tr. 5]. 11 Theo Điều 3, Luật Phòng chống mua bán người của Quốc hội Việt Nam số 66/2011/QH12 ngày 29/3/2011 quy định mua bán người là bao gồm các hành vi “Tuyển mộ, vận chuyển, môi giới, chứa chấp, chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác” [23, tr. 8]. Khái niệm mua bán người được hiểu một cách chung nhất là “Việc một cá nhân, nhóm hay tổ chức có liên quan đến việc vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp người thông qua lừa đảo hoặc cưỡng chế, bắt ép, đe dọa, tước đoạt quyền con người và đẩy họ vào tình trạng bị bóc lột dưới nhiều hình thức như: bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, phục dịch, nô lệ hoặc làm việc tương tự như nô lệ nhằm mục đích bóc lột và kiếm lời cho mình”.[27, tr. 9] Quá trình buôn bán người thường gồm 3 bước: Bước 1: Dụ dỗ nạn nhân tại nơi sinh sống hoặc nước xuất phát Bước 2: Vận chuyển nạn nhân qua tay các chủ chứa (kẻ buôn người) các nước trung gian/qua các biên giới quốc tế hoặc trong nội địa nước xuất phát Bước 3: Khai thác nạn nhân vì vụ lợi tại nước đến Nạn buôn bán người hiện nay đang diễn ra dưới nhiều hình thức tinh vi và xảo trá. Trên thế giới, dù là nước giàu hay nước nghèo đều có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi loại hình tội phạm mua bán người. 1.1.1.2. Khái niệm nạn nhân bị mua bán Theo Điều 4, Quyết định số 17/2007/QĐ-TTg ngày 29/01/2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế tiếp nhận và hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nước ngoài trở về thì “Nạn nhân quy định trong Quy chế này là phụ nữ, trẻ em bị một người hay một nhóm người sử dụng vũ lực, đe dọa sử dựng vũ lực hay những hình thức ép buộc khác, bắt cóc, lừa gạt, lạm dụng quyền lực hay địa vị, tình trạng dễ bị tổn thương để mua bán (giao, nhận tiền hoặc giao, nhận một lợi ích vật chất khác) đưa ra nước ngoài nhằm mục đích bóc lột (cưỡng bức bán dâm hoặc các hình thức bóc lột tình dục khác, lao động hoặc dịch vụ cưỡng bức, nô lệ hoặc làm việc như tình trạng nô lệ hoặc lấy đi các bộ phận trên cơ thể)” 12 Theo Điều 2, Luật Phòng chống mua bán người của Quốc hội Việt Nam số 66/2011/QH12 ngày 29/3/2011 quy định Nạn nhân của mua bán người là người bị xâm hại bởi các hành vi “Tuyển mộ, vận chuyển, môi giới, chứa chấp, chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác” [23, tr. 10]. Theo Tiến sỹ Rebecca Surtees (2013) Hậu buôn bán người – Học viện nghiên cứu NEXUS đã nêu: “Nạn nhân là để chỉ một người đã trở thành nạn nhân của một loại hình tội phạm và không bị đề cập tới cơ quan hay bất cứ đặc điểm nào khác của người đó”. Nạn nhân bị buôn bán là người có đầy đủ các dấu hiệu xác định là nạn nhân bị buôn bán theo Điều 3 của Nghị định thư hoặc theo Luật phòng, chống mua bán người của từng nước [19, tr. 51- 52]. Từ những quan điểm trên, có thể đưa ra khái niệm một cách dễ hiểu nhất: “Một người được xác định là nạn nhân của mua bán người khi người đó bị một đối tượng dụ dỗ, rủ rê, lừa bán, đưa đi khỏi địa phương đến một địa phương khác trong cùng một nước hoặc sang một nước khác và cuối cùng bị khai thác vì vụ lợi cá nhân hay tiền bạc”. 1.1.1.3. Khái niệm nạn nhân bị mua bán trở về Hiện nay chưa có khái niệm nào đề cập đến vấn đề này, nhưng ta có thể hiểu “Nạn nhân bị mua bán trở về là những người đã bị một người hay một nhóm đối tượng dụ dỗ, lừa bán hay bắt cóc, ép buộc đưa đi khỏi địa phương này đến một địa phương khác hay một nước khác để khai thác, bóc lột nhưng đã trốn thoát hoặc được giải cứu thành công trở về”. Trong thực tế: Các nạn nhân của buôn bán người đã từng bị tra tấn; bị giam cầm bất hợp pháp; bị cưỡng bức tình dục, cưỡng bức lao động; bị ép nợ nần; gia đình và người thân bị đe dọa; bị chịu các hình thức bạo hành về thể chất, tình dục và tâm lý khác. Nạn nhân của buôn bán người có thể ở trong các ngành và các môi trường khác nhau, cụ thể như: công nghiệp tình dục; công xưởng bóc lột sức lao động công nhân; môi trường giúp việc gia đình; làm nông nghiệp và nông trại; ngư nghiệp; ngành xây dựng; ăn xin đường phố. Những người dễ bị tổn thương trong xã hội, nhất là người nghèo, người thiếu cơ hội học tập, việc làm, những người đang 13 sống trong bối cảnh chịu ảnh hưởng của nền chính trị không ổn định, chiến tranh, phân biệt tôn giáo, sắc tộc trong xã hội, vì mong ước có được cơ hội tốt hơn khiến họ dễ bị lừa gạt, dụ dỗ bởi những lời hứa hão huyền về một cuộc sống tốt đẹp nơi miền đất hứa của bọn buôn người và thường bị rơi vào vòng xoáy khủng khiếp của nạn buôn bán người. Khái niệm tái bị mua bán: Tái bị mua bán được hiểu là “Khi một người đã thoát ra khỏi hoàn cảnh bị buôn bán nhưng sau đó lại rơi vào một tình cảnh khác. Một người có thể đã thoát ra khỏi tình trạng bị buôn bán, trở về nhà và sau đó lại bị tái buôn bán. Họ bị điều chuyển từ nơi bóc lột này sang một nơi bóc lột khác” [19, tr.52]. Việc buôn bán người có thể diễn ra ở phạm vi trong nước và xuyên quốc gia. Ở phạm vi trong nước, người bị buôn bán thường bị di chuyển liên tiếp từ tỉnh này sang tỉnh khác nhằm cắt đứt mối liên hệ với gia đình và người thân quen. Ở phạm vi xuyên quốc gia, việc buôn bán người thực hiện bằng cách đưa người qua biên giới và liên quan đến nhiều hơn một nước, bao gồm: nước gửi là nơi nạn nhận được tuyển chọn; nước trung chuyển là nơi lộ trình buôn bán đi qua và nước đích là nơi nạn nhân bị mua và bóc lột.. 1.1.2.Đặc củabán nạntrở nhân bị mua về chung nhất về tâm lý, thể Nạn nhânđiểm bị mua về có nhữngbán đặctrởđiểm chất, xã hội và pháp lý. Trải qua quá trình bị mua bán họ bị lừa dối, bị đánh đập, đe dọa, ép buộc và cưỡng bức gây nên những tổn thương sâu sắc về cả thể chất lẫn tinh thần. Họ trở thành những nạn nhân yếu thế trong xã hội, bị tước đoạt danh dự, các quyền con người giấy tờ cá nhân và phải chịu những cái nhìn dò xét, khinh bỉ của xã hội. Hơn ai hết những nạn nhân bị mua bán người cần được tất cả xã hội cảm thông, nhìn nhận thấu đáo hơn. Với những đặc điểm riêng biệt khi phải chịu nhiều tổn thương, nạn nhân bị mua bán trở về cần được hỗ trợ và tư vấn tâm lý để phần nào giảm những tổn thương không đáng có. 1.1.3. Nhu cầu của nạn nhân bị mua bán trở về Nạn nhân bị mua bán trở về cũng có đặc điểm nhu cầu chung như nạn nhân của ma túy, mại dâm, bên cạnh đó họ còn có những nhu cầu hỗ trợ riêng như nhu cầu hỗ trợ về tâm lý, phục hồi thể chất, hỗ trợ về nơi ăn, ở ban đầu, nơi ở lâu dài bảo đảm 14 an ninh; hỗ trợ pháp lý các thủ tục cấp hộ chiếu, xuất nhập cảnh, cấp lại hộ khẩu, chứng minh thư nhân dân, bởi khi bị lừa bán đi khỏi gia đình địa phương, họ đã bị bọn buôn người thu giữ hoặc hủy hết giấy tờ tùy thân, bị cơ quan chức năng địa phương cắt hộ khẩu sau 6 tháng rời khỏi địa phương. Hỗ trợ cấp giấy khai sinh cho con khi nạn nhân mang theo con về nước; hỗ trợ giáo dục kỹ năng sống; học nghề, tìm việc làm, vay vốn, hỗ trợ vốn khó khăn ban đầu khi mới trở về. Hỗ trợ tái hòa nhập gia đình, cộng đồng, phòng chống kỳ thị phân biệt đối sử, phòng chống tái mua bán. 1.2. Nhu cầu, khái niệm công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về 1.2.1. Nhu cầu công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về Ở nhiều quốc gia, Công tác xã hội (CTXH) đã được xem là một nghề mang tính chuyên nghiệp với sự tham gia đông đảo của đội ngũ nhân viên xã hội được đào tạo ở các trình độ cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ. Trong khi Việt Nam giai đoạn 2000-2005 về trước, CTXH chưa trở thành một nghề chuyên nghiệp. Tuy nhiên, trước những biến đổi hết sức to lớn của quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra như vũ bão, những thách thức khắc nghiệt của biến đổi khí hậu, thiên nhiên với hàng loạt vấn đề xã hội cần giải quyết như bạo lực gia đình, nghèo đói, thất nghiệp, ma túy, mua bán người…Việt Nam rất cần có những nhân viên CTXH chuyên nghiệp. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, năm 2004 mã đào tạo nghề này đã được Bộ Giáo dục & Đào tạo đưa vào hệ thống đào tạo. Tiếp đó, ngày 25 tháng 3 năm 2010, Thủ Tướng Chính phủ đã có Quyết định số 32/QĐ-TTg phê duyệt đề án phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010 – 2020. Điều này chứng tỏ Đảng và Nhà nước ta đang hết sức quan tâm đến vấn đề đào tạo ngành CTXH trong bối cảnh hiện nay. Chủ trương tăng cường sự tham gia của nghề CTXH, vào trợ giúp xã hội trong đó có đề án 32, đề án 1215 với 30.000 cán bộ được bồi dưỡng, đào tạo về CTXH trong làm việc với các đối tượng yếu thế. Xã hội càng phát triển thì càng nhiều vấn đề xã hội nổi lên đòi hỏi cần những biện pháp khắc phục. Một trong những vấn đề nóng bỏng hiện nay chính là nạn mua bán người. Nạn nhân của mua bán người gặp rất nhiều vấn đề về sức khỏe tinh thần, thể chất, khó khăn về kinh tế, không được tiếp cận với các dịch vụ xã hội trong quá 15 trình hòa nhập nên rất cần đến nhân viên công tác xã hội trợ giúp để tái hòa nhập thành công. Nhân viên công tác xã hội là người được đào tạo bài bản chuyên nghiệp về công tác xã hội, có đủ bản lĩnh, đạo đức nghề nghiệp, giữ vững các nguyên tắc, thái độ tôn trọng, chấp nhận, thấu cảm và có kỹ năng trong suốt quá trình hỗ trợ nạn nhân bị mua bán và gia đình họ. Từ nghiên cứu thực tiễn cho thấy làm tốt công tác xã hội đối với nhân bị mua bán trở về chính là một trong nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội bền vững. Hiện có hàng nghìn nạn nhân bị mua bán trở về nếu không được trợ giúp hoặc kết nối các dịch vụ hỗ trợ xã hội kịp thời để tiếp sức cho họ vươn lên tự giải quyết các vấn đề khó khăn của bản thân họ sẽ rơi vào bước đường cùng, bị đói nghèo, bệnh tật, tệ nạn xã hội, bất bình đẳng, sẽ làm cho cộng đồng xã hội rối loạn, bất ổn. Do đó việc thực hiện tốt công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về vừa là một nhu cầu, vừa là trách nhiệm của cộng đồng xã hội, là quan điểm đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong vấn đề đổi mới xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trong bối cảnh toàn cầu hóa. Do đó nhu cầu công tác xã hội đối với nạn nhân của mua bán người là một nhu cầu thiết thực và nhân văn. Sự xuất hiện và phát triển của nghề CTXH chuyên nghiệp là tất yếu khách quan, đáp ứng nhu cầu cấp thiết trong việc kết nối các dịch vụ hỗ trợ một cách toàn diện, hiệu quả và bền vững cho nạn nhân bị mua bán trở về nói riêng và các vấn đề xã hội nói chung; góp phần quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề của đối tượng yếu thế, điều chỉnh những “khuyết tật” của xã hội, hướng tới xây dựng một xã hội phát triển hài hoà, bình đẳng và hạnh phúc cho mọi người. 1.2.2. Khái niệm công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua bán trở về Theo Hiệp hội công tác xã hội thế giới: “Nghề Công tác xã hội thúc đẩy sự thay đổi xã hội, giải quyết vấn đề trong mối quan hệ của con người, tăng năng lực và giải phóng cho người dân nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày càng thoải mái, dễ chịu. Vận dụng các lý thuyết về hành vi con người và hệ thống xã hội, Công tác xã hội tương tác vào những điểm giữa con người với môi trường của họ. Nhân quyền và Công bằng xã hội là các nguyên tắc căn bản của nghề”. [20, tr.19]. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan