Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Công tác xã hội cá nhân đối với trẻ tự kỷ từ thực tiễn trung tâm phục hồi chức n...

Tài liệu Công tác xã hội cá nhân đối với trẻ tự kỷ từ thực tiễn trung tâm phục hồi chức năng trẻ tàn tật thụy an, hà nội

.PDF
86
2804
123

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ LAN LY CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN ĐỐI VỚI TRẺ TỰ KỶ TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM PHỤC HỒI CHỨC NĂNG TRẺ TÀN TẬT THỤY AN, HÀ NỘI Chuyên ngành: Công tác xã hội Mã số: 60 90 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC GS.TS.LÊ THỊ QUÝ Hà Nội, 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam kết luận văn của mình được thực hiện dựa vào hiểu biết và quá trình tìm tòi, cố gắng, thực hiện của bản thân cùng sự hướng dẫn của GS.TS. Lê Thị Quý. Công trình nghiên cứu của tôi không sao chép của bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào. Các số liệu, kết quả nêu trong Luận văn là trung thực. Và các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc. Hà Nội, ngày 20 tháng 8 năm 2016 Học viên thực hiện Đỗ Lan Ly MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN ĐỐI VỚI TRẺ TỰ KỶ ................................................................................................ 10 1.1. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu ....................................................... 10 1.2. Khung pháp lý cho việc phục hồi chức năng trẻ tự kỷ .............................. 13 1.3. Các khái niệm công cụ ............................................................................... 14 1.4. Vai trò của nhân viên xã hội trong trợ giúp cho trẻ tự kỷ .......................... 22 Chương 2: THỰC TRẠNG TRẺ TỰ KỶ TẠI TRUNG TÂM PHỤC HỒI CHỨC NĂNG TRẺ TÀN TẬT THỤY AN, HÀ NỘI - ỨNG DỤNG TIẾN TRÌNH CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN ĐỐI VỚI TRẺ TỰ KỶ TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM ........................................................................................... 26 2.1. Thực trạng chung về trẻ tự kỷ và công tác xã hội đối với trẻ tự kỷ hiện nay tại Việt Nam ................................................................................................. 26 2.2.Khái quát chung về trẻ tự kỷ ......................................................................... 28 2.3. Một số đặc điểm của Trung tâm Phục hồi chức năng trẻ tàn tật Thụy An, Hà Nội ................................................................................................................. 36 2.4. Các hoạt động điều trị và phục hồi chức năng cho trẻ tự kỷ tại trung tâm Thụy An............................................................................................................... 37 2.5. Công tác xã hội cá nhân nghiên cứu với trường hợp cụ thể từ thực tiễn trung tâm ............................................................................................................. 39 Chương 3: KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI ỨNG DỤNG TIẾN TRÌNH CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM PHỤC HỒI CHỨC NĂNG TRẺ TÀN TẬT THỤY AN, HÀ NỘI ....................................... 50 3.1. Hoàn thiện chính sách chính sách ................................................................ 50 3.2. Tuyên truyền nâng cao nhận thức ................................................................ 50 3.3. Tăng cường các dịch vụ y tế, giáo dục......................................................... 51 3.4. Công tác xã hội trong lĩnh vực trợ giúp trẻ tự kỷ......................................... 51 KẾT LUẬN ......................................................................................................... 54 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 59 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT Chữ viết tắt Chữ đầy đủ 1 CTXH CÔNG TÁC XÃ HỘI 2 CTXHCN CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN 3 CTV CỘNG TÁC VIÊN 4 NVXH NHÂN VIÊN XÃ HỘI 5 PHCN PHỤC HỒI CHỨC NĂNG MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Khi sinh con ra cha mẹ nào cũng mong con khỏe mạnh, bình an; và sự trưởng thành của mỗi đứa trẻ được đánh giá thông qua những mốc phát triển về thể chất và tâm lý. Mỗi trẻ có thể có các biểu hiện “lệch mốc” như bộc lộ trí thông minh vượt trội, chiều cao, cân nặng vượt chuẩn, hay nói sớm hoặc chậm nói hơn so với trẻ cùng tuổi nhưng cũng có những biểu hiện khác lại ẩn chứa các triệu chứng của một dạng khuyết tật mà thông thường gia đình hay nhà trường cũng như những người xunh quanh không thể nhận ra và không có đủ chuyên môn để chẩn đoán. Tự kỷ là một trong những khuyết tật thuộc dạng này, vì khác với các dạng khuyết tật về thể chất, trẻ tự kỷ sinh ra bình thường như mọi trẻ khác, thậm chí trẻ có các triệu chứng của tự kỷ đôi khi bị hiểu nhầm là trẻ hư, trẻ nghịch hay trẻ không được cha mẹ quan tâm, hoặc trẻ tự kỷ đôi khi có các đặc điểm và biểu hiện như một thần đồng…Trong giai đoạn này, nếu không được can thiệp kịp thời, tự kỷ có thể gây cho trẻ rất nhiều khó khăn trong cuộc sống và nếu nặng sẽ trở thành một dạng khuyết tật suốt đời, đối với nhiều trẻ tự kỷ, tuổi thơ dường như bị mất, bị lu mờ và gây ra những tổn thương sâu sắc khi trưởng thành. Tại Việt Nam, chính phủ đã ban hành nhiều chính sách cũng như luật dành cho trẻ em và trẻ khuyết tật, có rất nhiều hoạt động cũng được triển khai và triển khai thành công. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đã được ghi nhận, có một bộ phận không nhỏ trẻ khuyết tật, đặc biệt là trẻ tự kỷ chưa được quan tâm một cách đầy đủ và chưa nhận được sự hỗ trợ hiệu quả từ nhà nước và xã hội. Về mặt lý luận, tự kỷ là một dạng khuyết tật, trẻ tự kỷ là một trong những đối tượng gặp nhiều khó khăn nhất, và ngày càng có xu hướng gia 1 tăng. Trên thế giới, ở các nước như Anh, Mỹ, Canada …có các Luật riêng dành cho trẻ tự kỷ, điều này cho thấy, tự kỷ thực sự là một dạng khuyết tật với các đặc tính riêng và cần nhận được quan tâm đúng mức từ nhà nước, pháp luật và xã hội. Nhờ có hành lang pháp lý mà công tác phục hồi chức năng, trợ giúp xã hội cũng như các nghiên cứu liên quan đến tự kỷ cũng được tiến hành chuyên nghiệp và thuận lợi hơn tại các quốc gia này. Ở Việt Nam hiện nay, mặc dù có xu hướng gia tăng nhưng tự kỷ vẫn chưa được pháp luật công nhận là một dạng khuyết tật và thường được đưa chung vào các dạng khuyết tật như chậm phát triển trí tuệ và không được đánh giá đúng dạng khuyết tật để có thể đưa ra các biện pháp phục hồi đúng và kịp thời, đồng thời trẻ mắc hội chứng tự kỷ cũng không được giám định và hưởng các phúc lợi xã hội dành cho trẻ khuyết tật, điều này là một thiệt thòi lớn cho các em. Trẻ khuyết tật nói chung và trẻ tự kỷ nói riêng rất cần được can thiệp một cách chuyên nghiệp và có kế hoạch cụ thể, đòi hỏi sự tham gia của nhân viên xã hội, của bác sỹ chuyên khoa, của giáo dục đặc biệt, của gia đình, nhà trường và cộng đồng. Phục hồi chức năng cho trẻ khuyết tật là một lĩnh vực không mới, công tác phục hồi chức năng cho trẻ khuyết tật nói chung đã được tiến hành từ rất lâu và có nhiều nghiên cứu hỗ trợ cho việc phục hồi chức năng đối với các dạng khuyết tật khác nhau; các hoạt động phục hồi chức năng cho trẻ tự kỷ nói riêng cũng đã được tiến hành bởi các trung tâm phục hồi chức năng, các bệnh viện chuyên khoa…. tuy nhiên đối với trẻ tự kỷ việc phục hồi chức năng gặp nhiều khó khăn do các nguyên nhân dẫn đến tự kỷ hiện nay vẫn chưa được xác định rõ ràng, các biểu hiện của tự kỷ rất đa dạng đòi hỏi các biện pháp can thiệp cần linh hoạt và chuyên sâu. Hơn nữa, kinh phí dành cho việc phục hồi chức năng lớn, với một số trường hợp việc PHCN có thể kéo dài suốt cả cuộc đời. Trong CTXH, các can thiệp đối với trẻ tự kỷ thường theo phương pháp CTXH cá nhân, tập trung khắc phục các khó khăn các em gặp 2 phải và phục hồi các chức năng xã hội cho các em. Hơn nữa, để đạt đến đích cuối cùng là trẻ có thể tự vươn lên và sống độc lập sau này, công tác PHCN không chỉ đơn thuần là các hoạt động hỗ trợ trực tiếp đối với trẻ như chẩn đoán , trị liệu y tế, tâm lý hay hành vi,… mà cần hỗ trợ các tiểu hệ thống xung quanh trẻ, ở khía cạnh này các tiến trình của CTXH trong hỗ trợ trẻ là rất cần thiết. Tuy nhiên, tại Việt Nam, CTXH mới được công nhận là một nghề, các hoạt động trợ giúp cho trẻ tự kỷ còn chưa thực sự chuyên nghiệp, công tác hỗ trợ còn gặp nhiều khó khăn. Nhằm tìm hiểu sâu hơn về hoạt động trợ giúp trẻ tự kỷ, tôi chọn đề tài nghiên cứu “Công tác xã hội cá nhân đối với trẻ tự kỷ từ thực tiễn Trung tâm Phục hồi chức năng trẻ tàn tật Thụy An, Hà Nội” cho luận văn cao học chuyên ngành công tác xã hội của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu liên quan đến trẻ tự kỷ, các nghiên cứu thường tập trung chủ yếu đến nguyên nhân, biểu hiện, nhận thức, phương pháp can thiệp đối với trẻ tự kỷ. Mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu về các nguyên nhân dẫn đến hội chứng tự kỷ song trên thực tế, khoa học vẫn chưa tìm ra nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hội chứng trên. Tại Việt Nam, trong khoảng hơn một thập niên trở lại đây, tự kỷ đã trở thành một thuật ngữ không còn xa lạ, và giới chuyên môn cũng đã dần công nhận rằng tự kỷ là một dạng khuyết tật và cần có sự can thiệp, đồng thời cũng có một số nghiên cứu về trẻ tự kỷ và hội chứng tự kỷ. Cụ thể: Đề tài “Nghiên cứu biện pháp can thiệp sớm và giáo dục hoà nhập cho trẻ tự kỷ ở nước ta hiện nay và trong giai đoạn 2011 – 2020” do GS.TS. Nguyễn Thị Hoàng Yến làm chủ nhiệm được coi là đề tài có qui mô lớn đầu tiên được triển khai tại Việt Nam, trong đó có sự phối hợp liên ngành giữa Giáo dục – Y tế - Bảo trợ xã hội, địa bàn nghiên cứu mang tính đại diện. Nhóm đã thực hiện nghiên cứu trên một số địa bàn như Hà Nội, thành phố Hồ 3 Chí Minh, Đà Nẵng, Thái Nguyên, Thái Bình và Đồng Nai với các nhiệm vụ nghiên cứu chính là xây dựng hệ thống lý luận, khảo sát thực trạng, đề xuất biện pháp, thực nghiệm và dự báo. Từ việc phân tích toàn diện thực trạng vấn đề trẻ tự kỷ, can thiệp sớm, giáo dục hoà nhập và bảo trợ xã hội cho trẻ tự kỷ ở Việt Nam, đề tài xây dựng mô hình giải quyết vấn đề trẻ tự kỷ trên cơ sở sự phối hợp liên ngành Y tế - Giáo dục - Bảo trợ xã hội. Đồng thời, đề tài đã đưa ra những dự báo có tính định hướng cho việc giải quyết vấn đề trẻ tự kỷ ở Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 cũng như những nghiên cứu tiếp theo. Đề tài “Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng của trẻ tự kỷ từ 18 đến 36 tháng tuổi” của tác giả Nguyễn Thị Hương Giang – Bệnh viện Nhi Trung ương được thực hiện dựa trên theo dõi 251 trẻ tự kỷ trong độ tuổi từ 18 đến 36 tháng. Kết quả nghiên cứu cho thấy trẻ tự kỷ ở mức độ nặng chiếm tỷ lệ cao, với một số đặc điểm chung như: Khiếm khuyết về chất lượng quan hệ xã hội như: Không giao tiếp bằng mắt (86,9%), không biết gật đầu hay lắc đầu khi đồng ý hoặc phản đối (97,6%), Thích chơi một mình (94,8%), không biết khoe khi được đồ vật (976%), không đáp ứng khi được gọi tên (96,8 %). Khiếm khuyết về chất lượng giao tiếp: Phát ra một chuỗi âm thanh khác thường (82,1%), không biết chơi giả vờ (98,4%)…. Nhiều trẻ tự kỷ không được phát hiện sớm. Tác giả nghiên cứu dựa trên luận điểm rằng trẻ tự kỷ nếu được can thiệp sớm sẽ có nhiều cơ hội phục hồi và tái hòa nhập xã hội, do đó việc trẻ được chẩn đoán sớm để phát hiện triệu chứng tự kỷ là một trong các điều kiện tiên quyết cho việc phục hồi chức năng cho trẻ hiệu quả. Tại Việt Nam hiện nay, chưa có nhiều đề tài nghiên cứu đặc điểm lâm sàng của trẻ tự kỷ, do vậy đề tài đã thể hiện được tính cấp thiết và thực tiễn, đóng góp cho việc phát hiện sớm các dấu hiệu trẻ tự kỷ để có thể đưa ra các biện pháp can thiệp sớm, giúp trẻ có thêm cơ hội phục hồi. 4 Về phục hồi chức năng cho trẻ tự kỷ, tại Việt Nam hiện đã ban hành tài liệu kỹ thuật “Cuốn 11: PHCN cho trẻ tự kỷ”, chủ biên Thứ trưởng Bộ Y tế, TS. Nguyễn Thị Xuyên. Đây là tài liệu hướng dẫn phục hồi chức năng cho trẻ tự kỷ dựa vào cộng đồng, mang tính thực tế cao, hướng tới trợ giúp trẻ khuyết tật nói chung và trẻ tự kỷ nói riêng sớm hòa nhập cộng đồng. Đối tượng của tài liệu là cán bộ và cộng tác viên PHCN tại cộng đồng, gia đình có trẻ tự kỷ, đồng thời tài liệu cũng cung cấp một số thông tin cần thiết về các dịch vụ để cha mẹ của trẻ có thể tham khảo. Ngoài ra, một trong các nghiên cứu nổi bật về nhận thức của trẻ tự kỷ là bài viết “Nhận thức của trẻ tự kỷ”, Ngô Xuân Điệp, Tạp chí Tâm lý học, số 10 (115).10 – 2008, trong đó tác giả đã tiến hành đánh giá mức độ nhận thức của trẻ tự kỷ thông qua các công cụ đánh giá, để từ đó đưa ra các biện pháp chăm sóc giáo dục phù hợp. Thông qua các đánh giá, tài liệu đã chỉ ra rằng có tỷ lệ khá cao trẻ tự kỷ chậm phát triển theo độ tuổi, và đây cũng là nguyên nhân chính dẫn đến sự hạn chế trong khả năng nhận thức của trẻ, và phần lớn trẻ tự kỷ có mức độ nhận thức kém và rất kém. Do khả năng nhận thức của trẻ tự kỷ khác với trẻ bình thường, phương thức giáo dục trẻ tự kỷ vì vậy cũng khác các phương pháp giáo dục thông thường, đối với những trẻ có nhận thức kém hoặc rất kém, việc phục hồi chức năng cho trẻ cần gắn liền với các chương trình can thiệp đặc biệt. Và “Những khoảnh khắc lóe sáng trong tương tác mẹ con của trẻ có nét tự kỷ ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Minh Đức góp phần rất lớn về mặt lý luận cũng như đề xuất các phương pháp trị liệu đối với các trẻ tự kỷ tại nước ta. Luận án đã được ứng dụng vào một số trường chuyên biệt dành cho trẻ tự kỷ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, cuốn “Thấu hiểu và hỗ trợ trẻ tự kỷ”của các tác giả Phạm Toàn, Lâm Hiểu Minh cũng mang tính thực tế cao, đây là một cuốn sách đưa 5 ra cái nhìn tổng quan nhất cũng như các biểu hiện lâm sàng dễ nhận biết nhất về hội chứng tự kỷ, giúp cha mẹ có cái nhìn tổng thể và sâu sắc hơn về hội chứng này, từ đó có thể giúp trẻ được can thiệp sớm và kịp thời, giúp trẻ sớm phục hồi các chức năng và hòa nhập xã hội. Qua quá trình tổng quan tài liệu, tôi nhận thấy, đề tài về thực hành Công tác xã hội cá nhân trong can thiệp cho trẻ tự kỷ chưa có tác giả nào tiến hành nghiên cứu. Đối với người khuyết tật nói chung và trẻ tự kỷ nói riêng, CTXH là cách thức trợ giúp chuyên nghiệp và hiệu quả cần được nghiên cứu và áp dụng, đặc biệt đối với trẻ tự kỷ, CTXHCN là phương pháp phù hợp nhằm đem lại kết quả trợ giúp tốt nhất cho trẻ. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1.Mục đích nghiên cứu - Phân tích thực trạng trẻ tự kỷ tại Việt Nam nói chung và tại trung tâm PHCN trẻ tàn tật Thụy An, nguyên nhân, hệ quả và những vấn đề được đặt ra hiện nay; - Trình bày tiến trình trợ giúp trẻ tự kỷ tại trung tâm thông qua thực hành CTXH cá nhân; - Đề xuất các giải pháp trong phát triển CTXH cá nhân cho trẻ tự kỷ. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Phân tích các tài liệu thứ cấp; - Phỏng vấn sâu cha mẹ của trẻ và cán bộ tại Trung tâm; - Trình bày việc thực hành CTXH cá nhân đối với trẻ tự kỷ tại trung tâm Thụy An; - Dựa trên cơ sở các phân tích và quan sát đề xuất các giải pháp cho CTXH trong trợ giúp trẻ tự kỷ. 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1.Đối tượng nghiên cứu - CTXH cá nhân đối với trẻ tự kỷ từ thực tiễn Trung tâm PHCN trẻ tàn tật Thụy An, Hà Nội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: - Phạm vi nghiên cứu: Do điều kiện thời gian, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các tiến trình của CTXH cá nhân đối với một trường hợp cụ thể tại trung tâm Thụy An, phân tích mối quan hệ giữa nhân viên xã hội can thiệp trực tiếp và trẻ tự kỷ. - Phạm vi thời gian: từ tháng 1/2016 đến tháng 6/ 2016 - Phạm vi không gian: Trung tâm Phục hồi chức năng trẻ tàn tật thụy An, Hà Nội 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận 5.1.1. Phương pháp duy vật lịch sử Chủ nghĩa duy vật lịch sử nhấn mạnh việc xem xét đánh giá một vấn đề trong một hoàn cảnh cụ thể, xác định. Theo đó, một luận điểm có thể dược coi là luận điểm khoa học trong hoàn cảnh này nhưng lại không được coi là luận điểm khoa học trong một hoàn cảnh khác. Xuất phát từ quan điểm này, một sự vật hiện tượng cần được đánh giá, xem xét và phân tích một cách khách quan dựa theo thời điểm và hoàn cảnh cụ thể. Trong khuôn khổ của luận văn, tôi mong muốn nghiên cứu các hoạt động trợ giúp trẻ tự kỷ tại thời điểm hiện tại, với bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể như hiện nay để từ đó đưa ra các nhận xét cũng như khuyến nghị đúng đắn và hợp lý liên quan đến các hoạt động CTXH đối với trẻ tự kỷ tại trung tâm Thụy An. 7 5.1.2. Phương pháp duy vật biện chứng Chủ nghĩa duy vật biện chứng xem xét và đánh giá một hiện tượng hay một sự vật đặt trong mối quan hệ tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau. Phương pháp luận này giúp cho chúng ta có cái nhìn bao quát, toàn diện và chính xác về một sự vật, hiện tượng trong mối tương quan với các sự vật hiện tượng khác. Áp dụng phương pháp luận này vào đề tài nghiên cứu, tôi xem xét, đánh giá và phân tích các hoạt động CTXH đối với trẻ tự kỷ trong mối tương quan với gia đình, nhân viên can thiệp trực tiếp và trung tâm Thụy An. Rộng hơn nữa là mối quan hệ biện chứng giữa trẻ và môi trường xunh quanh như lớp học, địa bàn nơi trẻ sống và xã hội nói chung. 5.2.Phương pháp nghiên cứu - Với đặc thù của CTXH cá nhân, tôi nghiên cứu sâu một trường hợp cụ thể để đưa ra nhận định tổng quát về CTXH cá nhân được thực hiện tại trung tâm Thụy An, để phục vụ cho mục đích này, tôi lựa chọn phương pháp nghiên cứu định tính thông qua phỏng vấn sâu: sử dụng bảng hỏi phỏng vấn sâu với một lãnh đạo của trung tâm, nhân viên làm việc trực tiếp với trẻ tự kỷ và cha mẹ của trẻ); - Thu thập thông tin, tư liệu: tôi đã thu thập thông tin, tư liệu từ các nguồn có sẵn như sách, báo, tạp chí, mạng internet, các báo cáo liên quan đến trẻ tự kỷ và các dịch vụ xã hội dành cho trẻ tự kỷ. Các thông tin được xử lý theo mục đích nghiên cứu một cách khách quan và có hệ thống; - Phương pháp quan sát: tôi quan sát trong 1 tuần các hoạt động của trung tâm xoay quanh công tác trợ giúp trẻ tự kỷ, đặc biệt là các giáo viên trực tiếp trợ giúp trẻ tự kỷ trong trường hợp được nghiên cứu và các trẻ tự kỷ trong thời gian được trợ giúp tại trung tâm, cụ thể: quan sát đời sống của trẻ tự kỷ tại trung tâm, hành vi của trẻ trong thời gian trị liệu, cách thức mà NVXH áp dụng để trợ giúp trẻ tự kỷ; 8 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của nghiên cứu 6.1. Ý nghĩa lý luận: Áp dụng lý thuyết vào trường hợp nghiên cứu cụ thể từ đó rút ra các kinh nghiệm cho bản thân và đồng nghiệp trong hoạt động trợ giúp trẻ tự kỷ. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Nghiên cứu sẽ góp phần đưa ra cái nhìn sâu hơn về trẻ tự kỷ cho trung tâm Thụy An để từ đó Trung tâm hiểu hơn về các nhu cầu và mong muốn của trẻ cũng như của gia đình trẻ nhằm đưa ra các khuyến nghị đối với các chính sách hiện hành dành cho trẻ tự kỷ hiện nay. 7. Cơ cấu của luận văn Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác xã hội cá nhân đối với trẻ tự kỷ. Chương 2: Thực trạng của trẻ tự kỷ tại Trung tâm Thụy An - Ứng dụng tiến trình Công tác xã hội cá nhân đối với trẻ tự kỷ từ thực tiễn Trung tâm. Chương 3: Kết luận và khuyến nghị trong thực hành công tác xã hội cá nhân đối với trẻ tự kỷ. 9 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN ĐỐI VỚI TRẺ TỰ KỶ 1.1. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu 1.1.1. Lý thuyết hệ thống sinh thái Lý thuyết hệ thống sinh thái là một trong những lý thuyết quan trọng trong nền tảng triết lý của công tác xã hội. Lý thuyết này bắt nguồn từ thuyết hệ thống tổng quát của Bertanlaffy (nhà sinh học người Áo, 1901 – 1972), lý thuyết của ông là một lý thuyết sinh học trong đó ông cho rằng “mọi tổ chức hữu cơ đều là một hệ thống và được tạo nên từ các tiểu hệ thống và ngược lại cũng là một phần của hệ thống lớn hơn”, theo đó con người cũng là một bộ phận của hệ thống xã hội. Sau này, lý thuyết hệ thống được các nhà khoa học khác nghiên cứu và phát triển (Hanson(1995), Mancoske(1981), Siporin(1980)…. Người có công đưa lý thuyết hệ thống áp dụng vào thực tiễn công tác xã hội phải kể đến công lao của Pincus và Minahan cùng các đồng sự khác, tiếp đến là Germain và Giterman. Những nhà khoa học trên đã góp phần phát triển và hoàn thiện thuyết Hệ thống trong thực hành công tác xã hội trên toàn thế giới. Trong CTXH, thuyết hệ thống sinh thái được tiếp cận theo hướng: con người sống trong môi trường, chịu sự tác động của môi trường và con người có thể ảnh hưởng ngược trở lại môi trường. Trong hoạt động trợ giúp cho trẻ tự kỷ, việc nghiên cứu và áp dụng thuyết hệ thống sinh thái mang ý nghĩa nhất định, đặc điểm nổi bật của trẻ tự kỷ là ít tiếp xúc với thế giới bên ngoài, thích sống thu mình và gặp khó khăn trong giao tiếp, do đó việc phục hồi lại khả năng giao tiếp để các em tái hòa nhập với môi trường xunh quanh đòi hỏi sự tham gia của gia đình, làng xóm, bạn bè, nhà trường…Sự tác động của các tiểu hệ thống xung quanh trẻ có vai trò rất lớn, góp phần giúp các em phục hồi 10 nhanh chóng hoặc ngược lại, khiến các em gặp khó khăn hơn trong hòa nhập. Do đó, để trẻ có thể tự vươn lên và hòa nhập cộng đồng sau này, NVXH không chỉ làm việc với bản thân trẻ, NVXH cần đóng vai trò là người gắn kết các tiểu hệ thống xung quanh trẻ, NVXH cần tham vấn , tư vấn tâm lý và các kỹ năng cho cha mẹ của trẻ, NVXH cần hỗ trợ trẻ ngay cả trong môi trường học tập của trẻ, để trẻ có thể phần nào hòa nhập được với bạn học và thầy cô giáo, là những người còn thiếu kinh nghiệm và chuyên môn trong giáo dục trẻ tự kỷ, và NVXH còn cần là người biện hộ cho các quyền lợi của trẻ, thay cho cha mẹ của các em để các em có thể tham gia các hoạt động xã hội, được quan tâm hơn trong các sinh hoạt cộng đồng và xa hơn là các em có thể được pháp luật công nhận là trẻ khuyết tật theo đúng bản chất vốn có. Ngoài ra, bản thân mỗi trẻ là một hệ thống với các đặc điểm tâm sinh lý khác nhau, NVXH cần tìm hiểu và nắm bắt được những điểm mạnh và điểm yếu của trẻ để từ đó giúp trẻ phát huy những điểm mạnh và khắc phục những điểm yếu trong mối tương quan với môi trường xung quanh. Hơn nữa, vận dụng lý thuyết sinh thái, NVXH và các nhà nghiên cứu có thể tìm hiểu các nguyên nhân khách quan khiến cho các triệu chứng của tự kỷ trở nên trầm trọng hơn, đặc biệt từ môi trường gia đình để từ đó tìm ra các biện pháp can thiệp cũng như tham vấn hiệu quả cho cha mẹ hay người chăm sóc, giám hộ của trẻ. 1.1.2. Lý thuyết học tập xã hội Lý thuyết học tập xã hội là một trong các lý thuyết được ứng dụng phổ biến nhất trong PHCN cho trẻ tự kỷ. Thuyết học tập xã hội bắt nguồn từ quan điểm học tập của Tarde (1843 – 1904), trong đó Tarde nhấn mạnh ý tưởng về học tập xã hội thông qua ba quy luật bắt chước: sự tiếp xúc gần gũi, sự bắt chước người khác và sự kết hợp của cả hai. Cũng bàn về phát triển nhận thức thông qua học tập, Albert Bandura (1925), đã đề xuất “Lý thuyết học tập xã hội”.Cách tiếp cận của Bandura đầu tiên có tên hành vi xã hội, rồi đến lý 11 thuyết nhận thức xã hội, và cuối cùng là lý thuyết học tập xã hội. Theo lý thuyết của Bandura, hành vi của con người là kết quả của một chuỗi học tập cá nhân thông qua bắt chước, Bandura cho rằng, trẻ bắt chước hành động của người khác dựa trên lĩnh hội sự quan sát. Đối với trẻ, cha mẹ là những người đầu tiên cung cấp các mô hình hoạt động đơn giản và cơ bản nhất thông qua đó trẻ bắt chước và lặp lại, tuy nhiên ở trẻ tự kỷ thì việc bắt chước các hành vi của cha mẹ không được ghi nhận hoặc rất hiếm hoi. Đây là một trong những dấu hiệu đầu tiên cảnh báo về việc trẻ có nguy cơ bị tự kỷ hay không. Khác với các nhà tâm lý học trước, Bandura đã cho thấy sự hiện diện thô sơ của môi trường xã hội trong lý thuyết học tập xã hội của ông. Bandura coi nhân cách của một con người như một quá trình tiếp cận giao thoa giữa (1) Môi trường – (2) Hành vi – (3) Quá trình phát triển tâm lý mỗi cá nhân. Học thuyết của Bandurra nổi bật bởi hai điểm: (1) Học thông qua quan sát hay còn gọi là rập khuôn và (2) Khả năng tự quản. Lý thuyết học tập xã hội sẽ là nền tảng cơ bản cho hình thức trị liệu hành vi đối với trẻ tự kỷ tại gia đình và cũng được các NVXH áp dụng trong các buổi trị liệu cho trẻ tại các trung tâm. Hơn nữa, sự tiếp cận giao thoa giữa môi trường và hành vi nhấn mạnh thêm sự ảnh hưởng của môi trường xung quanh đến trẻ tự kỷ mà nhân tố đầu tiên là gia đình. Sự tham gia của gia đình là một trong các nhân tố quan trọng nhất trong hoạt động trợ giúp trẻ tự kỷ, do đó để điều chỉnh hành vi và khôi phục các chức năng xã hội, trước hết NVXH cần trợ giúp cha mẹ hay người giám hộ của trẻ để các em có thể hòa nhập tại chính gia đình, với cha mẹ và người thân của mình. Thuyết học tập xã hội không chỉ được áp dụng để giải thích cho hành vi mà còn được sử dụng để điều chỉnh hành vi. Đối với các hoạt động PHCN cho trẻ tự kỷ, vận dụng thuyết học tập xã hội nhằm điều chỉnh hành vi cho trẻ thông qua các hành vi mẫu từ đó nâng cao khả năng nhận thức cho trẻ tự kỷ, 12 lý thuyết học tập xã hội được sử dụng để can thiệp trị liệu cho trẻ có thể mang lại các kết quả khả quan. Nhìn chung, PHCN cho trẻ tự kỷ là một hoạt động phức tạp, đòi hỏi nhiều công sức và tiền bạc, cũng như các hoạt động PHCN khác với trẻ khuyết tật, các lý thuyết là nền tảng để các nhà chuyên môn áp dụng và vận dụng một cách linh hoạt, kết hợp các lý thuyết trong quá trình thực hành để đạt được kết quả tốt nhất. 1.2. Khung pháp lý cho việc phục hồi chức năng trẻ tự kỷ Ngày 17/6/2010, Quốc hội ban hành Luật Người khuyết tật (Luật NKT), có hiệu lực vào ngày 01/01/2011 thay thế cho Pháp lệnh về người tàn tật năm 1998. Luật Người khuyết tật ra đời đã mang lại những lợi ích to lớn cho hàng triệu người khuyết tật trên cả nước, tuy nhiên, trong các dạng khuyết tật được pháp luật quy định từ trước cho tới nay, bao gồm Luật Người khuyết tật, không có thuật ngữ “tự kỷ”. Trên thực tế, khái niệm “tự kỷ” mới xuất hiện tại Việt Nam chỉ khoảng hai thập kỷ trở lại đây, trên thế giới, khái niệm này được biết đến sớm hơn từ khoảng sáu bảy mươi năm trước và đã có rất nhiều nghiên cứu liên quan đến tự kỷ với nỗ lực tìm ra nguyên nhân và giải pháp chữa trị tuy nhiên không có nhiều ghi nhận về thành công, nguyên nhân dẫn đến tự kỷ cho đến nay vẫn còn là chủ đề gây nhiều tranh cãi. Hơn nữa, tự kỷ không giống với bất kỳ dạng khuyết tật nào được biết đến từ trước đến nay, và trong một thời gian dài đã được coi là một “bệnh” và có thể chữa được, mà không phải là một dạng tật mang tính suốt đời. Trong một vài năm trở lại đây, nhận thức về tự kỷ đã có nhiều thay đổi, trước tiên, về mặt lý luận, tự kỷ đã được công nhận là một dạng khuyết tật, và các nỗ lực để tự kỷ, đặc biệt là trẻ tự kỷ được coi là trẻ khuyết tật và cần được hưởng các chính sách dành cho trẻ khuyết tật đang được tiến hành tại khắp các cơ quan, tổ chức liên quan và từ các khuyến nghị mạnh mẽ của các gia 13 đình có trẻ mắc hội chứng này. Một trong những thành quả của các nỗ lực trên là sự ra đời của Quyết định 1019/QĐ-TTg ngày 05 tháng 08 năm 2012 của thủ tướng chính phủ về phê duyệt “Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012-2020”. Theo đó, người mắc chứng rối loạn tự kỷ được “hỗ trợ triển khai giáo dục hòa nhập ở các cấp học thông qua việc xây dựng chương trình, tài liệu; bồi dưỡng chuyên môn cho cán bộ quản lý,… bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên trực tiếp dạy…. tự kỷ”, tuy chưa có giá trị về mặt pháp lý trong việc đưa tự kỷ vào một trong các dạng khuyết tật được pháp luật công nhận nhưng đây cũng là một bước tiến trong việc chính phủ và các ban ngành đang cố gắng để tự kỷ được công nhận là một dạng khuyết tật. Chính thức, tháng 12/2014, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, đại diện là Cục Bảo trợ xã hội cho biết ngành lao động - xã hội đang nỗ lực xây dựng tài liệu hướng dẫn về vấn đề tự kỷ, tập huấn cán bộ của ngành để hướng dẫn các địa phương triển khai thực hiện xác định mức độ khuyết tật cho trẻ tự kỷ, để các em được hưởng các chính sách dành cho người khuyết tật. Tuy nhiên, việc sửa đổi Luật Người khuyết tật theo hướng đưa tự kỷ vào một trong các dạng khuyết tật là cần thiết, nhằm tạo hành lang pháp lý cho các công tác chẩn đoán, hỗ trợ, và các chính sách khác liên quan đến người tự kỷ đặc biệt là trẻ tự kỷ. 1.3. Các khái niệm công cụ 1.3.1. Trẻ em Theo Công ước quốc tế về quyền trẻ em : “ trong phạm vi của Công ước này, trẻ em có nghĩa là những người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em có qui định tuổi thành niên sớm hơn”. Công ước này được 192 của 194 nước thành viên phê duyệt, trong đó Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới đã ký phê duyệt. Luật Bảo vệ và chăm sóc trẻ em của Việt Nam năm 2004 quy định “trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. 14 Theo Từ điển bách khoa toàn thư Wikipedia, về mặt sinh học, trẻ em là con người, ở giữa giai đoạn từ khi sinh ra đến khi dậy thì Về mặt xã hội học, trẻ em là giai đoạn xã hội hóa mạnh nhất và là giai đoạn đóng vai trò quan trọng của quá trình hình thành nhân cách mỗi con người. Có sự khác biệt giữa các quốc gia trong việc quy định độ tuổi của trẻ em, nhưng nhìn chung, về mặt thực tiễn, mọi quốc gia đều công nhận rằng trẻ em là những công dân nhỏ tuổi, đang trong giai đoạn phát triển về thể chất, tâm sinh lý, năng lực xã hội và trình độ nhận thức. Do đó, trẻ em là đối tượng được pháp luật ưu tiên bảo vệ, được toàn xã hội quan tâm và hỗ trợ. Trong khuôn khổ của luận văn này, tôi chỉ giới hạn nghiên cứu trẻ ở độ tuổi nhỏ 16 – 36 tháng tuổi, là giai đoạn đầu đời, khởi đầu cho mọi quá trình phát triển, và trong lĩnh vực tự kỷ, đây là giai đoạn quan trọng để có thể phát hiện và đưa ra các biện pháp can thiệp kịp thời, nhằm giúp trẻ có nhiều cơ hội phục hồi và hòa nhập xã hội. 1.3.2. Hội chứng tự kỷ ở trẻ em Tự kỷ có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp “autós” nghĩa là ‘cái tôi, tự bản thân”. Thuật ngữ này được sử dụng lần đầu tiên bởi bác sỹ tâm thần Eugen Bleuler. Ông đã dùng thuật ngữ này để mô tả triệu chứng rút lui xã hội của các bệnh nhân mắc chứng tâm thần phân liệt và các triệu chứng trầm cảm khác. Hội chứng tự kỷ (Autism Spectrum Disorders) được mô tả lần đầu tiên vào năm 1943 bởi bác sỹ tâm thần học người Mỹ gốc Áo, Leo Kanner (1894 – 1981), Kanner đã mô tả một nhóm gồm 11 trẻ có những biểu hiện phát triển không bình thường như, có những khiếm khuyết về tương tác xã hội, khiếm khuyết trong quá trình phát triển ngôn ngữ, có những hành vi kỳ lạ lặp đi lặp lại nhiều lần, khởi phát sớm trước 3 tuổi, thuật ngữ Tự kỷ đã được Kanner dùng để mô tả các triệu chứng trên.Năm 1944, một bác sỹ nhi người Áo là 15 Hans Asperger đã mô tả một dạng tự kỷ nhẹ hơn Kanner mô tả rất nhiều. Sau này, người ta lấy tên ông đặt cho rối loạn này gọi là hội chứng Asperger. Từ khi được biết đến, tự kỷ được mô tả bằng các khái niệm khác nhau, trong đó có thể kể đến khái niệm khá đầy đủ và mang tính tổng quát “Tự kỷ là một loại khuyết tật phát triển suốt đời được thể hiện trong vòng 3 năm đầu đời. Tự kỷ là do rối loạn của hệ thần kinh gây ảnh hưởng đến hoạt động của não bộ. Tự kỷ có thể xảy ra ở bất kỳ cá nhân nào không phân biệt giới tính, chủng tộc, giàu nghèo và địa vị xã hội. Tự kỷ được biểu hiện ra ngoài bằng những khiếm khuyết về tương tác xã hội, khó khăn về giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, và hành vi, sở thích và hoạt động mang tính hạn hẹp và lặp đi lặp lại”[20] Ngoài ra, theo Trung tâm Kiểm soát và ngăn ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (Centers for Disease Control and Prevention viết tắt là CDC), rối loạn phổ tự kỷ là một hội chứng có thể gây ra những khó khăn nghiêm trọng về xã hội, giao tiếp và hành vi, với tỷ lệ trung bình là cứ 110 trẻ em tại Mỹ thì có 1 em bị mắc hội chứng này. Có lẽ trong tiếng Việt, vẫn chưa có định nghĩa cụ thể cho tự kỷ. Tuy nhiên, khái niệm tự kỷ đã được trình bày bởi nhiều nhà chuyên môn. Ví dụ: Tự kỷ là một rối loạn phát triển kéo dài suốt đời, ảnh hưởng đến cách giao tiếp và quan hệ của một người đối với người xung quanh. Trẻ tự kỷ bị tổn thương trong tương tác xã hội, giao tiếp xã hội và tưởng tượng. Trẻ cũng có hành vi lặp đi lặp lại và nhạy cảm giác quan.Những trẻ này có khuynh hướng gặp khó khăn trong học tập và nhiều trẻ bị khiếm khuyết về trí tuệ. 1.3.3. Công tác xã hội cá nhân Công tác xã hội cá nhân được hình thành bắt đầu vào cuối những năm 1800, khởi đầu từ việc Hiệp hội các tổ chức từ thiện ở Anh (Charity Organization Society) hướng tới việc trợ giúp cá nhân theo hoàn cảnh của 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan